← Quay lại trang sách

Chương bốn

Khi đến London là tôi phải trình diện với cảnh sát, vì tên tôi nằm trong danh sách những kẻ mà cảnh sát nghĩ rằng có thể làm những trò bất thường. Cậu George biết chuyện đó vì má đã nói với cậu. Ông dẫn tôi đến sở cảnh sát ở Putney. ÔNG KHÔNG THÍCH CHUYỆN ĐÓ CHÚT NÀO. Trên đường đi ông cứ kéo cổ áo khoác lên và nói: “Lạy Chúa toàn năng, Ngố à.” Tôi được đưa vào một phòng nọ để điền các tờ khai, cậu George không muốn vào cùng nhưng tay cớm nói cậu phải vào. Tôi sắp viết ‘George Oxnard’ vào chỗ kế bên mục “Quan hệ thân tộc” thì cậu George trông thấy, cậu nói: “Viết tên má cháu vào.”

Tay cớm nói: “Ai là người trông nom nó hằng ngày?”

Tôi đáp: “Cậu George ạ.”

Tay cớm nói: “Vậy thì ghi vào.”

Cậu George nói: “Cám ơn nhiều.”

Tất nhiên cậu George nói với má là tôi ở với cậu và cậu chăm sóc tôi, từ việc cho tôi ăn sáng món ngũ cốc Sugar Puffs đến việc ủi quần sịp cho tôi…vân vân…, nhưng thật ra phần lớn thời gian cậu lại có mặt ở Sheen với cô ả mà cậu gọi là con chim của mình, khi cậu không lên Lancashire trông coi phòng nha sĩ mà cậu mua hồi đầu mùa hè để dự trù trong trường hợp tiệm bán piano không bán chạy. Do đó tôi thường ở một mình. Cậu nói: “Tốt nhất là mày đừng cho má biết. Mày biết bả cằn nhằn dữ lắm mà. Và nhớ nè, mày không được la cà với bất cứ đứa cà chớn hư hỏng nào quanh đây đấy, nhưng nếu mày lỡ gặp tụi nó thì phải biến ngay, phải chạy xịt khói vào mặt chúng nó, hiểu chưa? Nói lại nghe coi?”

Tôi đáp: “Dạ, phải biến ngay, chạy xịt khói vào mặt chúng nó.”

Dù sao đi nữa thì tôi cũng không chịu nổi việc ở chung căn hộ với cậu vì nó chỉ rộng khoảng bằng cái nhà kho của ba thôi, và cậu George thì không có các số vòng hấp dẫn như cô người mẫu Kate Moss (đó là chưa kể những cái hốc thường xuyên thoang thoảng bốc mùi của cậu). Căn hộ khởi đầu khá độc đáo với cái đầu khá to bằng kim loại của tay ca sĩ John Lennon đặt trên bệ, nhìn ngay vào mặt bạn khi vừa mở cửa bước vào. Cái đầu đeo một cặp kính thật, rất dẻo, tròn xoe mà cậu George bảo là năm năm trước nó đúng là kính của Lennon. Nhưng khi tôi nói điều này ra trong lúc cậu dắt tôi đi quanh xem nhà thì cậu ngó tôi như thể tôi là một thằng khùng và nói: “Mày đang nghĩ gì vậy hả, Ngố?”

Nhưng sau cái tượng John Lennon thì căn hộ thiệt là bết. Đồ đạc bừa bãi tứ tung. Dụng cụ thể dục mà cậu chẳng bao giờ đụng đến, chỉ nhìn cái vẻ béo nung núc của cậu là biết ngay. Một tấm bạt lò xo để nhảy chơi mà cậu chưa từng lấy ra khỏi hộp. Một cái máy pha cà phê màu bạc và đen, to kềnh, có các nút vặn, cậu cũng chẳng bao giờ dùng tới vì có quán cà phê World Bean nằm ngay ở góc phố.

