CỨ HÀNH ĐI! Ajahn Jayasaro
Ajahn Jayasaro thọ giới tỳ kheo với ngài Ajahn Chah năm 1980. Từ 1997 đến 2002, ông làm trụ trì chùaWPah Nanachat, một tu viện quốc tế theo Truyền Thống Tu Trong Rừng của Thái Lan. Hiện ông đang sống ẩn cư tại trung tâm Thái Lan.
Dầu bạn đang tập tu thiền hay tập đi xe đạp, Thiền sư Jayasaro nói rằng, vấn đề không phải là bạn tập giỏi thế nào hay đi được bao xa. Vấn đề đơn giản nằm ở chỗ là bạn đã làm với tấm lòng chân thật và nỗ lực triền miên.
Theo tôi nghĩ, hầu hết những lời dạy của ngài Ajahn Chah không phải là sâu xa lắm đâu. Trong đó không có những điều mà bạn chưa từng nghe qua, đến nỗi bạn sẽ kêu lên, “Ấy dà, giáo lý Phật giáo Nguyên thủy trong rừng thiền! Nếu không đến đây hẳn là tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội được khai thị như thế này đây!”, hay “Thật là những điều khai mở pháp chưa từng nghe thấy”.
Thay vào đó, mỗi lời ngài dạy đều quen thuộc. Dường như ta được nghe những lời dạy này lần đầu tiên, nhưng đồng thời, chúng không phải là những thông tin mới mẻ mà ta cần tra từ điển mới hiểu. Ngài luôn có khả năng diễn tả bằng những từ ngữ đơn giản, mà thân thuộc vì mối liên hệ, vì cảm giác tận tụy, tin cậy mà ta có thể cảm nhận được từ ngài. Như thể là ngài có khả năng tạo ra một môi trường học tập cho chúng ta.
Qua mẫu mực, sự có mặt và uy lực của ngài, chúng tôi cảm thấy có sự ham muốn (chanda) thực tập mãnh liệt. Tôi không biết có nhiều người quen thuộc với thuật ngữ này không, nhưng đó là một tử rất quan trọng, cần thấu đáo nghĩa của nó. Ở phương Tây khi Phật giáo được giảng thuyết ở đó, thường dẫn đến sự hiểu lầm sự khổ là do tham ái, nên bạn không được tham muốn bất cứ thứ gì. Thật ra, đức Phật đã giảng về hai loại ái: Ái dục do si mê, ảo tưởng, được gọi là tanha và dục do trí tuệ, hiểu biết, được gọi là dhammachanda hay đơn giản hơn là chanda. Thuật ngữ này có nhiều nghĩa, nhưng ở đây tôi dùng nó để chỉ cho lòng ham muốn có trí tuệ, hiểu biết và động lực chính đáng, là điều mà đức Phật đã nhấn mạnh là hoàn toàn cần thiết cho bất cứ sự tiến bộ nào trên con đường tám nhánh (Bát Thánh Đạo).
Khi chúng tôi tu học với ngài Ajahn Chah tại chùa Pah Pong, ngài có thể tạo ra quanh ngài và trong tâm các thiền sinh, cái cảm giác chanda (ham muốn) này. Chúng tôi phân biệt chanda khác với tanha, là loại ham muốn bất thiện. Điều dễ nhận ra nhất là tanha chú trọng đến kết quả của hành động, trong khi chanda thì chú trọng đến chính hành động đó. Như thế tanha muốn được có, muốn là, muốn trở thành, muốn loại bỏ, muốn tách rời khỏi cái gì đó. Còn chanda muốn hành động.
Tôi nhớ lại, những ngày ấy sau buổi kinh chiều, Ajahn Chah thường nói: “Đã đến giờ các con trở về thất để dồn sức nỗ lực”. Ngài không nói, “Hãy về hành thiền đi!” Vì thế việc thực hành của chúng tôi được nhìn qua sự nỗ lực, và việc dồn sức nỗ lực mới là điều quan trọng. Ý chí và sự quyết tâm muốn thực hành được gọi là chanda.
