← Quay lại trang sách

2 - Hoa tự do

Sư trụ trì răng đen, mi bạc phếch, hé lên nhìn người lạ rồi lại khép mắt. Mở mắt lần thứ hai, sư thủng thỉnh, miệng nhếch lên cười, niệm A di dà Phật…Người khách hai tay dâng lên một phong thư. Sư hấp háy đọc, giọng ê a:

- Ông muốn tá túc thì chùa lúc nào cửa cũng mở, chỉ sợ ông chê nghèo hèn mà thôi!

Dứt lời, Sư đứng lên, tay quơ cây gậy bên cạnh. Hai người bước ra sân chùa. Sư chỉ tay:

- Phía bên này là phủ Lâm Thao. Còn bên kia, là những đồi chè Phú Thọ. Con đường ngoằn ngoèo phía dưới là đường từ Lâm Thao đến Hưng Hóa. Lên chùa này thì chỉ một lối độc đạo.

Chính nhìn những ngọn cây xanh trùng điệp vây quanh. Sương bốc lên lưng chừng đồi giăng ngang tầm mắt những giải lụa mơ hồ lơ lửng xô dạt cuối trời. Sư giơ tay vẫy một chú tiểu áo nâu sồng đang thơ thẩn cuối vườn. Bước lên vài bước, Sư thì thào vào tai chú tiểu. Nhìn bóng áo chú biến sau hàng cây, Sư bấy giờ quay lại nắm lấy khuỷu tay Chính, hỏi:

- Giáo Bằng ở Sơn Dương cách chùa hai giờ đường cũng đã báo tôi ông sẽ đến. Tin tức ở dưới xuôi thế nào?

Chính thưa:

- Bạch thầy, sau vụ ám sát Bazin thì mật thám lùng khắp nơi. Nhiều cơ sở vỡ, có nơi tan ra, số bị bắt, số đào tẩu… Kiểm điểm vào tháng năm vừa rồi, số bị bắt lên đến gần một ngàn. Tháng sáu, thực dân Pháp giải ra tòa hai trăm hai mươi bảy người, kết tội tám mươi người tù từ hai đến hai mươi năm!

Bazin là tay chuyên mộ phu đồn điền cao su. Hắn sai đánh thuốc mê bắt cóc người kiểu ‘’mẹ mìn’’, gia đình không có tiền chuộc thì lùa qua Tân đảo, Ghi-nê bắt làm như nô lệ. Được thành lập sau ngày giải tán Nam Đồng thư xã, Quốc Dân Đảng ra đời hoạt động dưới sự chỉ đạo của Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống, Nguyễn Thái Học… Quốc Dân Đảng quyết định cảnh cáo thực dân Pháp bằng cách ám sát Bazin. Đó là chuyện hòa hoãn không được. Trước khi hành động quyết liệt, Học đã xin ra một tờ báo Thể Thao cho thanh niên, chính phủ bảo hộ từ chối. Học lại đề nghị mở những trường dạy chữ quốc ngữ cho người bình dân, nhưng vẫn không được phép. Phương án hưng dân trí theo con đường Tây Hồ Phan Châu Trinh đã vạch bị chựng lại. Trong Nam Bộ, Nguyễn An Ninh xưa chủ trương hợp tác với Pháp nhưng nay cũng thấy con đường đó bế tắc, tuyên bố trong một cuộc biểu tình rằng ‘’ người Pháp phải trả cho ta đất nước tổ tiên ta để lại. Đất nước ta sinh ra không biết là bao nhiêu anh hùng dám chết cho Tổ Quốc. Giòng giống ta vẫn không thiếu những người như vậy…’’. Bazin bị bắn vỡ sọ. Viên toàn quyền tại Bắc kỳ lợi dụng cái chết của Bazin bắt bớ tứ tung, thẳng tay khủng bố tất cả những phong trào chống Pháp.

Nhìn về hướng núi Ba Vì ẩn hiện trong đám mây xa tít tắp, Sư trầm ngâm:

- Ông Tài, ông Học thì thế nào?

