← Quay lại trang sách

Chương một

Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện bằng vụ rớt máy bay vì đó là duyên cớ cho tôi gặp gỡ Jennifer. Nhưng trước tiên, bạn cần phải làm quen với đôi bàn tay của tôi.

Tôi ra đời mang theo tai họa ở đôi bàn tay của mình. Có những nếp gấp bằng thịt ở giữa các kẽ tay làm cho chúng trông giống như bên trong của chiếc dù khi đóng lại. Nếu mỗi đêm tôi không cọ rửa bằng bàn chải thì chúng sẽ đầy ghét. Bác sĩ Morrison là người khuyên tôi làm điều đó. Má đưa tôi đến cho ông khám khi tôi lên năm. Không phải khám tay, mà tôi nghĩ rằng lúc đó tôi bị chứng quai bị hay bệnh gì đó nhưng bác sĩ Morrison lại để ý đến bàn tay. Ông nâng đôi tay tôi lên như thể chúng là những đĩa CD và lật qua lật lại xem. Ngay chính lúc đó, với vẻ cau mày lo ngại và xem xét chăm chú của ông, lần đầu tiên tôi cảm thấy buồn bực về chúng.

Má nói: “Ồ, chúng tôi đã quen với điều đó rồi. Chẳng ai thấy sao hết“. Ý bà là, sau khi ra đời, tôi đã được đưa đến vô số bác sĩ và bệnh viện để khám tay mà chả ai phán được chút gì về nguyên do chúng lại như thế. Nhưng chẳng hề gì, vì chúng có ảnh hưởng gì đến ai đâu.

Bác sĩ Morrison nói: “Tôi không biết mình đã từng thấy thứ gì như thế này chưa. Mặt khác… ha ha ha…! Tôi không có ý đùa cợt gì nhé, nếu chúng hoạt động bình thường thì…“

Má cắt lời: “Dường như thằng bé chẳng thấy có gì rắc rối cả.” Rồi bà mỉm cười với tôi.

Bác sĩ Morrison nói: “Cứ để y như vậy là hay nhất. Chỉ cần đảm bảo cậu nhóc phải giữ chúng thật sạch. Kỳ cọ kỹ lưỡng giữa các kẽ tay mỗi đêm. Nếu không thì kẹt về vụ vệ sinh lắm à nha.“

Đây là điều chúng tôi - tôi, má và ba - nghĩ về đôi tay của tôi. Những thứ phải được kỳ cọ. Duy nhất chúng được nhắc đến là vào mỗi đêm khi má bảo tôi kỳ rửa chúng thật kỹ. Ba thì chẳng bao giờ nhắc đến chúng, dù chỉ một lần. Nhưng có khi tôi bắt gặp ông ngó chúng chăm chăm, như khi tôi với tay lấy lọ bơ chẳng hạn.

Thật ra có lần ông nhắc đến chúng, hay suýt nhắc đến chúng. Tôi có một thói quen kỳ quặc là thích duỗi căng các ngón tay ra. Khi duỗi ra như thế thì làn da giữa các kẽ lại kêu lên lắc cắc sột soạt. Tôi có thể tả cho bạn nó kêu như thế nào vì có lần tôi nghe được thứ âm thanh gần giống như vậy. Nó nghe như tiếng lá khô bay lượn trong hành lang khi có người mở cửa trước. Tiếng khá lớn, và nó thường làm cho ba phát bực mình. Thường khi tôi làm thế, ông chỉ yên lặng trừng mắt ngó tôi cho tới lúc tôi phải ngó lảng đi. Có lần ông nổi giận, la lên:

“Trời ơi, mày dẹp trò đó ngay giùm tao.“

“Dẹp cái trò gì ạ?” tôi hỏi lại.

Ông lại phát khùng lên. Ông nghĩ tôi giở trò láu cá nhưng thật ra tôi đâu dám. Tôi chỉ không biết trả lời như thế nào cho đúng thôi.

“Mày biết dẹp cái trò gì mà,” ông nói. “Không thì tao phải bắt mày mang bao tay à. Nếu mà tao kiếm được một đôi đủ bự cho tay của mày.“

Tôi dẹp trò duỗi các ngón tay thẳng ra khi láng cháng gần ông.