Trên tường phòng vệ sinh có một tấm hình thần tượng của cậu, ca sĩ Elvis Presley, trông còn mập phệ hơn cả cậu George. Cậu chỉ nó nói: “Vua đấy. Vua bánh kẹp vào cái hồi đó [2] . Nhưng ngay cả vậy ổng vẫn là tay đàn ông quyến rũ nhất địa cầu. Thử hỏi bất cứ em nào coi thì sẽ biết.” Đêm đầu tiên tôi ở lại đó thì không có giấy vệ sinh, chỉ có mấy tờ báo Nguyệt Cầu cũ rách nằm trên nền nhà. Tôi phải lau bàn tọa của mình lên mái tóc sành điệu mới cắt của Beckham.

Tuy nhiên, đời sống vẫn tươi đẹp vì tôi đã đến London. Điều tuyệt nhất của London là nó không biết gì về cái lỗ đen sâu thăm thẳm và điều khủng khiếp trong đó, điều mà người ta gán rằng tôi đã làm với Kylie Blounce. Thêm nữa người ta không phiền hà gì về đôi tay của tôi. Tôi cảm thấy rất thoải mái về chúng, tôi không thèm mặc áo thụng hằng ngày nữa. Sau hai tuần ở đây, London như là một tay quái đầy ấn tượng mà mình khó lòng hiểu hết. Trước tiên, tôi thấy rằng London không buồn để ý đến đôi tay tôi vì có quá nhiều thứ thú vị hơn đang diễn ra quanh đây. Rồi tôi lại cho rằng nó biết đấy, nhưng nó lại không nghĩ rằng điều đó đáng để quan tâm. Tôi muốn nói là, đây là một thành phố của những tay thật sự quái. Chính mắt tôi thấy một gã chỉ còn có nửa gương mặt trong khu trung tâm mua sắm Putney Exchange. Thế nên tôi nghĩ rằng London không buồn để ý đến. Nó chẳng thèm quan tâm. Dù sao đi nữa, mọi điều đều tốt đẹp. Tôi đang vui sướng.

Tôi rất thích đi làm. Không phải vì công việc, thật ra công việc này chỉ là sự hiện diện như một tên mặt nghệch trong tiệm bán đàn piano của cậu George, mà vì đoạn đường đi đến đó. Tôi đi bộ qua cầu Putney, nhìn qua bên trái dọc theo dòng nước bạc chảy cuồn cuộn mà tôi đã xem trên tivi bởi vì có cuộc đua thuyền xuôi theo nó, đến những ngọn cây la đà nghiêng mình ra đối diện với khu đất xập xệ Fulham làm nó trông như cả trăm năm trước. Tôi nhìn theo mấy chiếc máy bay bay thấp về hướng Heathrow, hạ xuống từ từ như bàn tay của một con rối bị kéo dây. Tôi ngắm các cô gái sành điệu xinh tệ trong những bộ trang phục phấp phới trôi lướt trên vỉa hè. Rồi tôi chìm đắm vào tiếng nhạc ầm ầm dữ dội của chiếc máy CD hiệu Discman mà tôi mua bằng số tiền má nhét vào túi áo trong ngày tôi đi. Tôi cố không giậm giật theo điệu nhạc, cố không nhún nhảy theo bước chân. Nó phải là một niềm bí mật, cái điều đang rộn ràng trong đầu tôi. Tôi không muốn người đi ngang qua biết được cái tiếng náo nhiệt mà câm lặng đó chính là tôi. Rồi tôi cũng đến tiệm bán đàn. Mọi điều tốt đẹp đều phải chấm dứt (lại thêm một minh triết của chàng mặt nghệch nữa).

Tôi làm việc với Kate và Derek. “Hai chuyên viên vận hành vùng Nam London.” Cậu George gọi họ như vậy khi giới thiệu tôi. “Nhớ đừng để quý vị ấy vận hành trên cháu đấy.” Với Kate, mọi việc không tệ. Thậm chí còn khá hơn thế. Nhưng còn Derek? Vật duy nhất mà hắn vận hành là một bộ tàu lửa đồ chơi con nít.