- Tài bị đẩy lên Tuyên Quang cuối năm ngoái, không tin tức gì. Còn Học trốn được, nay đây mai đó, chỉ mình cô Giang biết là ở đâu.

Sư thở dài, buồn bã:

- Tuyên Quang à! Thế thì bị chúng nó cách ly, mình như rắn không đầu. Ông Tài cẩn mật, mưu chước, thì lại không có đó… Ông có gặp sư Trạch không? Trạch là em bần tăng…

- Bạch thầy, sư Trạch đi cùng Học, tuần trước nghe đâu lên Sơn Tây. Ghé vào tai sư, Chính hạ giọng - nay mai Trạch và Quản Kỵ sẽ ghé đây, không biết thầy đã được báo chưa?

Lắc đầu, Sư không tỏ vẻ ngạc nhiên. Nhìn vào mắt Sư, Chính tò mò:

- Bạch thầy, tại sao thầy đi tu?

Sư cười, giọng lại ê a:

- Ban đầu, thú thật là vì đói phải lên chùa kiếm miếng mà ăn. Dần dần thì quen đi… Nhà tôi nghèo, ruộng không có nên đi cày đi cấy thuê vất vả lắm…

- Thế… tại sao thầy bây giờ đi làm cách mạng?

- Ờ… do em tôi là thằng Trạch cả. Nó làm phu đồn điền ở Nam Kỳ, uống rượu say lỡ tay giết một thằng đốc công. Trốn, về Bắc Giang thì nó gặp ông Xứ Nhu, được ông giáo huấn, bảo nó giả tu, làm sư là bề ngoài thôi… nhưng thật là làm cách mạng đánh Tây. Nó xin xuống tóc, nhưng miệng thì cứ chủ nghĩa Tam Dân thế này, Tam Dân thế kia. Nó dọa, chùa không theo cách mạng thì nó báo mật thám. Truyền đơn nó chôn trong chùa rồi, báo là đào lên, cả chùa sẽ đi Hoả Lò, lúc đó thì hết kinh hết kệ. Đấy, chuyện tôi đi làm cách mạng nó như thế…

Sư đưa tay lên bóp trán, hề hề:

- Thế rồi làm cách mạng cũng như đi tu. Dần dần thì quen đi…

Chính nhìn ra phía xa. Nơi sông Hồng uốn khúc, dòng nước lệch cắm vào lòng đất như đầu một lưỡi kiếm sáng lập lòe. Tiếng Sư cao lên, tay vung lên như đang diễn thuyết:

- Có ba giai đoạn. Phôi thai, dự bị và bạo động. Ông Xứ Nhu nhắn, ta sắp vào giai đoạn cuối, bạo động xong ta thi hành chủ nghĩa Tam Dân, tức là dân tộc, dân quyền và dân sinh. Về quyền, có tứ đại quyền – là tuyển cử, bãi miễn, sáng chế và phá chế. Còn dân sinh, thì tiết chế tư bản và bình quân địa quyền, chia đều ruộng đất cho nông dân, cải cách điền địa nâng sản lượng thực phẩm…

Giơ hai tay lên trời, Chính phì cười rồi niệm Nam mô a di dà Phật!

Xế chiều, hai người từ xã Sơn Dương lên chùa. Một xưng là giáo Bằng, người nhỏ thó, ánh mắt tinh ranh. Người kia, là Cai Hợp, đã đi lính cho Pháp đánh nhau tận bên Si-ri ở Trung Đông. Hợp cao lớn, mép để ria, lưỡng quyền nhô trên triền mắt sâu hõm, khi nói tay cứ đập lên đập xuống đánh nhịp. Kéo ra tít phía sau chùa, Sư trụ trì đưa cả bọn vào một gian nhà mái gianh vách đất. Chính mở cái tay nải trong có kíp, dây đồng, ống dẫn. Hợp và Bằng cắt dây cói, mở một cái bị đựng đầy thuốc nổ. Công việc của Chính là chỉ dẫn cho đồng chí ở các chi bộ làm tạc đạn sửa soạn thời kỳ bạo động. Cầm một quả đã làm sẵn, Chính trút thuốc nổ ra, chỉ cho giáo Bằng và Cai Hợp cách gắn dây, cài kíp. Cai Hợp nhịp tay, ồ ồ:

- Chú em, rút kíp ra phải đếm đến mấy thì quẳng?