Tôi rất ít khi dạy thiền ở phương Tây, nhưng ở Thái Lan vấn đề chung của các thiền sinh cư sĩ là họ hành thiền để được bình an. Do đó khi họ hành thiền và không đạt được an bình, hay không phải là loại an bình mà họ muốn đạt được, họ trở nên bức xúc, chán nản và đôi khi còn cho là mình không có đủ khả năng tâm linh. Chúng ta có thể nói rằng dưới nhiều khía cạnh, đi theo con đường đạo đã là quả; đó là điều tôi tự thấy mình hay nhắc đến. Thử so sánh, như một đứa trẻ đang học đi. Bạn có thể nói, “À, nó đi đâu? Đi được bao xa?” Nhưng vấn đề không phải ở đó. Không phải đứa trẻ đứng dậy, bước vài bước, té lên té xuống, là để đi đâu. Không thể coi là đứa trẻ thất bại vì nó không đi được đến nơi nào. Tương tự, nếu bạn tập đi xe đạp, không quan trọng là bạn thực sự đi đến đâu. Câu hỏi là, bạn có thể giữ thăng bằng khi ngồi trên xe không? Bạn có điều khiển xe được không? Bạn có chạy được xe không? Cho nên mục tiêu của việc thực tập không phải là một nơi đến nhất định nào.
Tôi nghĩ là chúng ta cũng cần nhìn việc hành thiền giống như thế. Ta nói, “Tại sao chúng ta phải khổ nhọc như vầy?” Ta làm thế để làm người biết cách sử dụng nỗ lực của mình liên tục và đúng cách, bất kể hoàn cảnh chung quanh như thế nào hay các chướng ngại ra sao. Khả năng luôn cung ứng nỗ lực không mệt mỏi mới chính là mục tiêu. Nói thế không có nghĩa là ta không màng đến việc đạt định. Nhưng định tự nó sẽ đến. Như là một hệ quả tất yếu của sự nỗ lực không ngừng nghỉ, chính đáng, hết lòng và trí tuệ này.
Khi làm việc, một số người coi công việc của mình là sự áp đặt khốn khổ mà họ phải nghiến răng chịu đựng để được lãnh lương cuối tuần hay cuối tháng. Điều này đưa đến nhiều cái khổ ở nơi làm việc; nếu công việc được coi như là một phương tiện đưa đến cứu cánh, thì nó dễ là nguyên nhân của việc làm cẩu thả, hay ngay cả tham nhũng, không liêm chính. Vì nếu bạn có thể tìm thấy một phương tiện dễ dàng hơn cho cùng một mục tiêu, thì tại sao không làm nhỉ? Nhưng nếu bạn chuyển tâm hướng đến chính công việc của mình, chứ không phải hướng đến việc chờ đợi được lợi lạc hay hạnh phúc sẽ đến ở tương lai do kết quả công việc đưa đến, điều đó không có nghĩa là bạn không được thưởng công; bạn vẫn được lãnh lương. Nhưng trong tâm trí bạn không chỉ có nghĩ đến lương bổng. Thái độ của bạn đối với việc hành thiền cũng thế. Nó không còn là những lời ta thán, “Ôi, tôi đã hành thiền biết bao lâu rồi mà tôi vẫn chưa đạt được, chưa đến, chưa nhận thức rằng .…” Vấn đề là, bạn có phải là người luôn cố gắng nỗ lực không ngừng? Bạn có tìm được niềm vui và hứng thú trong nỗ lực của mình?
Đối với trẻ em, sự chọn lựa được coi là một loại mệnh lệnh đạo đức; một đứa trẻ có thể nói một cách tự nhiên rằng, “Vì con thích, con sẽ làm”, hay “Con không thích nên con không muốn làm”. Lớn lên, ta có thể tô điểm hay ngụy trang điều đó, nhưng trên thực tế, đó cũng là lý lẽ của người lớn. Có những thứ được ta ưa thích và ta tìm kiếm lý do để giải thích tại sao ta thích chúng, nhưng không đủ chân thật để nhận ra rằng cảm giác thích hay không thích xảy ra trước và lý luận đến sau. Một nhận xét rất đơn giản là có những thứ ta thích, với thời gian sẽ là mối tai họa cho ta và cho người. Tương tự, có những thứ ta không thích, nhưng với thời gian, sẽ đem lại ích lợi và hạnh phúc. Do đó chúng ta không thể nghĩ rằng cảm giác thích hay không thích của ta là dấu hiệu đáng tin cậy hay đủ để ta bỏ thời gian làm điều gì đó hay kết nối với ai đó..