Trong ngày đầu tiên đến trường, một đám đông học trò bu lại quanh tôi ngoài sân chơi để cố nhìn cho được đôi tay. Bởi vì đông quá, cả đám đều chen nhau chí mạng, nên có đứa la lên. “Nào, mày hãy giơ tay lên cao xem, thằng Cả Quỷnh.” Nghe vậy, tôi liền giơ hai tay cao lên khỏi đầu, cả đám cười lăn chiêng. Sau một hai ngày thì chúng chán đôi tay tôi, nhưng trong suốt thời gian ở tiểu học, ít nhất mỗi ngày một lần, có đứa nào đó chợt nhớ đến và la lên. “A, Cả Quỷnh, giơ tay lên nào,” thì tôi lại giơ tay lên, rồi cả đám cười rộ. Tôi cũng cười, tôi đâu có ngu. Và tôi hoàn toàn không phải là thằng nhút nhát. Tôi khá khỏe, đặc biệt là đôi tay, cho dù trông tôi có vẻ yếu đuối. Nhưng tôi chả dại gì mà chọi với năm thằng cùng một lúc. Và dù sao đi nữa, tôi chỉ phải giơ tay lên thôi mà, sau cả đám được dịp cười một mẻ đã đời rồi thì yên chuyện, dù gì cũng yên được một lúc, chỉ vậy thôi.

Cái tên Cả Quỷnh đeo dính suốt thời tiểu học và lên đến trung học. Ngày đầu tiên ở trường phổ thông Sir Roger de Coverley không khá tí nào. Cứ như là bước ra trước đám đông 67 ngàn người ở sân bóng Old Trafford, trừ việc họ không cổ vũ mà họ lại cười ồ lên. Thêm nữa, nhiều đứa còn móc di động ra chụp hình rồi gởi cho bạn bè, có lẽ gởi ra khắp thế giới. Bọn nhóc này trước đây tôi chưa từng gặp, chúng đến từ các trường trong khắp thành phố, có vẻ như chúng đều biết chuyện đôi tay tôi. Có vẻ như chúng đều đang chờ. Thậm chí chúng còn hò hét như một đám phát rồ quái gở. “Cả Quỷnh, Cả Quỷnh!” Có một điều thật tệ là cả bọn con gái cũng gào lên như thế. Mà tôi lại khoái con gái, thế mới khổ! Trước đây, ở tiểu học hầu như học sinh toàn là bọn con trai gà tồ.

Ngày nào cũng tệ. Cứ như là thức dậy nhìn vào gương thì thấy một vết đốm bự chảng bằng cái dĩa nằm ngay trên trán. Một núi lửa có các cạnh màu đỏ và một cái lỗ màu vàng là nơi dung nham sẽ phụt trào ra. Không, còn tệ hơn vậy nữa kìa. Cứ như là hai cái núi lửa, tươi rói xì khói ngùn ngụt, mỗi ngày. Tôi thích trời vào mùa đông, thật là lạnh. Khi đó tôi có thể mang găng tay. Mỗi khi nhiệt độ trong lớp học hạ xuống thì tôi cũng có thể mang găng trong lớp nữa. Thật là tuyệt, được che kín hai tay suốt cả ngày với lý do thật chính đáng. Tôi luôn mặc một chiếc áo thùng, ngay cả khi vào mùa hè oi bức cũng mặc. Nó có túi to đằng trước giống như cái lỗ mà tôi có thể chôn tiệt hai tay vào.

Thật là buồn cười về mấy cái tên. Khi tôi xuống London, người ta không gọi tên nào khác ngoài tên cúng cơm của tôi: Graham (đó là không kể những cái tên mà đôi khi cậu George và Derek gọi tôi, như là Joe Nhóc, hay Joe Ngố, hay Charlie Mặt-Nhọn). Trước đây tôi chưa từng đến London nhưng chuyện tên tuổi này làm tôi ngay lập tức thấy mình như đang ở quê. Và quê nhà thật của tôi là nơi mà người ta gọi tôi bằng những cái tên xấu xí và ghét tôi thậm tệ, ngay cả chính ba má tôi cũng ghét nữa. Ba thì đã đành. Má thì còn phức tạp hơn.