- Đến năm, quẳng thì khoảng mươi thước trở lại…

- Chú đã thử chưa? Lần nào cũng nổ chứ?

Chính đỏ mặt:

- Không, bác ạ! Cứ mười lần thì nổ bảy…

Cai Hợp ngước mắt nhìn lên mái nhà, thở ra rồi lại nhịp tay:

- Ờ… thế tầm công phá thế nào?

Chính lại đỏ mặt:

- Chắc độ hai, ba thước vuông!

Giáo Bằng chen vào:

- Thế tức là một vòng tròn bán kính chưa đến một thước?

Chưa biết trả lời ra sao thì Cai Hợp lại ồ ồ:

- Đéo mẹ, thế thì tớ cứ lấy đá tớ ném cho chắc… Các cậu biết không, tạc đạn của lính Tây ném ra thằng nào ở trong tầm bốn năm thước không chết cũng bị thương. Nhịp tay, Cai Hợp tiếp - phải điều nghiên lại các cậu ạ…

Tối hôm ấy, giáo Bằng về nhưng Cai Hợp ở lại chùa. Đào những lỗ đất khía thành múi như múi khế, Hợp và Chính đổ gang làm vỏ tạc đạn, chuẩn lại lượng thuốc nổ, ngòi, kíp và cho làm cả chuôi gỗ gắn vào đuôi cho dễ ném. So với tạc đạn kiểu cũ, nay quả có tiến bộ, tầm công phá của tạc đạn mới tăng gấp ba, và khoảng cách ném xa gấp rưỡi. Cai Hợp ề à ăn mừng, nâng be rượu lên tu ừng ực. Sư trụ trì bảo, trong ngũ giới, giới tửu là dễ xả nhất, nên chỉ cười. Vui miệng, Chính hỏi Cai Hợp:

- Bác Cai này, bác kể chuyện bên Tây cho nghe với.

- Hờ hờ… kể chuyện mấy bà đầm nhé. Thời đóng quân ở Tu-lông, tớ có quen một bà. Cai Hợp nhe răng, xuýt xoa - …giời ơi, mỗi lần động chạm là giẫy lên đành đạch, giời ơi là giời… hà hà!

Sư thốt lên:

- Nam mô a di dà Phật! Bác nói láo… Đầm nó thèm vào bác.

- Hà hà… Đầm bên Tây khác, có phải như đầm bên mình đâu. Sau Tu-lông, tiểu đoàn Lê Dương tôi qua An-giê. Ở đấy, đàn bà che mặt, cứ thấy lính là trốn…

Cai Hợp đứng dậy, ưỡn ẹo múa may:

- Bên xứ đó múa bụng như thế này, trông mà cứ nhỏ giãi ra…

Bưng be rượu lên, Cai Hợp lại tu, rượu từ khóe miệng trào ra rỏ xuống đất. Chính giơ tay:

- Thôi, bác uống thế say đấy. Mà bác này, sao đang đánh nhau bên Ả Rập mà bác lại về?