Như thế, cái mà ta đã học được từ thiền là khả năng dừng lại, quán sát, chứ không để những cảm giác thoáng qua của việc thích hay không thích dẫn dắt ta đi. Chúng ta học cách luôn nỗ lực. Theo ngài Ajahn Chah, “Khi bạn cảm thấy phấn khích, siêng năng, bạn hành thiền, và khi bạn cảm thấy lười biếng, bạn cũng hành thiền”. Có nghĩa là bạn nhận thức được các cảm xúc này, nhưng bạn không để chúng ảnh hưởng đến nỗ lực của mình.
Như đã nói ở trên, khả năng luôn nỗ lực phụ thuộc rất nhiều vào chanda. Khi bạn bắt đầu thời khóa thiền nào, điều quan trọng là nhận biết chanda không phải luôn có mặt, ngay cả đối với các vị tu sĩ, những người đã nguyện hiến cả cuộc đời vào việc hành thiền, cảm nhận về chanda cũng trồi sụt. Nếu bạn thiếu cảm giác thích thú và chanda - sự hưng phấn và nhiệt tình để thực hành - thì việc hành thiền của bạn có thể nhanh chóng đi đến chỗ trì trệ hay thất bại. Như thế là bạn có vấn đề nghiêm trọng. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ là nên xét lại mức độ hào hứng trước khi bắt đầu hành thiền. Nếu như không thấy hứng thú, bạn cần bỏ thời gian vun trồng cảm giác đó, dấy khởi nó lên. Bạn càng thực hành theo cách này, bạn càng dễ dàng, càng nhạy bén trong việc vun trồng chanda, cho đến khi việc đó trở thành như là tự động. Một trong những cách đơn giản nhất để làm điều này là quán chiếu trên hai đề mục. Thứ nhất là về khổ tiềm ẩn khi ta thiếu chánh niệm, an bình nội tại và trí tuệ. Chúng ta có thể dựa trên những biến cố trong cuộc đời hay trong những phạm vi nào đó đã khiến ta rất phiền não, hay gây phiền não đến cho người khác, để thấy rất rõ ràng hậu quả của chúng, như là việc thiếu chánh niệm, thức tĩnh nội tâm và tự tại. Chúng ta cũng có thể sử dụng trải nghiệm của người thân để thấy chúng ảnh hưởng đến ta như thế nào.
Cách thứ hai là sử dụng tâm nghĩ suy để phản chiếu về tất cả những lợi ích của chánh niệm, sự an bình nội tại, trí tuệ và bi mẫn. Ta có thể nhớ nghĩ đến gương tu hành của các vị đại sư, các vị tăng ni lỗi lạc mà ta ngưỡng mộ, ước ao sao có được sự bình an, tĩnh lặng, lòng từ bi và trí tuệ như họ. Ta có thể tự nhắc nhở mình rằng họ không sở hữu các đức tính này, không phải sinh ra là họ đã có, mà những đức tình này hình thành nơi họ bằng sự nỗ lực tự thân và họ là biểu tượng cho những đức tính cao thượng, đẹp đẽ. Họ là những biểu tượng, thì chúng ta cũng thể là những biểu tượng. Được sinh ra làm người, chúng ta có bên trong mình khả năng để phát triển mọi đức tính cao thượng và phải cố gắng để làm như thế.
Có nhiều cách để quán chiếu về những bất lợi, khổ đau tiềm ẩn trong việc thiếu sự rèn luyện và phát triển tâm thức. Tương tự, ta cũng có thể phản quang về sự ích lợi, hoàn mỹ của tâm được rèn luyện và phát triển. Khi bạn càng thực hành, càng trở nên nhuần nhuyễn thì quy trình phát triển càng nhanh chóng thành quả, nhưng vấn đề là chúng ta nhận ra rằng cái nền tảng, sự chuẩn bị tâm để tạo cho nó đủ chín chắn, đủ vẹn toàn để ứng dụng các phương pháp hành thiền, tùy thuộc vào tính chất của chanda. Nếu ta coi thường điều đó hay đi ngay vào các phương pháp hành thiền khi tâm chưa sẵn sàng để làm điều đó, kết quả có thể khá nản lòng và có thể đưa đến ngõ cụt trên đường tu.