Thế đấy, tình cảnh là vậy đó, tôi sẽ kể tiếp câu chuyện khủng khiếp đã xảy ra liền ngay đây. Tôi và ba má sống trong một căn hộ ở vùng ngoại ô một thành phố không lớn lắm, khu công nghiệp Yorkshire. Khi tôi nhắc tới vùng này với người London, nếu họ không bảo rằng chưa từng nghe đến nó, thì cũng nghĩ rằng nó nằm trong thành phố Dales bởi vì đó là khu Yorkshire duy nhất mà họ biết. Nhưng không có quán trà kiểu cổ nào ở quanh khu chúng tôi. Từ cửa sổ phòng ngủ tôi thấy được hai mỏ than và những ngọn tháp làm nguội của nhà máy điện. Những ngọn tháp lớn này trông giống như mấy cái vại đựng cà phê nóng hôi hổi, có những cụm mây ngùn ngụt hơi nước chầm chậm bốc lên. Giữa ngôi nhà và phần gần nhất của mỏ than là một đường xe ô-tô và một đường sắt. Đường sắt này chạy về London. Các chuyến tàu réo còi ầm ĩ dọc theo nó vào ban đêm. Khi nghe chúng, tôi lại nghĩ đến trò cờ bạc thâu đêm suốt sáng; mấy gã béo phệ, giàu có bước ra khỏi một khách sạn khổng lồ, đi vào khu Park Lane [1] mà không ý thức được giờ giấc hay thậm chí ngày tháng gì cả.

Ngôi nhà của chúng tôi là một khối gạch trên một khu đất có khoảng năm mươi hay một trăm khối gạch tương tự như thế. Dân cư sống trong đó đều làm những công việc có dính dáng đến đường hỏa xa, hay nhà máy điện, hay các mỏ than. Họ lái các xe ô-tô của công ty như những chiếc Vauxhall Vectras, mặc đồng phục, cầm bảng kẹp hồ sơ, thủ những cái mũ bảo hộ và đôi ủng thô để ra vào công trường. Ba tôi bán xi-măng. Đặc quyền của ông là lấy xi-măng không mất tiền để xây một hòn non bộ. Một chiếc xe tải sàn phẳng khổng lồ chạy đến chỉ để giao có mỗi một bao xi-măng.

Cửa trước của nhà chúng tôi khác với mọi cánh cửa của những ngôi nhà khác. Nó được sơn màu gỗ với những ô vuông bằng kính giả kiểu cổ giống như đáy chai. Các ngôi nhà kia có những thứ khác, như những cánh cửa chớp chỉ để làm cảnh (quá hẹp để che đủ cửa sổ và thế nào đi nữa thì chúng cũng được đóng đinh dính vào tường). Rồi dần dà các ngôi nhà bắt đầu trông khang khác nhau tí chút. Nhưng điều đó không lừa được tôi. Với tôi, chúng đều luôn luôn giống y chang như nhau.

Tôi nhớ vào khoảng bảy giờ, bước ra khỏi cổng mé hông của ngôi nhà thì gần như là đi thẳng ra ngoài đồng trống. Lúc đó thật là khoái. Tôi muốn nói là, buổi sáng thức dậy quả là không tệ và tôi có thể gần như đi suốt cả giờ mà không phải bận tâm nghĩ ngợi gì về đôi tay mình. Tôi la cà với bọn nhóc trong khu nhà. Ở trường, chúng là những đứa đầu têu trong việc gào lên Cả Quỷnh này, Cả Quỷnh nọ…, nhưng trong những ngày nghỉ chúng lại rất nhút nhát và chẳng nhắc nhở gì đến đôi tay tôi. Chúng tôi đạp xe tà tà loanh quanh rồi chạy xuống giao lộ đường sắt để ngó những chuyến tàu nhanh rú còi chạy ngang về London. Cạnh bên giao lộ đường sắt là một dòng suối nhỏ chúng tôi bắt cá gai ở đấy bằng những chiếc lưới màu xanh lục sáng móc ở đầu mấy cây gậy tre. Chúng tôi bỏ cá vào lọ đựng mứt rồi mang về nhà, nhưng chúng chẳng bao giờ sống quá vài ngày. Tôi làm một nghĩa trang mai táng cho cá gai ở cuối vườn. Tôi trôi lướt qua mùa hè đó như bông bồ-công-anh lãng du bay qua những cánh đồng. Nhưng những điều hay ho, thậm chí những thứ chỉ tàm tạm được, lại chẳng bao giờ kéo dài. (Này bạn, chú ý nhé! Tên tôi là Graham Sinclair. Đây là sự khôn ngoan của tôi đấy.)