Thật bất ngờ, Cai Hợp thốt nhiên bưng mặt khóc hu hu. Nuốt nước bọt, lát sau Cai nghẹn ngào:

- Ấy bởi tôi đã giết oan người ta…

Nhắm mắt, Cai Hợp hồi tưởng thời gian ba năm về trước. Trong một cuộc hành quân tiễu trừ bọn Hồi làm giặc ở thành phố Đa-mát, tiểu đội lính Lê Dương dưới quyền Cai Hợp có nhiệm vụ lùng xục để bắt bọn cầm đầu. Chúng chạy vào chợ, đường lối ngoằn ngoèo như vào mê trận. Chạy quanh chạy quẩn, một lát sau lính lại quay về chỗ cũ, nơi có một cái bồn nước công cộng. Lát sau, từ những hốc hẻm, những cánh cửa bất chợt mở ra, súng đùng đùng, đạn rít tứ phía. Bọn Hồi bắn tỉa, hai tên trong tiểu đội bị thương. Phải vào nhà, bất cứ căn nhà nào để phòng thủ, chờ đồng đội đến tiếp cứu. Thằng M’Ameh người Ma-rốc nói được tiếng Ả Rập xông vào một căn nhà, miệng quát tháo, tay hờm súng. Không thấy động tĩnh, Cai Hợp vẫy tay cho kéo hai thằng bị thương đặt nằm trên hàng hiên. Chúng nó vừa rên vừa khóc thút thít. Giữa nhà là vuông sân lộ thiên, xung quanh những căn phòng cửa khóa cả. Lính chia nhau đạp cửa những căn phòng, quẳng lựu đạn vào, sợ có phục kích. Cuối sân là một căn phòng ẩn sâu vào lòng đất. Bò đến cửa, nghe có tiếng lách cách như tiếng súng lên đạn. Cai Hợp đạp cửa, bắn vào ổ khóa, đạp thêm một đạp. Cánh cửa vừa bung ra, Cai Hợp quẳng lựu đạn vào, nằm rạp xuống. Một tiếng nổ chát chúa. Khói bay ra tù mù. Hình như có tiếng khóc. Bắn thêm một tràng liên thanh, Cai Hợp trườn mình bò vào… Giời ơi…

Tay bưng lấy mặt, Cai Hợp đập đầu xuống đất. Chính vội đưa cả hai tay ra đỡ, vận sức ghì lại.

- Giời ơi là giời… Ở trong căn phòng chỉ có một người đàn bà và ba đứa con, thịt da văng vãi bắn lên dính trên tường, trên thảm, mặt mũi banh rách thành mảnh, chỗ đỏ lòe, chỗ cháy xạm… Tôi la, tôi hét. Cứ thế, tôi la tôi hét cho đến khi kiệt sức, bất tỉnh…

Cai Hợp vùng ra, lại đập đầu xuống đất bồm bộp, trán sứt một vệt dài, máu ứa nhỏ xuống đất thành giọt. Sư trụ trì niệm Phật. Chính hoảng sợ gọi toáng lên. Bọn tiểu chạy lại đè Cai Hợp xuống, đứa rịt thuốc lào vào trán, đứa vẩy nước đái vào mặt cho Cai Hợp tỉnh… Sư trụ trì nâng quả tạc đạn lên ngắm nghía, rồi thì thầm:

- Lại nghiệp đây… Thế này là buộc thêm vào, chứ có cởi nổi đâu. Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ Tát…

Xưởng chế tạc đạn là gian sau nhà giáo Bằng ở xã Sơn Dương. Bằng có hai người em cùng cha khác mẹ, tuổi mới mười lăm và mười bảy, hăng hái vào giúp mỗi người một tay. Bà mẹ ghẻ của Bằng cơm nước tận tình, chăm sóc cả bọn như người trong nhà. Nhìn đống tạc đạn ngổn ngang, bà kêu eo ơi, nhỡ mà nổ thì chết cả. Chính chợt hiểu ra, bắt xếp vào những cái chum, mẻ nào xong là mang ngay ra ngoài chôn xuống đất hay giấu sau vườn.

