← Quay lại trang sách

PHẦN IV

Đêm qua về, sau khi tắm gội xong, xuống ăn vội dĩa cơm chiên là lên phòng vào giường ngay. Dành sức lực, ngày mai cần phải khỏe mạnh, tâm trí minh mẫn, để còn đi gặp những hai vị anh hùng danh tướng. Tôi sẽ nhắc, sẽ hỏi cả hai vị, nhất là Uy Thắng Đại Vương Lý Thường Kiệt xem ngài nghĩ thế nào về tình hình quốc sự của Việt Nam – Quê hương mà mỗi một mình cá nhân ngài đã trực tiếp đóng góp vào rất nhiều trong công việc mở mang bờ cõi.

Vừa xuống xe, nhìn lên trên thành xa, đã thấy bóng dáng của hai vị, tôi vội vàng không kịp nhìn ai, cứ thế mà chạy thẳng lên chỗ hẹn. Tướng Mông Điềm thì mấy hôm nay đã gặp, nói chuyện suốt ngày nên không bỡ ngỡ, mà người bên cạnh chưa bao giờ trông thấy, chắc hẳn phải là danh tướng Lý Thường Kiệt chăng? Tôi hơi phập phồng chẳng biết phải ăn nói làm sao. Với tướng Mông Điềm thì, có sự quen biết lâu năm, lại cùng có lòng yêu cây đàn, nên dễ dàng. Ngay từ hôm thứ nhất đã dám đặt những câu hỏi vô lễ, “sao lại có thể u mê, nhận tờ kiểu chiếu của Triệu Cao mà cũng tin, để rồi phải bức tử oan ức”, ngài đã không giận và đến hôm nay có thể gọi là cố tri, vừa là bạn, vừa là thầy.

– Nầy các hạ, đây là vị danh tướng Uy Thắng Đại Vương của quý quốc. Bỉ nhân phải vất vả lắm mới thỉnh ngài đến đây được, phải mượn cả thần thông của chư vị La Hán.

Tôi cúi mình thi lễ, tướng Mông Điềm lại quay về phía tướng Lý Thường Kiệt nói lời giới thiệu mở đầu câu chuyện.

– Xin được giới thiệu với tướng công đây là người bạn vong niên của bỉ nhân. Người từ Hoa Kỳ sang đây để mua sách, một chuyến đi miễn cưỡng, không được chuẩn bị nhiều, từ hành trang đến tiền bạc... Nhân ghé Vạn Lý Trường Thành thăm bỉ nhân. Trong câu chuyện thường nhắc đến các danh nhân hằng mong ước được diện kiến với các bậc anh hùng hào kiệt, hòng nghe nhiều lời chỉ giáo về những biến chuyển của đất nước mình. Xin tướng công vui lòng bỏ chút thì giờ vàng ngọc…

Tướng Lý Thường Kiệt gật đầu đồng ý. Theo sử chép thì vị tướng nầy rất đẹp nên từ thuở trẻ đã được tuyển chọn vào Hoàng Môn Chi Hậu để chầu hầu bên cạnh nhà vua trong cung. Ngày nay gần 900 năm qua mà trông ngài vẫn quắc thước uy nghi. Ông tướng nhìn tôi từ đầu xuống chân, hẳn để phẩm định, chưa nói một lời thì tướng Mông Điềm lại tiếp.

– Xin gửi lại một hôm, chiều nay, sau khi đi họp về vấn đề “Thiên An Môn, đại lưu huyết”, xong sẽ xin trở lại ngay để tiếp chuyện cùng nhị vi, xin cáo từ.

Tướng Lý Thường Kiệt cau mặt hỏi tướng Mông Điềm, giọng nhân từ, thắc mắc, đây cũng là điều lạ, người ta cứ tưởng rằng mấy ông tướng thường hét ra lửa.

– Thiên An Môn đại lưu huyết, chúng ta có làm gì được chăng? để cứu giúp những sinh linh nạn nhân…

Tướng Mông Điềm lắc đầu chán nản.

-Thiên mệnh, tiên sinh đã quá rõ.

Đến đây ông vội ngừng, e rằng đang đứng trước một người trần mắt thịt, nhục thân, nhục nhãn, tiết lậu những bí mật của cơ trời là điều không hay, nhất là các ngài đều biết nghề của tôi là nghề viết lách, nói lộ ra cho nó hiểu, để nó tung lên báo chí quá sớm thì thật nguy hiểm. Người đến số lại đủ khả năng trèo lên máy bay đi trốn, để cho những người không phải số hứng chịu thì còn gì là luật nhân quả.

Các Kinh điển đều có chép những sự nầy, rằng tùy theo cái nghiệp lực của mỗi người đã tạo ra từ bao nhiêu tiền kiếp để quy định cái mệnh sống ngày nay của con người ấy. Do đó mà ta thấy những người già đến tám chín chục tuổi vẫn còn khoẻ mạnh, trái lại có kẻ yểu mệnh, chết từ lúc còn thơ ngây, lên ba lên năm, hoặc có sống thì bệnh hoạn, quanh năm suốt tháng làm giàu cho mấy ông bà bác sĩ.

Trong khoảnh khắc, nhìn lại thì tướng Mông Điềm không còn đó nữa, trước mặt tôi chỉ có một vị danh tướng “Nam bình Chiêm, Bắc phạt Tống” uy nghi, lẫm liệt. Tôi lúng túng chưa biết mở đầu bằng câu gì cho hợp lễ nghi. Với tướng Mông Điềm thì dầu sao mình cũng chỉ là ngoại nhân, có điều gì thất thố vẫn tha thứ được. Hôm nay quả không phải dễ, trước một danh tướng của nước mình. Thật là ngại ngùng. Tướng Lý Thường Kiệt nhận biết nên đã dùng lời ôn hòa mở đầu câu chuyện.

– Người sang đây từ bao lâu rồi, đã đi xem khắp các nơi chưa?

– Thưa sang từ hai tuần nay, nhưng chưa xem gì nhiều, vì ngày nào cũng muốn đến đây để gặp tướng Mông Điềm, muốn học hỏi, hiểu biết thêm, nghìn năm mới có một thuở cơ hội đặc biệt nầy.

– Biết rồi, tướng Mông Điềm có nói, cũng nhiều người Việt đã sang đây để mong tìm một lối thoát cho đất nước nhưng rồi ông nào cũng ra về tiu nghỉu. SỰ HƯNG VONG CỦA MỘT QUỐC GIA KHÔNG PHẢI DO Ở LÒNG TỪ THIỆN VÀ SỰ BỐ THÍ CỦA AI MÀ DO LÒNG HY SINH, CHÍ QUYẾT THÁNG CỦA TOÀN DÂN. Từ một tên thất phu đến một bậc vương giả, trí thức, một chị bán chè đến một bà tổng trưởng, tất cả phải dốc lòng, quyết chí. Vận nước ta từ mấy trăm năm nay đang ở vào thế suy, càng ngày càng đắm vào vòng vây hãm, bế tắc. Cái trận đòn cuối là trận đòn tháng tư năm 1975 ngày 30, đó là tính theo dương lịch, theo nông lịch nó là ngày Bính Ngọ, tháng Canh Thìn, năm Ất Mão, người hãy nhớ kỹ lấy.

– Còn giờ nữa, kể vào giờ nào?

Ông tướng mỉm cười hỏi.

– Muốn xem Tử Bình hay Tử Vi đây. Nếu nói giờ thì chắc phải kể giờ lúc ông Dương Văn Minh kêu gọi buông súng trên đài phát thanh.

Nói đến đây ông tướng hơi mỉm cười, một nụ cười nhếch mép, mỉa mai, chua xót, rồi buông nhẹ một tiếng thở dài. Tôi không hiểu hết ý của nụ cười, của tiếng thở dài nên hỏi lại.

– Sao tướng công thở dài?

Tướng Lý Thường Kiệt lắc đầu, chán nản.

– Người còn đặt câu hỏi, bắt ta nói thành lời để làm chi, một vết thương chưa được hàn gắn còn cào cấu lên nữa sao?

Tôi chợt nghĩ đến cuộc chiến thắng Chiêm Thành vào năm Kỷ Dậu (1069) khi vua Lý Thánh Tôn thân chinh đi đánh. Lý Thường Kiệt lúc ấy mới 50 tuổi, được vua chọn cho làm Tiên Phong Đại Tướng, kiêm chức Nguyên Súy. Thắng trận tại sông Tu Mao, chiếm Kinh Đô Phật Thệ, bắt được vua Chiêm là Chế Cũ. Ông vua nầy đã chuộc tội bằng cách xin dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh. Tôi đang còn mãi chìm đắm trong những ý nghĩ lịch sử thì ông tướng nói.