Tôi đang đạp xe xuống một con đường nằm giữa hai cánh đồng thì một gã đàn ông bước ra khỏi đám bụi rậm, hai tay giơ lên trời. Cái lối giơ tay của gã làm tôi nhớ đến tay cảnh sát giao thông trong một bộ phim hài được dựng ở Ý mà tôi đã xem (gã bị một chiếc Fiat trên đường chạy trốn tông phải ngã văng tưng). Gã có mái tóc xám bù xù trông thể như bạn có thể quẹt một que diêm vào làâ nó bùng cháy. Gã nói rằng gã làm việc cho đội mật vụ và đang có công tác mật theo dõi bọn tội phạm hoạt động trong vùng. Gã nói trông tôi ra dáng nhân viên mật vụ oách lắm. Liệu tôi có muốn tham gia với gã không? Tôi không hỏi thẻ công tác của gã nhưng gã cũng trao tôi một cái. Nó đáng ngó qua lắm chứ. Tôi ngượng nếu cầm cái thẻ quá lâu hay đường hoàng đọc nó vì lỡ mà gã phát hiện ra đôi tay của tôi rồi buông lời bình luận về chúng thì quả là rách việc. Tôi trả cái thẻ lại và nói mình phải đi ngay. Gã nói: “Trước khi gia nhập, cậu phải đi khám. Chỉ để bảo đảm cậu có sức khỏe thuộc loại trên cả tuyệt vời.“

Tuy vậy, tôi đâu có khờ. Tôi leo lên xe đạp một mạch về nhà. Tôi chần chờ mất hai ngày trước khi kể lại với má, tôi không biết vì sao tôi lại làm vậy. Cảnh sát đến. Ba nổi giận vì tôi đã chần chờ mà không kể lại ngay. Cảnh sát chẳng tìm ra ai cả. Sau vụ đó tôi không được phép ra ngoài cánh đồng và tha thẩn chơi một mình nữa.

Chuyện đó chẳng có gì quan trọng cả, vì thế nào đi nữa thì đất và các cánh đồng trống cũng biến mất, vì thế cho dù tôi được phép rong chơi ngoài đó thì chúng cũng không còn nữa, nhà cửa dần dà mọc lên phủ lấp chúng rồi. Và những con đường nữa. Thậm chí dòng suối nhỏ cũng bị phủ lấp mất luôn. Khu rừng bảo vệ cây sồi huyền hoặc bị đốn hạ, hiển nhiên luôn cả cây sồi cũng bị đốn. Những tảng đá xưa mà chúng tôi đã cho là cổng vào trung tâm địa cầu thì bị xe tải chở đi đâu mất biệt.

Cứ như là một giấc mơ mà trong đó chẳng hề có thứ gì quanh chúng tôi cả, ngoại trừ những ngôi nhà được cất thêm. Mỗi ngôi nhà có một cái cây nhỏ khẳng khiu trong khu vườn trước. Mấy cái cây được cột ghép vào những cây cọc bằng một đoạn dây cao su màu xanh, trong mùa đông chúng phai đi thành màu xám, rồi mục nát mất. Kế bên những ngọn cây là các nắp cống có lỗ trũng trông giống như chiếc khay mà má hay dùng làm bánh pudding theo kiểu Yorkshire. Chúng tôi ăn món thịt bò nướng và bánh Yorkshire vào mỗi Chủ nhật. Khi trời đổ mưa thì các cửa sổ bốc mờ hơi nước, và tôi thường bị mắng vì tội làm những lỗ cửa trong màn hơi nước để nhìn ra ngoài. Đêm đêm, tôi mơ mòng lắng nghe tiếng xe lửa chạy về London. Co ro cuộn mình lại như đứa trẻ trong bụng mẹ, hai bàn tay kẹp êm giữa hai đầu gối.

* * *

Lên mười hai tuổi, vào cuối năm học đầu tiên ở Sir Roger de Coverley, tôi đánh bạn với một đứa tên là Brian. Chúng tôi không chơi thân với nhau. Ngay lúc đó tôi đã biết thế. Nhưng không có ai chịu chơi với chúng tôi nên hai đứa đành chơi với nhau. Brian to con, vụng về và khá là thô lỗ. Không chỉ thô lỗ với tôi thôi, mà với tất cả mọi người khác, đó là phần nào lý do vì sao không ai ưa hắn. Tôi biết hai đứa đi với nhau trông rất tếu vì người ta thường bật cười khi thấy chúng tôi đi ngang, đôi khi ngay cả người lớn cũng cười như thế. Chắc là tôi phải thấp hơn Brian đến cả tấc, thêm nữa, tôi lại gầy gò và có vẻ yếu ớt so với hắn (tất nhiên là ngoại trừ đôi tay). Tôi biết ơn hắn một điều: Hắn chẳng bao giờ nhắc nhở gì đến đôi tay tôi. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng vì hắn tốt. Hắn chỉ không muốn tôi nhắc một điều gì đó của hắn để trả đũa, như hai bàn chân to kếch sù của hắn hay cái cách hắn nhón bước trên những đầu ngón chân, nghiêng về phía trước trên đôi bàn chân khổng lồ, cái cách những tay khật khùng hay làm.