Chúng tôi đều thích hơn khi Ông Heo, họ gọi cậu như vậy, không có mặt ở tiệm. Sự có mặt của cậu thật là ngột ngạt. Cậu George phá hỏng bầu không khí yên tĩnh, tức là cậu ngăn tôi có những giấc ngủ đứng. Nhiều lúc cậu xì hơi thật to vì nghĩ chuyện đó là rất tài hay rất tếu, nhưng tôi hoàn toàn không nghĩ thế, và tôi mới chỉ bằng phân nửa tuổi đời của cậu thôi. “Lampart. Một không…!” cậu gào lên như vậy, có nghĩa là đội bóng Chelsea mới làm bàn. Hay nhiều lúc cậu trở nên thật nghiêm trọng. Có lần cậu nói: “Đàn piano không phải là món hàng mua trong cơn bốc đồng.” Ô, cám ơn nhiều. Cứ như thể cậu đang trao cho chúng tôi những thông tin thông thái trác tuyệt và huấn luyện chúng tôi trở thành kẻ suốt đời ngồi bán đàn.

Dù sao đi nữa, mọi việc suôn sẻ trong khoảng ba tuần, làm tôi vui lên khi ở Thành phố Khói [3] và biến toàn bộ vùng Bắc nước Anh thành một kỳ nghỉ hè thú vị, quên đi vụ nhảm nhí Cả Quỷnh, rồi có chuyện xảy ra. Vụ rớt máy bay ở Fulham.

Một ngày thứ Ba, bầu trời xanh trong, một Người Cõi Trên nào đó cắt dây chiếc RF 3409 bay đến từ Tashkent, thủ đô của Uzbekistan, và chiếc máy bay khổng lồ màu bạc này, nó trông giống như chiếc ống đựng xì-gà mà ba dùng đựng tắc-kê trong nhà kho, gần như ngự lại trên đầu tôi. Cũng trên hàng ngàn cái đầu khác nữa, nhưng đầu tôi mới là cái đầu quan trọng, đối với tôi. Chiếc Tupolev nhìn bên ngoài rất cũ, hẳn có vết rỉ sét quanh những đinh tán, và băng keo hiệu Sellotape dán dính mấy cái cần điều khiển lại với nhau, ủi sạch một tòa nhà cao gần sông. Sau này tôi xem lại trên tivi, băng video không chuyên nghiệp; tại sao lúc nào cũng có kẻ đang quay phim một cái thùng thư hay một tay cảnh sát ngủ gật rồi may mắn xoay cái máy và quay được cái cảnh đáng đồng tiền bát gạo thế nhỉ? Thật là một cú ác liệt, cứ như là một thằng ngố trong tiệc cưới loay hoay làm sao lại té ngửa trúng ngay vào cái bánh cưới! Rồi nó cày một đường rãnh rộng cả trăm mét và dài đến nửa cây số xuyên qua hàng chục con phố. Một trong những con phố đó cách tiệm đàn chỉ vài dãy nhà. Diêm vương réo tên ai nấy dạ (tay phóng viên truyền hình nói như vậy đấy). Thật ra, đối với một số người thì đúng là Diêm vương gọi thật.

Điều đầu tiên tôi nhận ra là tiếng động, cứ như là một tiếng rít xé gió từ trên trời. Tôi vừa vù đến tiệm cà phê World Bean ở cuối phố mua vài ly. Tôi thường bị sai đi mua cà phê, như là chàng Mặt Nghệch vậy. Tất nhiên, tôi bị choáng váng. Tôi gặp một nàng tuyệt đẹp. Khi đi ngang qua nàng mặt tôi lạnh tanh, nhưng thật ra tôi đang “nghía” nàng thật kỹ. Thật ra thì nàng ra dáng đàn bà hơn là một cô gái. Nàng khá lớn tuổi, chừng hai mươi tám. Hẳn là nàng không thích thú gì với cái thứ nhóc tì như tôi, triệu lần không. Không chỉ vì sự cách biệt tuổi tác mà thôi, sự thật là tôi chưa bằng phân nửa số tuổi của nàng. Hay chuyện dính dáng với đôi tay quái dị của tôi, cái này quả là kẹt lớn.