– Ừ, người vẫn còn nhớ được một vài trang sử, khá đấy, ta chỉ tiếc rằng người đời nay đã quá hững hờ với đất nước. Toàn một phường cõng rắn, rước voi. Đất nước không nghèo đói, u mê, đi giật lùi… mà có đi tới thì lại là một thứ lai căng, chỉ học đòi những điều nông cạn rởm đời. Nghĩ mà xót xa cho các tiền nhân.

Tôi biết ngài đang buồn, chắc ngài phải buồn từ mấy trăm năm nay rồi, tôi chưa tìm được lời nào phù hợp để nói lên thì tướng Lý Thường Kiệt lại như cũng đã biết trước, ông tiếp lời, giọng buồn bã hơn.

– Năm Kỷ Dậu 1789 đến bây giờ là đúng 200 năm, chẳng hề nghe ai nhắc đến, từ báo chí trong nước đến ngoài nước, thật xót xa.

Tôi băn khoăn hỏi lại.

– Năm ấy có gì đặc biệt, thưa tướng công?

Ông tướng quắc mắt nhìn tôi có vẻ tức giận.

– Chính người cũng hỏi một câu ngu xuẩn, đáng thương ấy, thì còn nói gì đến những kẻ chỉ biết hưởng thụ, vinh thân phì gia, cờ bạc, rượu chè, gái đẹp, hầu xinh.

Tôi im lặng, cắn môi, tự thấy mình quả là u mê, không dám hỏi thêm, mặc dầu trong lòng thật nôn nóng. Ông tướng dằn mạnh giọng nói, như muốn trút hết cơn bực tức.

– Thưa bà văn sĩ, xin bà về nhắc lại với anh em rằng, ngày ấy là ngày ông Bá Đa Lộc mang đội quân mộ tại Pháp cùng một số thuyền bè và súng ống sang giúp cho nước Việt. Khởi điểm của bao nhiêu huyết hồ, non cốt ngày hôm nay.

Tôi cau mặt lẩm nhẩm nhắc lại mấy chữ:

– Huyết hồ, non cốt, tức là máu chảy thành hồ, xương chất thành núi… ừ nhỉ nếu mang nhặt hết tất cả những bộ xương từ độ ấy mà chất lại thì nhất định phải là cái núi khá cao, núi nào đây, Hoành Sơn, Tản Viên… mà xương đã thành núi tất nhiên là máu phải thành ao, thành hồ.

Ông tướng lại nói tiếp, chắc hẳn mấy trăm năm qua ông cũng quá hận, nên hôm nay, có cơ hội gặp đồng hương, tha hồ cho ông trút cơn giận dữ.

– Chuyện đã rồi, nhưng hãy quay nhìn lại mỗi một khi có sự hiện diện của ngoại nhân trên một quốc gia thì rồi thế nào cũng xảy ra, những sự chết chóc, máu chảy thành sông xương chất thành núi, như đã xảy ra và đang còn xảy ra trên đất nước của chúng ta.

– Tướng công có cách gì để cứu vãn chứ cứ trách móc nhau thì…

Tướng Lý Thường Kiệt lắc đầu, nét mặt buồn rầu, nói chậm rãi.

– Cứu gì nổi, các người phải tự lo mà cứu lấy chứ. Làm được gì thì phải làm, biết sức mình không làm nổi mà nhìn quanh có ai làm được, nếu không tiếp tay thì cũng đừng có phá, mỗi người dân, … trong nước thì đói khổ, cũng chỉ mong thoát ra, một khi ra khỏi nước, sung sướng rồi thì quên tất cả, chỉ còn muốn làm sao có thật nhiều tiền để hưởng thụ. Mà người có biết nặng nhất là tội gì không?

-Xin tướng công cứ dạy bảo, tiếc hôm nay chỉ có mình tôi. Giá biết trước, đưa theo cái máy ghi âm để mang những lời giáo huấn của tướng công về phát ra cho mọi người cùng nghe.

– Cái tội nặng nhất là tội bán nước hại dân, mượn danh nghĩa dân tộc để đi làm những điều phản lại dân tộc, cơm không no, áo không ấm…

– Tướng công nói đây là nói ai vậy?

– Nói tất cả những tên nào làm điều hại dân hại nước. Tự nhìn vào gương mà xét lấy mình, chẳng cần phải nêu danh ra làm gì, bẩn lời bẩn miệng, mà cũng bẩn tai, bẩn bút của người. Tạo lên những hành động tàn ác, ra những điều luật khắt khe. Giết người dân lành vô tội không gớm tay. Đó là những anh chị của Chiêm Thành, chia nhau, người đứng bên nầy, kẻ đứng bên kia. Hai bên cùng ra sức mà hại dân hại nước. Ai dám nói thẳng rằng tôi là kẻ thực tình yêu quê hương, dân tộc, không chút vụ lợi, có nói dối xin trời tru, đất diệt, cả dòng họ cho chết sông, chết biển… Có ai dám thề độc địa như thế thì người có thể tin rằng đó mới là con của đất nước Việt Nam. Nhưng phải nói rằng thứ Việt Nam thật sự thì hiện đang trả nợ, tức là sống quằn quại trong lao tù nơi quê nhà. Thoát ra nước ngoài thì hoặc còn lận đận, hoặc kéo một cuộc sống tầm thường..

– Vậy thì chắc bỉ nhân cũng là …

– Đã có một kiếp làm chú chệt Trung Quốc nên bây giờ mới đi dụ dỗ mọi người học chữ Hán, đánh bạn vong niên với tướng Mông Điềm. Có bao nhiêu tiền thì xuất hết ra để mua các cổ thư Hán ngữ, người cũng lắm tội chứ đừng tưởng hay ho hơn ai.

Nói xong, tướng Lý Thường Kiệt mỉm cười nhìn ra phương xa như có ý mong chờ tướng Mông Điềm, sao bỏ đi quá lâu. Tôi ư? Ngược lại, chưa muốn tướng Mông Điềm về làm chi vội, còn muốn được hỏi riêng ông tướng “Nam bình Chiêm, Bắc Phạt Tống” nầy về những vấn đề có liên quan đến đất nước của chúng ta. Hỏi thăm xem ông tướng tiền bối nghĩ gì về những nhân vật chìm, nhân vật nổi của đất nước ngày nay. Nhất là chư tướng hậu duệ. Ai là người xứng đáng để cầm vận mệnh quốc gia, ai đáng cầm ngọn cờ, lá cờ đã phủ lên bao nhiêu xác chết. Tôi muốn nhân cơ hội nầy để than với Tướng Lý Thường Kiệt rằng suốt 14 năm nay tôi đã từng được hay là bị nghe rất nhiều lời tuyên bố, rất nhiều bản tuyên ngôn, nếu bảo rằng đó là sự bị mắc lừa cũng không đúng, tin rằng người nào cũng đều có ý đồ xây dựng cứu nước, làm được một cái gì cho quê hương, nhưng vì tài kém đức mỏng… hẳn cũng không ai muốn huênh hoang lợi dụng làm giàu trên lòng tin và sự đóng góp hy sinh của đồng bào làm gì… Hay có lẽ vì vận nước chưa sáng, nên rồi tất cả đều nghẹn ngào đi vào bóng tối, có khi chẳng ai còn biết tới.

– Biết rồi, nhưng nói vậy cũng không đúng hẳn…

Tôi giật mình, thì ra ông tướng nầy cũng như tướng Mông Điềm, cũng đã biết đọc hết tất cả những ý nghĩ của người trần gian chúng ta. Có phải đó là cái biệt năng của người cõi âm chăng.

– Vậy thì đến bao giờ, thưa tướng công, đến bao giờ đất nước của chúng ta mới được thanh bình, người dân mới được no ấm, an cư lạc nghiệp… đến bao giờ mới được ngủ yên không phập phồng lo sợ…

Ông tướng lắc đầu, không trả lời. Có phải vì thiên cơ bất lậu, hay vì tôi chỉ là một người đàn bà tầm thường, chưa xứng đáng được nghe những mệnh lệnh, nói tới vận nước. Thì thôi vậy, làm sao nài ép được, tôi sẽ về đăng lên báo để mời quý vị nào có đủ uy tín, mua vé máy bay sang đây để gặp vị tướng nầy chăng. Mà cần gì phải sang đến đây hay là chỉ nơi nầy mới đủ linh thiêng….