Tôi đạp xe đến nhà Brian chơi trong những ngày nghỉ khi cha mẹ và tay anh trai của hắn vắng nhà. Chúng tôi xem các tạp chí “tươi mát” của anh hắn. Hai đứa ngồi bên nhau yên lặng trên giường của anh hắn, Brian lật giở từng trang. Một ngày nọ, hắn cưỡi xe đạp đến gặp tôi ở lối đi. Hắn chờ tôi. Hắn nói rằng vừa phát hiện được một điều bí mật. Tôi theo hắn xuống gần rìa con đường sắt. Giờ thì mọi thứ đã được xây lên. San sát dày đặc những là đường xá với đại lộ. Hắn dẫn tôi len qua một khoảng trống giữa hàng rào. “Đó, thấy chưa!” hắn khoe.

Đó là một cái rãnh. Sâu và khô ráo. “Mình hãy làm một cái hang, một cái sào huyệt”, hắn nói. Hắn đá chiếc giày thể thao cỡ số 10 vào đất cát.

“Cái hang ư?” tôi hỏi. Xưa rồi Diễm, hang là dành cho bọn nhóc tì thơ dại, mà bọn tôi đâu còn thơ dại gì nữa chứ. Giờ đây chúng tôi đã biết xem loại tạp chí “tươi mát” rồi kìa. “Nè Brian, mình đâu còn là nhóc tì nữa,” tôi nói.

“Không phải nhóc tì, không“, Brian đáp, ”nhưng mày có những điều bí mật, phải vậy không nào?” và trong thoáng giây tôi nghĩ rằng hắn đã biết bí mật của mình. Tôi thấy nóng bừng mặt. Một cách nào đó hắn đã khám phá ra bí mật của tôi, và tất cả chuyện lăng nhăng này chỉ có thế. Hắn không thật sự muốn làm bạn với tôi, hắn chỉ muốn làm thân với tôi để khám phá thêm về bí mật của tôi mà thôi. Nhưng tôi đang hoảng sợ quá thể. (Thế nào đi nữa thì lúc đó tôi đã hoang mang lắm. Nhưng như người ta thường nói, khi bạn hoảng sợ thì không có nghĩa là bọn chúng sẽ tha cho bạn đâu. Tôi có tâm sự với Jennifer về điều đó và nàng lại giả vờ rằng nàng nghĩ là chuyện đó buồn cười quá. Nàng giả vờ như trước đây chưa từng nghe như thế. Nhưng tôi bảo đảm là nàng chỉ ra vẻ lịch sự thôi, bởi vì đó hoàn toàn là một câu người ta thường nói, và một phụ nữ ở tuổi nàng hẳn là phải biết nó rồi.)

Nhưng Brian không biết gì về bí mật của tôi. Thậm chí hắn không thấy tôi đỏ mặt, hắn quá háo hức bày tỏ rằng hắn có những bí mật rùng rợn riêng. Hắn nhướng mày, phùng má, làm trò khỉ với đôi mắt, khiến một con thì ngó lên, con kia thì ngó xuống, và cái đầu thì trông giống như của một con búp bê quá đát có hai con ngươi đảo lia đảo lịa. “Ô kê, làm thì làm,” tôi đáp.

Chúng tôi bắt tay vào việc khá suôn sẻ khi làm cái hang. Chúng tôi chờ cho tới lúc trời sẩm tối rồi đến giở lấy mấy thanh ván từ bên khu xây dựng nơi người ta đang cất một ngôi nhà. Chúng tôi đặt những thanh ván bắc ngang qua miệng rãnh ở đầu rãnh cụt để làm cái mái. Chúng tôi xếp vải bao tải lên các thanh ván rồi rãi đất và cỏ lá lên trên. Đến giờ chúng tôi phải về nhà rồi vì trời gần như đã tối mịt. Chẳng mấy chốc thì ba tôi sẽ lái xe chạy tà tà xuống phố quanh các con đường như một tay cớm Mỹ trong phim. Ông giả vờ tìm tôi và mong sao phải chạy thật lâu để có cớ nổi giận để cấm tôi ra khỏi nhà suốt một tuần. Cái kiểu của ông là như vậy.