Ngài Ajahn Chah dù trao tặng cho ta tính chanda này, nhưng không giống các vị thầy khác, ngài không màng đến sự mang ơn của các đệ tử. Ngài chẳng bao giờ bám víu vào đó. Thật ra, nếu thấy vị đệ tử nào quá dốc lòng vì mình – trở nên bám víu vào ngài - thì ngài thường thuyên chuyển người đó đi nơi khác, xa hàng trăm dặm, trong khoảng thời gian một năm hay hơn, để người đó khắc phục điều đó. Do đó dầu chúng tôi cảm thấy trong lòng ngài luôn lo lắng cho chúng tôi, nhưng không phải lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy hài lòng. Ngài không phải là người thích giữ các đệ tử thân cận nhất bên mình và đắm mình trong cảm giác được yêu thương, kính trọng; không bao giờ như thế. Nhưng một đặc tính quan trọng trong cách ngài dạy chúng tôi là ngài luôn lặp đi lặp lại về Tứ Thánh đế, không phải bằng lý thuyết mà bằng các kinh nghiệm cá nhân. Dầu người tu hành như chúng tôi có thể chấp nhận ý nghĩ đi ngược dòng, trong thực tế, rất ít người có thể làm điều đó một cách kiên định mà không trở nên quá khổ hạnh, đến độ đôi khi thành méo mó. Hoặc họ sẽ nỗ lực dữ dội trong thời gian ngắn, rồi buông xuôi với tâm trạng đầy hối lỗi. Sau đó thì họ lại trở nên cực đoan, rất nghiêm chỉnh được một thời gian nhưng không thể duy trì điều đó được lâu.
Không có khả năng để đi ngược dòng của dục (tanha) lâu dài, nhất là lúc bắt đầu thực hành, là một chướng ngại to lớn, nhưng phải được chế ngự. Vì thế ngài Ajahn Chah đã sắp xếp tu viện và cuộc sống ở đó theo phương cách là luôn có sự cọ xát với những điều bạn thích và không thích, một mức độ thiếu tiện nghi vừa phải để buộc bạn phải dừng lại, quán sát xem khổ từ đâu đến. Ngài luôn dạy rằng người tu sĩ có thể cắt bỏ rất nhiều ảo tưởng, nhưng không thể cắt bỏ tất cả các ảo tưởng.
Ăn, ngủ, và chuyện phiếm là ba thứ mà các tu sĩ vẫn còn tham đắm, nên bạn cần phải canh chừng chúng. Ngài Ajahn Chah dạy rằng, “Đừng ăn nhiều, ngủ nhiều và nói chuyện nhiều”, vì ăn, ngủ và chuyện phiếm là những thứ nguy hiểm khi tham đắm trong cuộc sống ở tu viện. Ngài không để bạn có cơ hội để ăn, ngủ, chuyện phiếm nhiều như ý bạn muốn, chỉ là để cho bạn thấy sự ước muốn cho loại hưởng thụ này và buông xả. Đây không phải là một cách tu hành xác, nhưng là một phương pháp mà bạn có thể nói về nó như sau, “Vâng, tôi có khổ. Nhưng tại sao? Vì ái dục. Vì tôi muốn điều gì đó, hay tôi muốn mà không được, hoặc tôi được cái không muốn”. Đó là giá trị mà ta có được trong cuộc sống ở tu viện, bên cạnh những người tu, có bạn đồng tu để tạo năng lượng cho nhau và là thiện tri thức của nhau (kalyana mitta). Chúng tôi có cảm giác đi ngược dòng, chút ít – không nhiều đến nỗi mình cảm thấy như anh hùng hay dầu không thể kéo dài nhưng cũng cố chịu khổ chút đỉnh. Trong những tình huống đó một số tiến bộ thực sự có thể xảy ra.