– Vậy xin hỏi tướng công rằng với cái chiêu bài “Glasnost” của ông Gorbachev thì liệu quê hương chúng ta có được “Glasnost” chút nào chăng.

Tướng Lý Thường Kiệt mỉm cười, đổi giọng.

– Người cũng lanh đấy nhỉ, biết hỏi vặn vẹo để tìm chút ánh sáng.

– Nhưng tướng công vẫn chưa trả lời, vậy thì lại xin đổi, muốn hỏi tướng công nghĩ gì về ông Gorbachev nầy.

– Đáng cho giải thưởng Nobel. Biết rằng có một số người còn đòi hỏi hơn, nhưng cứ từ từ mà tiến tới. Xem như một người ốm mới dậy mà đưa ngay vào tiệm cho ăn một bữa cơm thịnh soạn quá thì thế nào cũng ngất ngư nếu không chết ngay tại chỗ vì ách bụng. Một dân tộc còn quen bị sự chỉ huy kìm kẹp, ấu trĩ trên lĩnh vực tự do, không biết đâu là biên giới của sự tự do…

Tôi ngắt lời, cố ý đặt câu hỏi biết rằng như thế nầy là vô phép.

– Tự do mà còn có biên giới sao, thưa tướng công.

Tướng Lý Thường Kiệt nhìn tôi cau mặt, lắc đầu.

– Người hỏi thật hay cố ý, nếu hỏi thật thì thôi, hãy ra về tìm sách vở học lại đi, tự do nào cũng phải có bờ. Nếu không thì ra đường thấy ai có cái vẻ khó thương, cứ việc đến đấm vào mặt người ta sao. Muốn ăn làm sao nói làm sao thì làm à. Ngay một bậc đế vương cũng phải học lễ nghi, lúc nằm, lúc ngồi. Khi ăn khi nói khi tiếp các bậc vương giả khác với khi tiếp các sứ thần… Ta nói đến sự ấu trĩ của một dân tộc tức là khi chưa có được một nền giáo dục vững vàng về tinh thần dân chủ về bổn phận của người dân trong một quốc gia tự do… hoặc vì bị đàn áp quá lâu. Tuổi trẻ quen bị dẫn dắt, điều khiển. Lúc mới vừa được nới ra một tí là nghĩ rằng phải thêm mà thêm làm sao nhanh, lắm khi chỉ do đóm mà hỏng chuyện.

Tôi im lặng suy nghĩ, cố sức ghi lại trong đầu óc mình những lời dạy bảo lợi ích của bậc tiền bối, của một nhân vật đã có nhiều công lao với đất nước.

– Tướng công có hy vọng gì không? “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư” thế mà từ hơn ba mươi năm qua, không phải là Nam Đế cư mà là một sự băm vằm chà đạp. Người dân Việt Nam chúng ta, ngày giờ nầy, tướng công có thấy….

– Ai cũng muốn đi ra sống ở ngoài xứ vì trong xứ quá khổ… Ta biết chứ, công ta và công của bao nhiêu binh lính suốt mấy triều đại, đã bỏ mình để dành từng tấc đất, tưởng để cho con cháu được ấm no, được mở mày mở mặt.

Câu chuyện đang nói dở thì tướng Mông Điềm trở về. Tiếc quá tôi chưa kịp hỏi để được nghe lời bình giá về mỗi nhân vật lãnh đạo suốt từ mấy chục năm nay… Chắc sẽ độc đáo lắm, nhưng bây giờ tướng Mông Điềm trở về rồi, tôi không muốn có người lạ nghe biết chuyện nhà. Tướng Lý Thường Kiệt như hiểu ý và có lẽ chính ngài cũng không muốn, ông nói khẽ, dùng Pháp ngữ và cũng đã nhắc lại một câu châm ngôn “Laver nos linges sales en famille”, nói xong ông cười, bí mật. Nói khẽ thế mà tướng Mông Điềm cũng nghe được, ông hỏi lại ngay, mà còn cố ý dịch câu tiếng Pháp của tướng Lý Thường Kiệt vừa nói ra tiếng Việt.

– Cái gì thế? Cái gì mà có câu “Hãy giặt quần áo bẩn của chúng ta ở trong nhà” vậy.

Tôi vội vàng đổi vấn đề không muốn nhắc lại, không muốn cho tướng Mông Điềm biết những gì chúng tôi vừa nói.

– Tướng công đi họp về, có gì vui không?

– Vui sao được mà vui, may cho những ai ngày giờ nầy đang sống nơi hải ngoại.

– Tướng công nói như thế là ý làm sao? Xin được giảng giải rõ hơn.

Cả hai ông tướng đều lắc đầu không muốn nói, và tôi đành chịu. Thì thôi, mình là người của kẻ dương trần, ai cho biết gì thì mới được biết cái ấy. Tôi cũng không phải là đứa thích tò mò đến độ vô phép. Đành chờ vậy, chuyện đâu còn có đó, sự thật nào rồi cũng sẽ được phơi bày ra, tôi quay hỏi tướng Lý Thường Kiệt.

– Tướng công có điều gì nhắn bảo với anh em chúng tôi, hay tướng công muốn gặp các đại… nhân vật phái nam, hiện giờ lưu vong có nhiều chiến tướng. Nhiều ký giả lão thành, nhiều nhân vật chính trị có tâm huyết, thế nào ngày về tôi cũng sẽ nói lại để họ sang đây gặp tướng công.

– Tôi đã nói với các hạ rằng không cần phải sang.

Tướng Mông Điềm đành nói, tướng Lý Thường Kiệt tiếp theo.

– Chỉ cần tâm thành và đầu não sạch sẽ, cũng như những bậc lãnh đạo tinh thần, tâm linh, mà có sự vụ lợi, có những hành động ác hiểm, dầu có là bí mật đến bao nhiêu đi nữa, thì cái lối lãnh đạo đó cũng chẳng đi đến đâu. Muốn gặp người cõi âm như chúng tôi cũng chỉ có vậy thôi, chẳng thêm bớt gì khác hơn.

Tôi nghĩ thầm, à ra thế, thảo nào, nhân đây, tôi sực nhớ đến một câu chuyện, độ ấy hồi mới mất nước, tôi được gặp một nhà sư Tiểu Thừa. Tu tại chùa Thái Lan. Nhân vật rất lạ lùng, gốc gác xứ Huế, hiểu biết rất nhiều về thiên cơ, về những sự mà thời nay liệt vào loại huyền bí, có người cho là dị đoan, phản khoa học. Đức Phật cũng không cho phép các sư thực hiện những thuật huyền bí ấy, sợ làm mê hoặc con người. Một hôm trong câu chuyện đề cập đến Hồ Chí Minh. Nhà sư đã tiết lộ rằng ngài và các bạn có nhiều lần dùng pháp thuật gọi hồn về. Già Hồ kêu rêu lạnh lắm, răng đánh khớp cầm cập. Sau nầy, mới nghe nói đến sự xác ông già bị ướp, cất vào hầm lạnh mỗi đêm, ban ngày lại được kéo lên, bắt mọi người sắp hàng đi chiêm ngưỡng cái xác để được lãnh thêm hộ khẩu. Có người còn bảo rằng hồi còn sống ông già đã đoán và lo sợ trước cái vụ nầy, đã làm chúc thư xin đừng ướp xác. Thế mà đàn em nào đã hóa trang bản chúc thư, cứ làm như ý mình. Nhà sư còn nói thêm rằng, hôm ấy cùng với mấy người quen đã đặt câu hỏi sao mà làm chi cuộc chiến xúi dân đi chết, lại bắt con dân nhịn nhục cực khổ, sao dám bảo là hạnh phúc là tự do. Cả ba chữ độc lập, tự do, hạnh phúc, chẳng có lấy một chữ nào đúng được một phần nhỏ. Đày đọa con dân làm gì, mà lại dựa vào dân để kêu gào đòi hỏi. Già Hồ vừa đánh khớp hai hàm răng vừa nói rằng đây là cái vận nước, bắt ông ta phải hành động như thế, dầu muốn hay không. Nếu không phải là ông ta thì trời cũng sai một ác quỷ khác, hiện hình lên làm người để đày đọa con dân đất nước giống hệt như thế.