Ngày hôm sau chúng tôi trở lại. Chúng tôi băn khoăn liệu mấy tay thợ có thấy mất mấy thanh ván không, nhưng họ không nhận ra. Chúng tôi gom góp những cây dương xỉ, cỏ rác, một ít gạch cũ và các thứ khác, rồi cũng xếp lên mớ bao tải luôn thể, cho tới khi không còn thấy được các thanh ván nằm bên dưới, thì nó giống như một đám bụi rậm cỏ lá ngoài đồng. Chúng tôi bước lui ngắm công trình của mình. Sào huyệt của chúng tôi. Lối vào giống một chữ D nằm ngửa trên mặt cong của nó. Chúng tôi nhảy vào rãnh rồi khom người xuống, cố nhìn vào trong. Tối om mò mò, không nhìn thấy gì cả trong vòng mười giây đầu, và bốc mùi giun dế.

Brian có mang theo một số đồ nghề, một cuộn thảm cũ và các món khác trong cái bị rúm ró. Chúng tôi bò vào hang, trải cuộn thảm ra, rồi tấn góc nó vào những cạnh đất mềm của cái hang. Rồi chúng tôi nằm lăn ra trên thảm. Brian lục bị rồi bấm cây đèn pin, nó đã cháy sáng trong đó khi hắn lôi ra. Hắn lại rọi đèn vào bị rồi lôi ra một cây nến và một hộp diêm. “Để phòng ngừa,” hắn nói. Chúng tôi lại nằm xuống bên nhau. Brian rọi đèn lên các tấm ván trần. Những nhúm đất nhỏ từ trên trần rơi xuống, tôi thấy được chúng rơi. Một ít rơi vào mắt và một ít rơi trên môi tôi, tôi ho khúc khắc đẩy nó xuống. Chúng tôi nằm im lặng.

Ở chỗ người ta đang xây ngôi nhà mới, ở bên kia hàng rào, vang lên xình xịch tiếng máy trộn xi-măng. Đám thợ đang nghe radio chơi nhạc của Elvis Presley. Họ huýt sáo theo và một anh sủa lên như chó. Âm thanh rất gần làm chúng tôi nín thở. Brian rọi đèn vào mặt tôi và tôi khúc khích cười. Rồi hắn cũng cười. Thật là tếu, đám thợ ở gần xịt mà không biết chúng tôi đang có mặt ở đây. Thêm nữa, chúng tôi còn chôm vật liệu của họ để làm sào huyệt mà họ cũng không biết. Chúng tôi phải bóp mũi lại để nín cười.

Brian tắt đèn pin. Khi xoay đầu lại tôi thấy được tròng trắng trong mắt hắn lóe lên trong bóng tối. Tôi không cố ý làm điều tôi đã làm ngay sau đó. Tôi tình cờ nắm mớ đất cát và rác rưởi lăng nhăng trong tay, và thấy ngứa ngáy. Vì thế tôi duỗi thẳng bàn tay ra. Tiếng sột soạt lắc cắc vang lên thật to trong cái hang. Tôi cảm nhận được toàn thân của Brian căng ra, như thể hắn giật bắn người khi chạm phải dòng tĩnh điện. Hắn bật đèn pin lên hỏi: “Caaaái giiì vvvaaậy?” Tròng trắng của hắn lóe lên lia vào tôi.

Tôi không nói lời nào. Tôi không thể tin rằng Brian không nghe được tiếng tim tôi đập thình thịch. Bởi vì tôi sắp kể với hắn, tôi thật muốn kể ra luôn. Tôi sẽ bày ra cho hắn xem và sẽ kể với hắn. Hắn là người bạn mới của tôi, người bạn thật sự đầu tiên mà tôi có. Và khi đó tôi thấy sướng quá, nằm trong cái hang nghe đám thợ thầy huýt sáo vang bên ngoài, một nhúm đất rơi lên đầu gối để trần, nhồn nhột, đủ thấy khoái mà không thấy ngứa. Cho đến giây phút đó, tôi muốn kể ra với ai đó điều bí mật của mình quá đi mất. Tôi mở miệng để nói. Rồi tôi ngậm lại. Mình mở lời thế nào đây? Tôi nghĩ về cái câu mà tôi sẽ nói. Tim tôi đập như bắn ra ngoài. Nhưng rồi nó lại ngừng đập đột ngột vì tôi biết thời khắc thích hợp đã trôi qua. Tôi đã nhát cáy.