Mà là do nàng quá cao sang. Tôi chưa từng thấy điều mà tôi cho là cao sang cho mãi tới khi xuống đến London. Theo tôi, ở miền Bắc, con gái và phụ nữ bước huỳnh huỵch khi họ đi. Hông họ xoay ngoay ngoáy như thể họ đang cố đuổi ruồi vậy. Họ bước cà phục cà phịch với những đôi giày to tổ bố nặng chình chịch. Còn tô son trắng làm họ trông ghê như ma. Lại chửi thề xoen xoét.

Người phụ nữ tôi gặp bên đường trong ngày máy bay rơi rất cao sang. Nàng đến từ một thế giới rất hoàn hảo mà mấy tuần trước tôi chưa hề biết rằng có nó hiện hữu trên cõi đời này. Trang phục của nàng bay lượn quanh người và nàng bay lượn bên trong chúng. Hoàn toàn không có kiểu bước đi huỳnh huỵch. Tóc nàng đen nhánh và cắt hơi cao, cạo một chút đàng sau cổ. Tôi nhận thấy như vậy khi quay nhìn lại sau khi nàng bước qua. Tôi cũng ngửi thấy mùi nàng. Mùi nước hoa, hay có lẽ chỉ là mùi xà-bông. Tôi bước chậm để giữ mùi lại lâu hơn. Như một cái bong bóng nhỏ bay xuống từ trời. Nàng không ngó ngàng gì tôi. Và tôi không nghĩ thêm điều gì khác về nàng.

Vì đang bàng hoàng do nàng mà tôi không nhận ra điều gì đang xảy ra. Tiếng động của chiếc máy bay bị tiếng động trong đầu tôi phủ lấp mất. Và rồi tôi không thể tin được. Chiếc Tupolev già cỗi đuối đà đang băng ngang qua cuối đường cách khoảng một trăm mét và thấp hơn ngọn mấy cái ống khói. Có vẻ như nó không vội vàng gì. Rồi một tiếng nổ lớn vang lên. Các tòa nhà và đường phố biến mất trong đám mây mù khổng lồ và tôi có cảm giác như mình đứng trên một vỉa hè trượt huyên náo. Vỉa hè rung chuyển, mặt đất dưới chân rung chuyển. Tôi không đi đâu được, đi lui cũng như đi tới. Tôi chỉ cố đứng vững trên hai chân. Rồi tôi không còn nghe tiếng nhạc trong đầu nữa, và tôi nếm được một vị mới. Không chỉ có những đám mây mù bụi thôi. Miệng tôi nếm được một vị mới lạ và kinh dị. Vị của một thứ gì đó thật kinh khủng.

Đám mây mù là do vô số mảnh vụn li ti của các tòa nhà, chúng có màu đỏ của gạch ngói. Chúng vây phủ lấy tôi cho tới khi như thể tôi đang ở bên trong một cái lều màu đỏ khổng lồ. Thật là lạ lùng, những cái bóng đột ngột biến đâu mất. Cứ như thể có một cái mái che di động giăng ngang qua bầu trời. Tôi hiểu rằng mình phải di chuyển, phải thoát ra, nhưng tôi không thoát ra được. Tôi không hiểu vì sao. Nếu tôi thoát ra được thì mọi chuyện đã khác nhiều. Thay vì thoát ra, tôi lại chạy xuống con phố về hướng chỗ máy bay rớt, có thể xem việc đó như một hành động điên rồ. Cuối con phố là một đống gạch đá đổ nát chắn ngang mà một phút trước đó nó là một tòa nhà cũ thật to. Tôi không tiến lên được nữa. Tôi lấy cái tai nghe ra. Tôi nhét chiếc Discman vào túi rồi đứng thở và ho sặc sụa vì bụi. Tôi cố lắng nghe, lần đầu tiên lắng nghe tiếng máy bay rớt.