Lâu lắm rồi, đã 14 năm qua, tôi hầu như quên đi, biết đâu ngày những trang sách nầy ra là số ông già đã bớt tội, sẽ có người cảm thông mà tha cho cái sự việc bỏ vào tủ lạnh. Đó là một hình phạt rất tàn ác, phản thiên nhiên. Người chết lại chỉ nhờ vào ban đêm mà cứ chờ đêm về là nhốt con người ta vào tủ lạnh. Như thế sao gọi là thương yêu bác Hồ được nhỉ. Hôm nay, nhân có hai vị tướng cõi âm,tôi mới sực nhớ tới câu chuyện do nhà sư kể lại.

– Có đúng như vậy không thưa tướng công?

Tướng Lý Thường Kiệt trả lời ngay.

– Đúng như thế, đất nước ta xây trên bao nhiêu xác chết thì sự đòi nợ và trả nợ cũng không có gì lạ. Chỉ tiếc rằng những người đi sau chẳng chịu làm gì để gìn giữ, để hàn gắn, xoa dịu những vết thương, mà còn làm cho vết thương trở thành hoen lỡ hơn.

Tướng Mông Điềm vẫn yên lặng, nhận thấy mình không có gì để dự vào, nhưng là người cõi âm, ông tướng biết rõ những gì đang quay cuồng, xáo trộn trong đầu óc tôi. Ông đặt ngay một câu hỏi với tướng Lý Thường Kiệt mà cũng như để hỏi hộ cho tôi, biết tôi chưa dám hỏi.

– Xin tướng công cho biết cái mệnh vận của quý quốc, rồi đây sẽ như thế nào, có trở lại được sáng sủa như dưới triều Lê, Lý, Trần. Thời mà tướng công được chọn phong làm Đôn Quốc Thái Úy, Đại Tướng Quân, Đại Tư Đồ.

Nói xong, ông ta quay về phía tôi hất hàm thân thiện hỏi.

– Có phải đó là ý muốn của các hạ chăng? Tôi đặt câu hỏi nầy thay cho các hạ đó.

– Tướng công đây và các hạ cũng đã biết là thiên cơ bất khả lậu, sao còn hỏi quanh. Cứ về nhắn với tất cả anh em rằng: Hãy ngồi lại với nhau, thương yêu nhau. Đừng để mắc vào mưu thần quỷ kế của lũ thực dân đô hộ mà phân chia Nam Bắc, Tôn Giáo. Hãy nghĩ đến đất nước mình đang cần từng cánh tay, từng giọt máu. Trong nước cũng chia rẽ, ngoài nước cũng chia rẽ… Thử hỏi còn làm gì được nữa.

Nói đến đây tướng Lý Thường Kiệt ngừng để nghỉ giọng, rồi lại nói tiếp, quay về phía tướng Mông Điềm, quả là lời tâm sự của ông tướng Nam bình Chiêm, Bắc phạt Tống đang nói với ông tướng Uy Chấn Hung Nô.

– Cái mệnh nước, cái cộng nghiệp, như nước Trung Hoa của quý quốc ngày nay, mấy chục năm trường đã bị bàn tay của một vị nghiệt tinh, yêu tinh nắm vận, thì đó kết quả là thế. Nào vệ binh đỏ, nào cách mệnh văn hoá, nào phân chia tài sản, mà rồi hỏi lại xem đã thâu nhặt được những gì. Mà đã hết đâu, ảnh hưởng vừa lan chiều rộng, vừa thấm chiều sâu. Muốn gột rửa tẩy xóa cho sạch để theo kịp người cũng phải cần cả mấy chục năm và mấy thế hệ lãnh đạo vững vàng, thiện lương để làm tan bớt cái uất khí đang bao trùm lên sông núi… Kia kìa….

Nói đến đây ông đưa cánh tay chỉ về hướng Bắc Kinh, phía Thiên An Môn, tướng Mông Điềm cau mặt nhìn theo. Tôi chẳng hiểu còn có ẩn nghĩa gì ở những cái nhìn, những câu nói đầy bí hiểm nầy. Để làm bớt tầm “thiên cơ bất khả lậu” như đang căng thẳng trong không khí, tôi đổi câu hỏi, quay hẳn sang phía tướng nhà.

– Tướng công nghĩ thế nào về vị anh hùng áo vải của dân ta.

Tướng Lý Thường Kiệt biết ngay rằng tôi muốn nói đến Thái Tổ Võ Hoàng Đế, tức là vua Quang Trung, ông thở dài, lắc đầu nói hạ giọng.

– Thành giả vi vương, bại giả vi khấu.

Tướng Mông Điềm sợ tôi không hiểu hết ý, nên đã giảng ngay, mà có lẽ như thế lại hay, ông cao giọng nói nhanh.

– Tiếng Việt của quý quốc có câu dịch rất sát nghĩa, tướng công cho phép tôi được nói thêm sau đó. Quý vị vẫn nói “Được làm vua thua làm giặc” và sau nầy dưới những chính thể cộng hoà thì bảo rằng: “được làm vua, thua làm Đại Sứ lưu động”.

Tất cả cùng cười vang thích thú, không ngờ tướng Mông Điềm lại duyên dáng, biết cách làm cười và biết hết cả ngọn ngành của xứ ta. Hình như hiểu ý của sự thán phục, tướng Mông Điềm còn muốn chứng minh thêm, ông nói tiếp.

– Chúng ta, nhất là những quân nhân, không được quên cái trận Xoài Mút, thuộc vùng Mỹ Tho, nơi mà Nguyễn Huệ đã dùng kế phục binh, đánh thắng được trận ấy, làm cho 20 nghìn quân và 300 chiến thuyền cứu viện của Xiêm La, tức Thái Lan ngày nay đã bị tan nát, chỉ còn lại vài nghìn người sống sót.

Nghe đến đây tôi cau mặt nói lẩm bẩm.

– Có phải vì thế mà chúng nó trả thù nên mới có những vụ cướp giết, hiếp hại trên biển của tụi hải tặc đó chăng.

Tướng Lý Thường Kiệt lặng yên, gật gù có vẻ hài lòng cái trí nhớ của tướng Mông Điềm. Riêng tôi không đồng ý với câu được làm vua, thua làm giặc lắm. Vua Quang Trung không những không phải là khấu, là giặc. Quan niệm nầy còn tùy thuộc xem ai đứng ở vị trí nào. Là một người dân tôn trọng đất nước, thương yêu quê hương thì không thể cho vua Quang Trung là giặc được. Hình như cả hai ông tướng đều hiểu những điều tôi đang nghĩ. Cũng hệt như mấy cái máy điện tử làm việc, không nói thành lời mà hiểu cả. Tướng Mông Điềm lại đổi vấn đề quay sang hỏi tôi.

– Các hạ có nghe nói đến những trường hợp gọi là tạo phản phong thủy không. Dùng chữ tạo phản thực ra cũng chỉ là dùng khi đứng ở phe chính quyền. Nếu ở phía đối lập thì sẽ gọi là cách mệnh. Bản quốc có trường hợp Hoàng Sào, hẳn quý vị đã từng đọc qua trong sử. Dưới thời Đường Hy Tông, 874 Tây lịch Hoàng Sào đã đưa quân đánh đến Trường An, đổi quốc hiệu là Đại Tề. Triều đình biết ông quê quán ở Tào Châu nên đã cho người đến đấy, tìm mộ tổ đào lên, phá hủy. Thế là chấm dứt.

– Chấm dứt bằng cách nào, xin tướng công nói rõ hơn được không. Tướng công làm như chúng tôi phải thông giỏi sử sách nói đâu biết đó.

– Thì khi bại trận tức là phải có những người tướng trung với triều đình đánh cho. Cũng hơi uổng, Hoàng Sào vừa thông giỏi văn vũ, đánh kiếm rất hay, cưỡi ngựa rất tài, lại giỏi cả thi thư. Về sau phải trốn vào Lang Hổ cốc tự vẫn mà chết.

– Sao không nói là nhờ những người tướng trung thành với triều đình mà lại nghĩ rằng nhờ ở sự phá phong thủy?

Chắc cả hai ông tướng đều cho tôi là thứ phụ nhân lắm chuyện, hay hỏi lôi thôi. Nhưng tướng Mông Điềm cũng kiên nhẫn giảng thêm, không tỏ vẻ gì là cáu kỉnh, bực mình.