Brian nói: “Ồ, không. Lũ chuột kêu chút chít ấy mà.” Brian nói: “Tao chuồn đây.” Hắn bỏ lại cây nến và hộp diêm. Và tấm thảm. Tôi hỏi hắn có trở lại không. Hắn nói không biết. Tôi nghe tiếng hắn lôi chiếc xe đạp qua hàng rào. Rồi im ắng. Bọn thợ cũng im re. Thứ Sáu. Hẳn là bọn họ nghỉ việc về sớm. Tôi lại nằm xuống trong bóng tối, suy nghĩ về điều mình suýt nữa đã làm, tức là kể với Brian. Giờ thì tôi hài lòng vì mình chưa kể với hắn. Tôi cho rằng mình không ưa gì hắn. Nhưng tôi vẫn muốn kể ra với một ai đó. Cứ như là bước đến đầu mút của cái cầu nhảy rồi nhìn xuống hồ bơi bên dưới. Sẽ tới lần sau, và trong lần sau tôi sẽ phóng mình ra khỏi cái cầu nhảy đó.

Tôi nhặt cây nến, rồi khoét một cái lỗ dưới đất cạnh bên tấm thảm để cắm nó đứng lên. Tôi sắp thắp nến thì nghe một tiếng động ở bên ngoài. Tôi nghĩ chắc là Brian trở lại để lấy tấm thảm. Đó là kiểu của Brian. Tôi đã ngạc nhiên vì hắn không lấy nó đi ngay lúc ấy. Tiếng động im bặt, rồi vang lên trở lại. Có ai đó đang đi qua hàng rào. Tiếng bước chân ngay bên ngoài. Nhưng không có ai vào hang cả. Tôi cất tiếng hỏi: “Brian hả?” thì tiếng động lại ngưng. Tôi bò đến cửa hang, ngó ra.

Tôi ngạc nhiên vì trời đã tối lắm. Có thể vẫn nhìn được lờ mờ, nhưng mọi vật ở mức chỉ còn màu đen và trắng, chỉ còn các hình thù và bầu trời. Ngay trước hang là hình dáng của một người. Tôi nghĩ ngay đến gã đàn ông bước ra khỏi bụi rậm. Tôi phải ngồi yên không gây tiếng động. Rồi tôi nhận ra đó là một đứa con gái. Cô đang quay đi, nghiêng đầu qua một bên như thể đang cố lắng nghe gì đó. Cô bước chầm chậm ra xa cái hang.

Rồi dừng lại và nhìn xuống. Cô lôi từ dưới đất lên một vật gì đó. Đó là chiếc xe đạp của tôi. Tôi đã quăng nó đó rồi phủ cỏ rác che lên. Cô dựng chiếc xe lên rồi đứng tựa vào tay lái. Rồi cô quay xe, đẩy nó về phía hàng rào. Tôi nghe tiếng bánh xe lăn lạo xạo. Tôi biết cô nàng này. Cô là Kylie Blounce.

Kylie ở trên con đường kế với đường nhà tôi. Cô học chung một lớp với tôi hồi tiểu học và cùng trường Sir Roger de Coverley nhưng không cùng lớp. Tôi hơi ngán vì cô rất hay chế nhạo, đặc biệt là với đôi tay của tôi. Cô không gọi tôi là Cả Quỷnh như mọi đứa khác. Cô gọi tôi là Cà Ròn và như vậy, theo một cách nào đó, thì còn tệ hại hơn nữa. Cô tàn nhẫn với tôi khi tự tìm cách riêng để lăng nhục tôi thay vì dùng cách thông thường như bọn trẻ kia. Không phải chỉ đôi tay của tôi làm cô nổi cơn hào hứng lên thôi. Bất cứ điều gì tôi làm hay nói đều bị cô mang ra làm trò châm chọc.