Cứ như là đi ra ngoài bầu trời đêm trong vắt ngắm các vì sao, có lần tôi làm như vậy ở Lulworth Cove. Ban đầu, tôi không thấy nhiều sao như thế. Rồi chúng lóe lên giữa màn đêm như thể có ai đó từ một nơi xa xôi lặng lẽ vặn những chiếc nút cho chúng xuất hiện. Rồi bầu trời đầy sao, lấp lánh sống động. Ban đầu tôi chỉ nghe một tiếng thét ngắn, giống như một ai đó ngoài xa vừa ngó thấy một con chuột hay bị kẹt ngón tay trong cửa xe. Rồi thêm một tiếng thét khác, dài hơn và lớn hơn. Như thể ai đó đang bị giết. Rồi bầu trời rộ lên những tiếng la thét chết chóc khủng khiếp.

Một trong những tiếng thét ấy trở thành tiếng búa nện dữ dội vào sọ tôi. Những tiếng rú thét khác chìm lẫn mất và tôi chỉ nghe thấy tiếng kêu khóc của một đứa bé. Nó vang lên từ ngay trên đầu tôi, nhưng khi cố ngóng tìm thì tôi không thể nhìn thấy xa hơn tầm tay mà tôi giơ lên trên đầu mình bởi vì bụi đất bốc lên mù trời. Tôi chỉ biết rằng một nơi nào đó bên trên kia, là một chiếc nôi hay chiếc giường gì đó nhô ra khỏi tòa nhà đổ nát, có một đứa bé đang khóc bên trong.

Tôi nhìn đống gạch đá hỗn độn trước mặt tìm đường leo lên. Gạch đá từ đám đổ nát thành những nhúm bụi nhỏ rơi xuống quanh tôi. Tôi không liều mạng leo lên đó đâu. Tôi dám bị cả nửa khối nhà rơi xuống đè lên người lắm chứ. Tôi chợt nảy ra một ý. Tôi mò trong túi lấy ra chiếc di động. Tôi luôn mang theo di động. Ba má dặn tôi lúc nào cũng phải mang theo di động trong người, làm như vậy để họ không có mặc cảm tội lỗi vì đã để tôi đi xa hàng 350 cây số, để họ tự nói với mình và hàng xóm rằng Graham luôn luôn ở trong vùng phủ sóng. Nhưng thật ra không phải như thế vì tôi luôn tắt nguồn. Nhưng giờ thì tôi sẽ dùng tới nó. Tôi sẽ gọi cho má để hỏi xem tôi có được làm điều mà tôi định làm hay không. Tôi trượt vỏ máy ra rồi bấm số. Ngón tay cái tôi chực trên cái biểu tượng nghe máy nhỏ xíu màu xanh.

Tôi băn khoăn bà sẽ trả lời câu hỏi tôi như thế nào đây. Có rất nhiều khả năng xảy ra cho câu trả lời, ví dụ: “Chết bây giờ con à!” Thế nào đi nữa thì chắc chắn bà cũng không đồng ý. Và tôi nhận ra là tôi không muốn nghe bà nói KHÔNG, có nghĩa là tôi đã quyết định mà không cần bà giúp. Do đó tôi cất di động lại vào túi. Rồi tôi hoảng sợ về việc mình sắp làm cho đến nỗi tôi mò mẫm lung tung tìm cái Discman để kiểm tra cái tai nghe không lòng thòng ra khỏi túi. Tôi quỳ xuống kiểm tra dây giày đã buộc chặt chưa. Tôi tự hỏi mình có bao nhiêu tờ hai mươi pao cất trong người.

Má ơi, đứa bé vẫn kêu khóc nhưng giờ đã giảm dần, như thể cơ thể nó chạy bằng pin mà pin đang hết dần. Ngay bây giờ hoặc chẳng bao giờ nữa, tiến lên hay là chết, như lời ba thường nói. Tôi cố lắng nghe, cố xác định nó từ đâu vang đến (nhìn lên chỉ cách năm mét cũng không thấy rõ được). Rồi tôi nhắm mắt lại hít một hơi thật sâu.