– Các hạ không đọc sử của bản quốc kỹ hơn chứ nếu đọc kỹ sẽ thấy thời ấy, sau khi Vương Tiên Chi chết rồi, Sào thâu hết dư đảng của Vương, được tôn là Xung Thiên Đại Tướng. Quân thế như chẻ tre, công Kinh Châu, thâu Lạc Dương, phá Đồng Quan, tiến hãm kinh sư, Hy Tông phải chạy trốn sang đất Thục. Sào xưng Đế, lấy quốc hiệu là Đạo Tề, niên hiệu là Kim Thống. Nhưng tất cả cuộc phản loạn chỉ kéo dài có 10 năm. Ông ta có một đặc tình mà sử sách phải ghi là rất thích nuôi những người “vong mệnh” tức là những người có tội mà vượt ngục.

– Có phải đó là một lý do chiến thắng của Sào chăng?

Cả hai ông tướng đều mỉm cười, gật gù và cùng nói chữ “có lẽ” trong một lúc, đúng là những ý kiến lớn thường gặp nhau. Tướng Lý Thường Kiệt nói thêm.

– Cũng có lý nhỉ, vì những kẻ vong mệnh được Sào nuôi dưỡng tất đều mang ơn, chỉ có lúc xông pha nơi trận mạc mới thấy, đây là hoàn cảnh thuận tiện để trả ân. Người ta bảo Mạnh Thường Quân xưa cũng đã làm cho bao nhiêu thực khách phải mang ơn như thế.

Tướng Mông Điềm gật đầu nói thêm.

– Mạnh Thường Quân đã khôn ngoan dùng những người vong mệnh, đào tị ấy, cho làm thực khách, nhưng sự thật là còn dùng để lấy tin tức và bán tin tức cho các nước khác. Khôn ngoan lắm chứ, có lẽ Hoàng Sào cũng đã muốn bắt chước xử dụng phương pháp ấy, nhưng thời của Sào đã khác hẳn. Tuy vậy các sử gia ít dám đề cập đến.

– Chắc các sử gia không muốn nói đến, sợ làm cái công việc gọi là nối giáo cho giặc, xúi trẻ ăn bậy. Nhưng các hạ hẳn phải có đọc qua những trang sử ấy chứ.

– Thưa cũng có đọc qua các sách Phong Thủy nói đến những trường hợp long mạch bị phá hủy.

Nhìn ra phương Tây mặt trời đã hạ thấp, tôi cau mặt giận thời gian sao đi quá nhanh. Sắp đến giờ phải từ giã hai vị tướng để ra về, tức quá, tại sao ngày giờ cứ co rút lại. Nói chưa hết câu chuyện đã thấy mặt trời ra đi. Biết tôi đang cáu với thời gian, tướng Mông Điềm cười đỗ.

– Thôi đừng có giận, các hạ ơi, chúng ta vẫn còn nhiều ngày giờ để nói chuyện với nhau. Đêm nay về ngủ cho khỏe, có gì thắc mắc thì ghi vào giấy, ngày mai mang đến, chúng ta lại thảo luận nữa.

– Liệu ngày mai Lý tướng công còn có thì giờ để ra đây không?

Tôi nhìn ông tướng nhà, van vỉ hỏi, chỉ sợ ngài bận việc khác. Tướng Lý Thường Kiệt trầm ngâm suy nghĩ, rồi nói chậm rãi.

– Chưa biết… cũng có thể… để còn xem. Quý vị cứ ra trước ở đây, tôi sẽ đến sau. Cũng còn vài ba vấn đề liên quan đến xứ sở, để nhắn nhủ với các hạ đây, nghìn năm một thuở mà… biết đến bao giờ ta lại gặp được nhau.

Tôi mừng quá, muốn nhảy lên, muốn hét to. Chỉ sợ ông tướng nhà không thèm mất thì giờ với mình. Cũng tự biết thân phận mình chỉ là một tên cầm bút tầm thường, bé nhỏ, lại là phái nữ, mà từ xưa nước ta đã bị cái quan niệm trọng nam khinh nữ ràng buộc. Tướng Mông Điềm cũng tỏ vẻ vui mừng chia với tôi. Ông quay lại nói.

– Thôi các hạ lo về đi, ngày mai ta lại gặp. Tôi đã cho chúng nó giữ lại một chuyến xe để chờ các hạ đấy. Cứ chầm chậm mà đi, khỏi phải chạy gấp. Đàn bà mà cứ chạy với nhảy, chẳng dịu dàng tí nào.Ở vào thời tôi chắc sẽ được sung vào đội “Sóc Binh” tiền phong.

Tôi bật cười chợt nhớ đến mẹ thuở xưa cũng hay rầy cái tội ấy, tướng Lý Thường Kiệt cũng cười, chắc là cười chữ Sóc Binh. Lục Thao đâu có nói đến Sóc Thao, chỉ nói đến Khuyển Thao là hết. Tướng Mông Điềm nghiêm nghị đùa, không cười.

– Đặt thêm một Thao nữa dành cho những con người loại nầy, cũng được chứ đâu có sao, nhảy như con sóc.

– Ngày xưa mẹ của tại hạ hay rầy bảo là “phi Hảo Hán” đấy thưa tướng công. Chữ Hảo Hán đâu có nhẹ nghĩa như vậy nhỉ.

Chúng tôi từ giã nhau cũng qua những thủ tục chào hỏi mọi khi.

Về đến phòng trọ tôi cảm thấy mệt hơn mọi hôm, có lẽ vì hôm nay thay người đối thoại mà lại là một vị tướng của nước nhà, có bao nhiêu công lao trong việc xây dựng đất nước. Nói chuyện luôn luôn phải giữ gìn, không được có những lời, những ý nào thất thố, hay tại hôm nay kẹt xe. Hình như chiều nay có gì để mọi người đổ xô ra đường nhiều hơn những ngày trước. Một ông lớn đến viếng Trung Quốc chăng? một cuộc bán đấu giá chăng? Tất cả đều có thể, một cuộc biểu tình đòi hỏi yêu sách gì chăng? Vì là du khách nên không biết, hay tại rơi vào giờ tan sở. Cứ vào lối năm, sáu giờ chiều thì ở đâu cũng kẹt đường. Đông hay Tây, nhờ ngày đêm khác nhau, từ châu nầy sang châu khác, nếu không, ai đứng trên nhìn xuống chắc hẳn phải ngợp lên, lo sợ, sao mà loài người đông thế. Họ mà kéo lên một hành tinh nào thì hành tinh ấy chịu sao nổi. Vì loài người nổi tiếng là nhiều tính không thiện.

Vì mệt nên chẳng thấy đói, tôi pha một ấm trà nhạt, sau khi vào tắm rửa thay quần áo là lên giường, vừa nhâm nhi trà vừa đọc sách. Không thèm xuống phòng ăn tối, thỉnh thoảng nhịn đói một hôm cũng chẳng sao. Thật lý tưởng, có phải tất cả mọi sự tranh đấu ở trên đời, dưới bất cứ hình thức nào, cuối cùng chắc cũng chỉ cốt đạt được những điều tôi vừa nêu ra, thân hình sạch sẽ, quần áo nhẹ nhàng, chui vào giường với một tách trà ngon và một quyển sách thật hay. Nhất là ở hoàn cảnh tôi hôm nay, sau khi được gặp mấy nhân vật sáng giá để học hỏi thêm nhiều vấn đề, nghe ngóng được nhiều chuyện.

Ngày mai tôi sẽ mang cái ý nghĩ nầy ra hỏi xem nhị vị tướng công có đồng ý, những con người có bao nhiêu năm tranh đấu, bao nhiêu học vấn kiến thức và bao nhiêu kinh nghiệm đời. Nếu các ngài ấy mà cũng đồng ý với tôi thì quả là điều đáng kiêu hãnh.

Tôi ngủ một giấc dài,thức dậy nghe tiếng mấy người làm phòng đang kéo máy hút bụi ở ngoài hành lang. Họ nói với nhau chí chóe bằng tiếng Tàu, cố nhiên, thì ra mình đang sống trên nước Trung Hoa. Nhìn đồng hồ đã 7 giờ, tôi vội vàng tung chăn vào phòng tắm sửa soạn vội để còn ăn sáng và chạy nhanh ra xe cho khỏi muộn, phí ngày giờ và nhất là bắt những vĩ nhân chờ đợi thì thật tối vô phép.

Vừa xuống xe, ngước nhìn lên phía bờ thành quen thuộc đã thấy thấp thoáng bóng những ba người. Hẳn tướng Mông Điềm lại mời thêm được một nhân vật nào nữa đây chăng. Chưa đoán ra được ai là người khách hôm nay, chắc hẳn cũng quan trọng không kém nhị vị tướng của tôi.