Nếu bạn nghĩ rằng hành thiền là bị bó vào một cách ngồi nào đó, thì khá căng, nhưng rồi sự thực hành của ta hôm nay như thế nào? Sự thực hành của ta vào bất cứ ngày nào, dầu một mình, với gia đình, hay ở sở làm, là quan tâm đến tâm và bảo vệ nó với hết khả năng của mình. Đó là lý do tại sao tôi khuyên bạn nên nhìn sự thực hành của mình theo phương cách mà đức Phật gọi là tứ chánh cần. Trước tiên, ta thực hành để tránh sự phát khởi của các pháp bất thiện chưa phát khởi. Kế đến, ta nỗ lực giải quyết các pháp bất thiện đã phát khởi bằng cách giảm thiểu hay diệt trừ chúng một cách khéo léo và có tính xây dựng. Phần thứ ba là tìm kiếm các phương cách để làm phát khởi các pháp thiện chưa phát sinh trong tâm. Cuối cùng, ta không coi thường các pháp thiện đã phát sinh mà tìm cách để phát triển chúng càng nhiều càng tốt.
Đức Phật thuyết rằng trước khi đạt được giác ngộ, hai đức tính mà ngài dựa vào hơn tất cả những thứ khác là sự nỗ lực không ngừng nghỉ và sự không thỏa mãn với những đức tính thiện lành mà ngài đã phát triển được. Thiền giả cần biết bằng lòng với sự hỗ trợ vật chất nhưng không được tự mãn với đức tính và thành tựu tâm linh mà họ đạt được. Trong cuộc sống hằng ngày, điều đó có thể áp dụng ở khắp mọi nơi. Thí dụ, khi bạn phải dự một cuộc họp hay phải thực hiện một công việc đặc biệt nào đó, bạn có thể cân nhắc trước xem các pháp bất thiện nào có thể phát sinh: có thể sẽ có mặt một ai đó mà bạn thấy họ ích kỷ hay không chân thật, nên bất cứ khi nào gặp người đó là bạn cảm thấy bực bội. Đó là cái bạn cần quán chiếu.
Thiền tập của bạn ngày hôm đó là hỏi câu hỏi, làm thế nào tôi có thể ở bên cạnh người đó cả tiếng đồng hồ mà không cảm thấy bực bội với hắn ta, không cảm thấy muốn gây sự với hắn ta? Nhưng trong trường hợp bạn đã bực bội với ai đó, bạn có thể xét về các kế hoạch của mình. Bạn đã phát triển được những phương pháp gì cụ thể hay cần phát triển gì để đối phó với việc này? Hãy tự hỏi mình: Trong hoàn cảnh mà tôi phải đối mặt hôm nay - với gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp – các pháp thiện nào, các đức tính đặc biệt nào tôi cần có? Chánh ngữ, nhẫn nại, sự tử tế, hay từ bi? Tôi cần áp dụng những đức tính này vào đâu? Bằng cách nào? Và những đức tính mà tôi đã phát triển – làm thế nào tôi có thể duy trì chúng, vun trồng chúng và phát triển chúng đến mức độ sâu xa hơn?
Các lãnh vực của Pháp mà tôi đã nêu trên cho chúng ta một nền tảng và cấu trúc trải rộng, dễ hiểu để thực hành. Ngược lại, các phương pháp thiền chánh quy, bài bản cần thiết vì chúng cô đọng, súc tích, qua đó bạn tạm thời dẹp bỏ mọi vọng tưởng, nhờ đó chúng tạo cho tâm sự phấn chấn, năng lực hầu giúp cho việc ứng dụng tứ chánh cần vào đời sống hằng ngày được thành công. Khi bạn càng nỗ lực áp dụng tứ chánh cần vào đời sống hằng ngày, bạn càng cảm thấy thích thú và đạt được nhiều lợi ích trong thiền. Như thế là bạn đã tìm được cách chấn chỉnh động lực hành thiền của mình, nên bạn bắt đầu tin tưởng rằng kết quả của sự tinh tấn đúng đắn, khôn ngoan sẽ hình thành trong thiền tập của mình như là một điều tất yếu.
(Chuyển ngữ theo JUST DO IT!, báo BUDDHADHARMA, số tháng 2, 18, 2014)