Giờ thì cô nàng kia kìa, Cô Nàng Chua Ngoa Nhỏ Bé, đang đẩy chiếc xe đạp của tôi về phía hàng rào. Tôi không biết phải làm gì. Tôi không muốn nói năng gì vì cô sẽ lại châm chọc ngay. Cô sẽ nói điều gì đó như là: “Những cái hang thật là thảm hại, cậu không biết điều gì cả à, anh chàng Cà Ròn?” Thêm nữa, tôi sẽ bỏ cái hang đi và chúng tôi không bao giờ có thể sử dụng nó nữa. Nhưng cô nàng đang chôm xe đạp của tôi. Và mặc dầu tôi biết nó sẽ được cất ở đâu - trong nhà để xe của cha Kylie chứ còn ở đâu nữa - thì tôi cũng không thể lấy nó lại, bởi vì tôi phải giải thích do đâu mà tôi biết được có nó ở đó cơ chứ? Tôi hẳn phải chờ cho tới khi bắt gặp Kylie chạy nó, mà điều này thì có thể không bao giờ xảy ra.

Tôi bước ra khỏi cái hang, gọi to: “Kylie.”

Kylie không chua ngoa chút nào. Thậm chí cô không gọi tôi là Cà Ròn nữa. Cứ như thể tôi gặp một cô nàng Kylie nào khác. Cô vào hang, rồi tôi thắp nến lên. Chúng tôi nằm bên nhau, và tôi nhìn cô. Một điều gì đó xảy đến khi tôi nhìn cô. Cứ như thể máu tôi chảy nặng nề. Trong ánh nến, da cô trông mịn màng như thể cô mờ ảo trong mắt tôi. Tôi phát hiện ra rằng trước đây chưa bao giờ mình nhìn kỹ cô. Cô có gò má trông giống như đầu mút của cái giá treo áo của má, vừa mịn màng vừa cứng. Tôi không còn ngửi thấy mùi giun dế nữa, tôi ngửi thấy mùi táo. Kylie thơm mùi táo.

Chúng tôi không nói năng gì cả. Chúng tôi chỉ nhìn nhau và nhoẻn cười. Rồi không dưng tôi cười phá lên. Tôi cảm thấy một chút nước mũi xì ra. Tôi phải chùi mũi bằng lưng bàn tay. Vụ này làm tôi sợ tái tê vì tôi đã giấu đôi tay mình đi từ nãy giờ, nhưng tôi không thể làm gì khác được. Nhưng dường như Kylie không để ý. Cô chỉ hỏi: “Gì thế?” Thật ra cô không nói ra, mà có vẻ như la lên như thế.

Có lẽ chúng tôi tiếp tục như thế thật lâu. Có lẽ chúng tôi hẳn trở nên bạn thân thiết với nhau. Nhưng rồi tôi nói bậy một câu và mọi điều thay đổi. Tôi thật sự không kịp hiểu điều mình muốn nói, nó chỉ phọt ra. Nhiều khi trời thật trong sáng và ấm áp, rồi đột nhiên thay đổi, bầu trời trở nên tối ám sa sầm lại. Rồi trời lại tràn nắng và ấm áp trở lại. Và khi trời tối sầm, mưa gió thì người ta không thể nhớ được khi đẹp trời là như thế nào, và ngược lại.

Cứ như thể trời đang đẹp, tràn nắng ấm trong cái hang ấy (tuy rõ ràng là nó đang rất tối và ánh nến đang cháy lung linh) thì tôi nói: “Mình muốn cho bạn xem cái này.” Ngay lập tức, trời trở nên tối om và mưa bão sụt sùi.

Tôi nghĩ mọi chuyện sẽ chuyển đổi trở lại, như là thời tiết. Nhưng không. Kylie nói rằng cô phải đi. Cô chống gối ngồi dậy. Cô có mái tóc thật đẹp xõa trên cánh tay như những sợi vàng óng ánh trong ruột dây điện. Đất từ trên trần hang rơi xuống bám lên tóc và cô phủi đi. Lúc này cô không nhìn tôi. Tôi tin chắc rằng cô sắp nói điều gì cay độc, gọi tôi là Cà Ròn. Tôi van nài: “Đừng, đừng bỏ đi mà, Kylie.”

Tôi vươn tay ra nắm lấy cổ tay cô. Tôi ngăn cô phủi bụi trên cánh tay. Giờ thì cô đang nhìn bàn tay tôi. Nhìn thật kỹ, như thể cô đang tìm mảnh thủy tinh vỡ trên đĩa mì ống. Và tôi thấy như thể mình lại đang bước đi trên cái cầu nhảy. Tôi cảm nhận được tấm ván run rẩy nhún nhảy dưới bàn chân mình, và tôi biết rằng lần này tôi sẽ nhảy cắm đầu lặn xuống mặt nước dưới kia.