– Kìa các hạ đã đến, không sớm lắm đâu nhé, mặt trời lên rồi đấy.

Tôi nghiêng mình kính cẩn thi lễ trước hai vị tướng, với vị thứ ba, có dáng dấp thật phong nhã,tay áo rộng, bộ râu dài. Tôi chưa kịp chào thì tướng Mông Điềm đã mở lời giới thiệu.

– Thi sĩ Tô Đông Pha.

Tôi ngạc nhiên, quả là không chờ đợi, trên cả sức tưởng tượng, vội vàng nghiêng mình thi lễ, cố giữ nét nho nhã, vì Tô thi sĩ là một văn nhân. Mấy hôm nay chỉ gặp toàn vũ tướng, e quen lối ăn nói bộc trực, không trau chuốt lời lẽ gì cả. Tướng Mông Điềm lên tiếng sau khi để cho tôi chào hỏi.

– Biết các hạ yêu trúc nên mời Tô tiên sinh đến đây. Có thể mời những thi nhân khác, nhưng vì nhà thơ nầy cũng mang chứng tương tư trúc nên mời đến trước, để thay đổi câu chuyện, hẳn các hạ cũng đồng ý.

– Vô trúc sử nhân đọa tục. (Không có trúc sẽ khiến con người thành tục).

Nghe tôi nhắc lại câu nói của Tô thi sĩ để mở đầu câu chuyện, mọi người cùng cười vui vẻ. Tướng Lý Thường Kiệt cũng tỏ ra chẳng thua ai ông nhắc một câu khác của Vương Du. Ông nầy cũng chỉ yêu trúc và đã nói những lời mà người sau nhắc mãi không quên.

– Vô nhục lệnh nhân sậu (Không có thịt sẽ làm cho người gầy) – Vô trúc lệnh nhân tục (không có tre làm cho người thành tục) – Nhân sậu thượng hữu phì (người gầy có thể làm béo) – Nhân tục bất khả y (Người tục thì chẳng có thuốc nào chữa được).

Tướng Lý Thường Kiệt vừa ngừng thì tướng Mông Điềm lại tiếp.

– Bất khả nhất nhật vô Thử Quân (Thử Quân là tên riêng của Trúc, có nghĩa là chàng nầy, một ngày không thể không có chàng nầy).

Để cho mọi người cười vui xong thi sĩ Tô Đông Pha mới chậm rãi hỏi tôi. Giọng thật trầm, ông vừa là một nhà thơ vừa là một chính trị gia một nhà bác học uyên thâm, mọi người chỉ biết ông qua một số văn thơ ít ỏi, mà sự thực thì ông đã sáng tác rất nhiều. Nhất là trong mấy năm lưu đày, mặc dầu không hợp phong thổ, ông vẫn tiếp tục sáng tác, không phải chỉ ở mặt văn chương thôi, còn cả hội họa và hoàn thành bộ Luận Ngữ Thuyết, gồm 5 quyển..

– Các hạ, tôi cũng xin gọi theo như hai vị tướng công đây, mặc dầu thấy nó hơi chướng, nhưng tướng Mông Điềm đã giới thiệu trước rằng các hạ cứ phàn nàn mãi cái hình hài của mình, thôi thì cũng xin chiều vậy, chứ thi nhân chúng tôi mà gặp phái nữ là có sẵn rất nhiều mỹ từ để xưng hô. Quả thật đây là lần thứ nhất, chắc lại một thứ Hoa Mộc Lan nữa chăng?

– Thưa không hẳn là phải như thế, nhưng cần gì phải giải thích, hôm nay quả là một mối duy duyên kỳ ngộ, tại hạ không hề chờ đợi.

– Người da trắng, dương nhân không biết yêu trúc. Sống trên đất Hoa Kỳ mà các hạ dám đánh bạn với trúc, kết tri kỷ với Thử Quân không phải là chuyện dễ, khá vất vả đấy nhỉ. Các hạ có thể cho bỉ nhân biết lý do tại sao không là Mai, hoặc Lan, hoặc Cúc cũng đều được xếp vào hàng tứ quân tử mà lại chọn Trúc. Vì ai chăng, vì đâu chăng?

– Chẳng vì ai mà cũng chẳng vì đâu cả, tại hạ vốn là mộc mệnh, chắc phải có một tiền kiếp nào cũng đã là dòng dõi cỏ cây. Nhân vì nghề nghiệp nên có viết mấy bài nói về hoa cỏ. Trong ấy hay nhắc đến trúc, viết về các thứ trúc. Bài viết tình cờ rơi vào tay mấy nhà Sư. Các ngài bèn cảm lòng yêu trúc nên đã dành cho một chậu trúc nhỏ. Tại hạ mang về đặt lên bàn làm việc, nuôi dần cho đến nay đã tám năm hơn. Thế là ngôi nhà biến thành Ngõ Trúc, mang luôn cái tên Ngõ Trúc cho tiện. Ai đến thăm khỏi cần nhớ số nhà.

– Những ai biết yêu trúc đều là bạn của ta, chắc các hạ nên về thành lập lấy một hội yêu trúc, bầu anh nào chịu khó sưu tầm nhất làm hội trưởng, và hội viên cũng phải một lòng nếu hoàn cảnh không có vườn thì ít nhất hiểu qua cái văn hóa Trúc.

Tướng Lý Thường Kiệt cau mặt hỏi chặn ngang.

– Xin tiên sinh cho biết tại sao phải yêu trúc mới được vào hội. Nếu hội mang tên là Hội Người Quân Tử. Tại sao không là Lan, là Mai, là Cúc. Hôm nay cũng là lần thứ nhất bỉ nhân mới được nghe nói đến văn hóa trúc. Khá kỳ diệu, quân nhân chúng ta chỉ toàn nghe nói chuyện kiếm với cung, phải không tướng Mông Điềm? Còn một điểm nữa tưởng cũng nên chú ý là những kẻ giàu tiền sẽ mướn người làm vườn đến trồng trúc để mình cũng đội cái nón quân tử ấy thì sao. Sẽ là một thứ Ngụy Quân Tử phải không?

Tướng Mông Điềm đưa tay xin trả lời, chỉ sợ người khác dành nói.

– Xin phép Tô tiên sinh cho bỉ nhân được trả lời Lý tướng công.

Ngày xưa thời Hán Vũ Đế cũng có cái Trúc Cung, cả lâu đài dựng lên toàn bằng trúc. Do đó mà bước chân vào lâu đài ai cũng nghe được một âm thanh rất kỳ ảo, đó là nhờ thịt da của trúc. Bỉ nhân cũng đồng ý với Tô thi sĩ, người bỏ công sưu tầm trúc phải là người cùng mang tính chất với trúc. Mà trong tứ vị quân tử ấy thì Trúc là vị quân tử ít khó tính nhất. Cũng nhân đây, bỉ nhân xin được hỏi Tô tiên sinh. Bỉ nhân có được đọc một tài liệu về Nam Họa, trong tài liệu ghi lại rằng: “Một hôm Tô Đông Pha nổi hứng muốn vẽ trúc, nhìn ra chung quanh chẳng có mực. Sẵn thấy nghiên bút son trước mắt, ngài vớ lấy vẽ ngay một bức tranh hồng trúc. Có người trông thấy hỏi ông: “Thế thượng hữu hồng sắc trúc hồ?” (trên đời có trúc mầu hồng hay sao). Tô tiên sinh trả lời ngay: “Thế thượng hữu mặc sắc túc hồ?” (trên đời nầy có trúc mầu đen không). Nhân hôm nay có mặt tác giả, bỉ nhân muốn hỏi xem câu chuyện có thật như thế không.

Thi si Đông Pha gật đầu khẳng định, tôi vội lên tiếng cãi.

– Tất cả đều sai ở thời đại nầy, tại hạ xin mời chư vị anh hùng đáo Mỹ quốc, đến Ngõ Trúc tệ xá sẽ chứng minh lại vấn đề, rằng “Thế thượng hữu hồng trúc, dã hữu mặc trúc”. Điểm thứ hai là hội yêu trúc chưa được thành lập, tức là chưa có tên, đâu dám lấy tên là Hội Người Quân Tử. Trừ phi đợi ngày quý vị sang Hoa Kỳ đến Ngõ Trúc mới dám tính, chắc sẽ mời quý vị làm Cao Quý Hội Viên.

Cả ba người cùng cười chắc là cười mấy chữ cao quý tôi vừa dùng, vì chưa bao giờ nghe.

Tướng Mông Điềm nhìn tướng Lý Thường Kiệt đề nghị không chờ hỏi ý kiến Tô thi sĩ.

– Thế thì sang năm Canh Ngọ chúng ta nên đi một vòng viếng mấy cơ quan quân sự của xứ Hoa Kỳ xem họ làm ăn ra sao, nhân tiện ghé thăm Ngõ Trúc của các hạ đây. Ban nãy Lý tướng công có nói ba chữ Ngụy quân tử. Theo thiển ý thì ngụy hay không cũng chẳng hề gì. Mỗi một cây trúc mọc bất cứ ở nơi nào đều đã nói lên cái bản chất quân tử của nó, người cứ ngắm đi, cứ yêu đi hay cứ hờ hững cũng không sao, rồi tâm hồn vẫn từ từ sẽ thay đổi. Sức thu hút của người quân tử bao giờ cũng cũng âm thầm, nhưng là một thứ âm thầm tiềm tàng như nước trong khe, nghe róc rách nhẹ nhàng thôi, nhưng khá mãnh liệt.

– Mà tại sao không? Mời thêm một vài người bạn nữa cùng đi cho vui. Tô tiên sinh cùng đi với chúng tôi chứ.

Tô thi sĩ gật đầu, thấy không khí hơi yên lặng tôi vội lên tiếng, sợ thì giờ qua mà cơ hội để gặp các danh nhân như thế nầy đâu phải dễ.

– Tại hạ có một điều thắc mắc, mới sực nhớ lại đêm hôm qua, hôm nay xin được hỏi quý vị.

– Hỏi đi, sao mà thắc mắc nhiều thế.

– Tại hạ từng nghe câu “Bao công nhất tiếu, Hoàng Hà thanh” là sao? mà Hoàng Hà thanh thì Thánh nhân sinh. Người ta nói như vậy có đúng không? Và cái nhà ông Bao Công sao mà khó tính thế.

Tướng Lý Thường Kiệt phụ họa thêm với câu hỏi của tôi. Ông vui vẻ vì thấy tôi biết đổi câu chuyện một cách nhanh chóng, đỡ nhàm.

– Có sách bảo là cứ mỗi 500 năm, thì sông Hoàng Hà lại một lần trong mà hình như từ thời Minh Thái Tổ sông Hoàng Hà đã trong, bây giờ là hơn 500 năm rồi, Thánh nhân đã ra đời chưa?

Tôi đành nói ngay.

– Nếu đã sinh ra đời rồi thì hiện ở đâu? Ai là thánh nhân?

Tướng Mông Điềm và thi sĩ Tô Đông Pha đều mỉm cười, hai người nhường cho nhau trả lời, nhưng rồi tướng Mông Điềm nói trước.

– Các hạ quả là người nhiều chuyện, đáng thương cho người đàn ông nào bị sống với các hạ, vậy thì làm sao có thì giờ mà cơm với canh cho lành, cho ngọt như câu tục ngữ của quý quốc, nhưng các hạ đã hỏi thì bỉ nhân cũng phải trả lời. Những lời nầy chắc quý vị đã xem trong sách Thập Di Ký của Vương Gia chứ gì. Ông này rất giỏi về sự đoán nhiều lần trúng nên khá nổi tiếng, sống trong động chứ không ̉ trong nhà, ông có hằng trăm học trò, tuy tiên đoán cho người nhiều sự hay mà riêng cho mình thì lại không biết trước là mình rồi bị người giết. Thập Di Ký có đến 19 quyển, bên trong có nhiều chuyện hay, nhưng cũng có lắm điều quái đản không nên tin. Tuy nhiên cũng lạ, trong vấn đề mà các hạ vừa hỏi. Tương truyền rằng: “Đan Khâu thiên niên nhất thiêu, Hoàng Hà thiên niên nhất thanh” có nghĩa là xứ Đan Khâu mỗi nghìn năm bị cháy một lần và sông Hoàng Hà mỗi nghìn năm lại trong nước một lần.

– Đan Khâu là đâu vậy?

– Là xứ của thần tiên, ngày đêm trời đều không tối mà chỉ có ánh sáng. Nhưng theo bỉ nhân thì câu nầy không đúng hẳn, chúng ta không nói đến Đan Khâu mà chỉ nói đến Hoàng Hà, chẳng đến một nghìn năm đâu, có 500 năm thôi, có khi còn ít hơn, nếu ai chịu khó dò theo lịch sử.

Tô Đông Pha thấy tướng Mông Điềm ngừng, ông vội đưa tay xin tiếp ý.

– Người ta cho rằng Hoàng Hà là vị trí của chư hầu, thanh thuộc dương mà trọc thuộc âm, thanh là trong, và trọc là đục, các hạ biết rồi chứ. Hoàng Hà đang đục mà bỗng hoá trong tức là âm muốn đổi thành dương, tức là chư hầu sẽ nổi dậy, xưng đế, nhưng không phải một sáng một chiều mà xẩy ra ngay được đâu, lắm khi cả mười năm sau. Một thí dụ vào năm 1333 tháng 11 ngày Mậu Thìn, từ Bình Lăng đến Mãnh Tân, cả trăm dặm, nước sông Hoàng hà đã đổi ra trong vắt, chỉ trong vòng có bảy ngày là Minh Thái Tổ hưng. Hình như thời ấy là vào thời Nguyên Thuận Đế thì phải. Nhiều lắm, còn có rất nhiều thí dụ, ai muốn biết xin cứ về tìm sử sách mà đọc, chúng tôi không thể nhớ hết.

Tướng Lý Thường Kiệt lại hỏi, thì ra ngài cũng tò mò không kém.

– Người ta bảo: “Hoàng Hà thanh, nhi thánh nhân sinh” vậy thì từ độ ấy đến bây giờ, sau lần Hoàng Hà thanh ở Mãnh Tân, có còn thanh lần nào nữa không, có thánh nhân nào sinh ra chưa?

– Hình như chưa, chúng ta còn phải chờ, nhưng chắc cũng không lâu nữa đâu, ngày nào có thánh nhân sinh thì thiên hạ sẽ thái bình.

Thi sĩ Tô Đông Pha lại lên tiếng, chắc ông cũng nhận thấy sự gặp gỡ hôm nay là một mối duyên độc đặc, không phải lúc nào cũng có, và ai muốn cũng được, một lúc mà gặp được những hai vị tướng, mà lại là thứ danh tướng, ông muốn đặt một câu hỏi thuộc về quân sự.

– Nhân có hai vị danh tướng bỉ nhân muốn đặt vài câu hỏi về những vụ khai quật ở Đôn Hoàng. Người ta tìm được những trang sách nói về vấn đề “Quan Vân, và Chiêm Khí”, bỉ nhân muốn biết những điều nầy xuất phát tự thời nào?

– Chắc phải từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Hán Tần, binh chiến tần phồn nên các chiêm gia mới tạo dựng thêm cái môn ấy chăng.

– Đọc trong các Chiêm Vân Khí thư ấy, toàn là “Bất khả công” (không nên đánh). Nầy nhé, bỉ nhân xin kể sơ qua, ngày Mậu kỷ có mây mầu xanh, bất khả công. Ngày Canh tân Xích vân, bất khả công. Ngày Nhâm quý Hoàng vân, ngày Bính đinh Ô vân, và ngày Giáp ất, Bạch vân.. tất cả những ngày ấy đều không đánh được. Tìm mãi mới có đoạn ghi, khi hai đạo quân tương đối mà thấy phía khách binh bên trên có khí đỏ như miếng bố trải mấy chục trượng mà phía dưới mầu vàng và trắng tức là có sự bội phản. Nếu thấy hiện ra vào lúc hoàng hôn là tại thần, nếu thấy về đêm là tại lính, cần phải phòng bị. Khi thấy mây như đôi rắn mầu xanh mà bay đi thì lúc ấy mới gọi là khả kích, đại thắng, và nếu thấy mây như gà đá mầu trắng và mầu đỏ tương tùy, đó là điềm báo có tướng sĩ rất anh dũng, có thiên trợ, tức là sự giúp đỡ của trời.

Tôi thấy cả hai ông tướng đều tủm tỉm cười thích thú.

Tướng Lý Thường Kiệt khen.

– Tiên sinh thật tài hoa, nào thi, nào thư, nào họa. Bỉ nhân đọc mãi bài Thủy Hoàng Phù Tô Luận, hôm nay mới được gặp đây, thật bất ngờ và cũng phải nói là có duyên với nhau. Xem nào, hình như tôi có nhớ thuộc lòng một câu ở đoạn cuối: “Cố dĩ pháp độc thiên hạ giả, mạc hữu bất phản trung kỳ thân hòa tử tôn.” (lấy phép độc mà hại người thì nó sẽ trở về vận vào mình và con cháu). Sao mà đúng thế, đúng từ cho Thủy Hoàng, Vệ Ưởng, Lý Tư, ngay cả Triệu Cao và bao nhiêu người khác bất cứ ở vào lúc nào, thời nào. Chẳng biết chư vị đây có đồng ý không?

Tướng Mông Điềm tiếp lời, cả hai ông tướng đều có vẻ cảm phục nhà thơ nầy, chắc phải như thế, nếu không sao lại chẳng mời một nhân vật khác.

– Nhân tiện đây xin phép để cảm tạ tiên sinh, cũng trong bài Thủy Hoàng Phù Tô Luận ấy đã có nhắc đến tên bỉ nhân những mấy lần. Phải nói rằng ở đời, được khen hay chê bởi một nhân vật xứng đáng thì nó mới thật là chân giá trị, chứ gặp những vô danh thị, dầu có ca ngợi đến mấy mươi cũng vứt đi. Bỉ nhân không giống mọi người nên vẫn thích bài Hậu Xích Bích với cái ý bảo: con chim hạc đơn côi bay ngang trên đầu ta ban nãy có phải là hóa thân của đạo sĩ đó chăng, “Trù tích chi dạ, minh nhi quá ngã, phi tư giả a. Đạo sĩ cố tiếu…” Lãng mạn đến như vậy mới thật là tuyệt vời.

Tướng Lý Thường Kiệt lại bảo thích Tiền Xích Bích hơn. Đúng là một tác phẩm được viết lên do tâm linh, trong cơn tĩnh túy, tức là say đó mà vẫn tỉnh, tôi muốn dùng chữ extase của tiếng Pháp cũng như Vương Hy Chi với Lan Đình Ký, sau đó có muốn làm lại một lần khác cũng không thể được.

Thi sĩ Tô Đông Pha chỉ mỉm cười không nói một lời nào, riêng phần tôi thật là vui thích, nghe được những người cõi âm phê bình nhau, mà toàn là vĩ nhân, nói những đề tài cao siêu, đặc biệt. Người ta thường hay nghĩ rằng quân nhân là võ biền, vũ phu chỉ biết vũ không biết văn, nhưng với hai vị tướng hôm nay quả là ngoại lệ. Nhân các ngài đang cao hứng, tôi cũng phụ họa hỏi vào.

– Vậy Tô tiên sinh là tác giả, xin cho biết ngài thích bài nào?

– Ừ nhỉ, phải hỏi tác giả mới đúng, lắm bài thật nổi tiếng mà chính tác giả lại không ưă. Như thi sĩ Bạch Cư Dị, trong một bức thư dài viết cho người bạn, ông đã phàn nàn rằng đi đâu cũng nghe nói Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca, làm ông phát bực mình, ngay từ trong các hàng quán, tửu điếm trà đình. Trong khi tác giả chỉ thích người ta biết đến những bài có tính chất xã hội như Mải Thán Ông và những bài gì gì đó.

Tướng Mông Điềm nghe tướng Lý Thường Kiệt nói đến Bạch Cư Dị, ông quay lại gật gù có vẻ hài lòng, cho mọi người biết rằng con nhà võ cũng thông suốt thi thư như ai.

– Người đời phần nhiều muốn trốn sự thật, ai cũng sợ bị sự thật dí vào mắt, mà sự thật thì có mấy khi vui. Tất cả đều chỉ là những ảo ảnh, nhưng loài người vẫn thích chạy theo những cái bọt nước đó.

– Tướng công nói cứ y như là trong sách Phật. Nhưng bây giờ xin mang câu hỏi của các hạ đây để hỏi ngay tác giả, Tô tiên sinh.

– Bài nào cũng vậy, viết xong rồi nó không còn là của mình nữa, nó là của… quý vị như hôm nay. Bổn phận con tầm là nhả tơ, của chúng tôi là sáng tác, sáng tác thêm mãi. Về sau nầy hẳn quý vị có nghe nhà đại văn hào của Đức quốc Goethe, ông cũng nói, nhà văn chúng tôi sáng tác như đàn bà sinh con. Vừa xong một tác phẩm nghe thề thốt kêu ca ầm cả lên để rồi chỉ trong vòng mấy tháng lại thấy bà mang thai, và nhà văn cũng hì hục chuẩn bị, hoặc chạy chọt đi xuất bản tác phẩm khác.

Thi nhân quay lại hỏi tôi.

– Các hạ… cũng đồng ý chứ, nhưng tại sao… lại sang đây, có việc gì không hay chỉ là du ngoạn. Mỗi người khi ra đi bao giờ cũng có mục đích, nhất là sang những xứ như bản xứ, không phải như sang châu Phi.

Tướng Mông Điềm dành trả lời thay tôi, thấy thi nhân hơi ngập ngừng khi phải gọi tôi là các hạ.

– Đi mua sách Thiên Văn, Địa Lý, mà kiếm chưa ra, hôm nào cũng ra đây mất hết cả ngày giờ. Chắc đến lúc về hành trang cũng sẽ nhẹ như lúc đi mà thôi.

– Đi tìm các thứ như Tấn Thư Thiên Văn Chí, Hán Thư Thiên Văn Chí.. mà đọc rồi ghép lại cũng tạm đầy đủ. Có chứ không phải không, nhưng phải chịu khó lùng.

Nghe Tướng Lý Thường Kiệt nói, thi sĩ Tô Đông Pha nhường lời, nhưng ông tủm tỉm cười, có vẻ thú vị trước khi nói.

– Ngày giờ nầy, thời đại nầy mà sao còn có những người cổ lỗ sĩ quá vậy. Trong cơ thể máu huyết có cái chromosome nào thừa chăng, người ta chuẩn bị lên cung trăng mua đất, mua nhà, xây cất đủ mọi thứ mà …

Tướng Lý Thường Kiệt đỡ lời.

– Bản quốc hay có những quái nhân, quái vật như vậy đó.

– Đúng đấy, sau nầy bỉ nhân hay đọc một vài tác phẩm, nói đến Lý Ông Trọng, nói đến Trạng Quỳnh v.v.. Bỉ nhân còn nhớ mãi hai câu đối “Sư sử sứ” và “Phụ phù phu”. Tài tình thật, quý vị đây và các hạ biết cả chứ.

Chỉ có tướng Lý Thường Kiệt gật đầu, tướng Mông Điềm hơi cau vừng trán, còn tôi thì cứ ngây ra không biết hai câu đối ấy là của ai, xuất phát tự thời nào. Thi sĩ Tô Đông Pha đọc nốt cả hai câu.

– “Đường thượng tụng kinh sư sử sứ.” (Trên thềm tụng kinh nhà sư sai ông sứ giả. Câu đối lại là: “Đình tiền túy tửu phụ phù phu” (trước sân say rượu vợ nâng chồng.) Hay thật. Sách ghi rằng câu đối nầy là của vua Thánh Tông ra cho ông trạng nguyên Lương Thế Vinh, nhân một hôm nhà vua ra chùa, có quan trạng đi theo phò giá. Hay hơn nữa là nghe bảo rằng quan trạng làm bộ say rượu ngã ra sân và xin được gọi phu nhân đến đỡ dậy, để rồi trả lời với vua rằng, đây chỉ là câu đối của thần mà thôi.

Tướng Lý Thường Kiệt tiếp lời thi sĩ Tô Đông Pha.

– Có sách lại ghi rằng có một hôm sứ Trung Hoa đến viếng chùa, bị nhà sư sai đốt hương, nên mới ra câu đối cho các quan, có mấy chữ hơi khác là: Điện thượng thiêu hương sư sử sứ. Cống Quỳnh bèn giả say rượu cho bà Đoàn thị Điểm dìu đi để đối lại như câu trên… phụ phù phu.

Tướng Mông Điềm gật gù thưởng thức, ông nói.

– Chúng ta phải công nhận rằng hai quốc gia tuy có nhiều điểm rất cách xa mà vẫn có gì gần gũi. Người đọc âm Việt cũng có các thượng thanh, bình thanh như chúng tôi. Chỉ có lắm nơi chữ sư chúng tôi đọc