Một sáng, Thục-đen - tên thật là Phó đức Chính - ở đâu ghé đến. Đi cùng với Thục là Ký-con, người nhỏ bé, dáng trầm mặc, nhưng đôi mắt sắc như dao bổ cau. Ký-con được Thục giao phó tổ chức ban ám sát ở Hà Nội, thành viên gồm bọn học sinh trường Bách Nghệ, trong đó có cả Nguyễn Văn Nho, em của đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Cả bọn kéo nhau đến một cái ao. Cai Hợp rút kíp, đếm đến năm rồi quẳng một quả tạc đạn mới chế kiểu múi khế xuống. Tiếng nổ rạch vỡ toạc không gian, xua lũ chim nháo nhác bay lên. Nước uốn thành cuộn bắn tung toé, giọt rơi rào rào trên mặt ao. Cai Hợp lẳng lặng cởi áo nhảy xuống, vớt một lúc được mười một con cá chết vì sức ép.

- Thế nào – Cai Hợp hỏi – Các bác thấy thế nào?

Ký-con nâng một quả tạc đạn, tay đưa lên đưa xuống ước lượng sức nặng, miệng mím lại. Đầu gật gù, Ký-con thốt:

- Tạc đạn thế này là để đánh đồn, ném xa, sức công phá lớn. Nhưng còn ám sát trong nội thành thì lại không hay lắm…

Chính ngước mắt dò hỏi. Ký-con lẩm nhẩm:

- …không hay là vì cồng kềnh, khó giấu. Ta vẫn phải chế thêm, tạc đạn kiểu quả lựu, gọn, quẳng từ năm đến bảy thước cho chính xác. Chỉ đếm đến ba là ném ngay… Các bác xem có làm được không?

Chưa ai đáp, Cai Hợp đã oang oang:

- Các bác cứ để đấy tôi…Xách một con cá trắm lên ngang mặt, Hợp tiếp - nhưng muốn gì thì gì, tối nay phải chén một bữa gỏi cá đã!

Chiều hôm ấy, cả bọn đến nhà giáo Bằng. Lần này có cả Đồ Toại, một người danh vọng trong phủ Lâm Thao. Khác với lớp trẻ, các ông đồ đều lớn hơn họ mười, thậm chí hai mươi tuổi như Xứ Nhu ở Phủ Lạng Thương. Câu chuyện quanh mâm vẫn là câu chuyện nói đi rồi nói lại. Đảng đang ở thời kỳ phôi thai hay thời kỳ dự bị? Và bao giờ sẽ đến giai đoạn hành động, tiến hành tổng khởi nghĩa? Lạ một cái là lớp các ông đồ có vẻ nóng vội hơn lớp trẻ. Tợm một ngụm rượu, Đồ Toại rưng rưng:

- Bên Tàu họ làm cách mạng Tân Hợi sắp hai mươi năm rồi, còn ta thì cứ dậm chân tại chỗ, lúc cần hành động thì viện lý này lẽ nọ. Thở dài, Đồ Toại thưỡn ra, cứ thế thì ở tuổi tôi, ngày nào tôi mới thấy độc lập đây?

Thục-đen hắng giọng:

- Thưa bác, ở bên Tàu cách mạng Tân Hợi không có thế lực thực dân nào can thiệp vào trực tiếp. Còn ta, khác. Nhà nước Pháp bảo hộ có quân đội, súng ống, tàu bay tàu bò. Ta tay không…

- Tay không thì cướp súng, cướp đạn mà đánh. Cái kế vận động các ông Quản, ông Đội, ông Cai thì ta đã làm, các ông ấy hô một tiếng là lính dưới quyền theo ta…

Ký-con giơ tay lên, ngắt:

- Nhưng bắn mãi có thể hết đạn! Còn dẫu lấy được tàu bay, tàu bò thì ai biết lái… Công đồn chiếm được, liệu có giữ được không? Giữ được, giữ để làm gì?

Đồ Toại đứng dậy, tiếng còn tiếng mất run run:

- Làm cách mạng, là xông tới, chứ hỏi như thế, ai trả lời được! Biến tắc thông. Tạo biến, rồi để xem…

Chính ngước nhìn Đồ Toại. Kinh nghiệm đánh trại binh Nam Đàn ngày nào bỗng trở nên vị chát đến đắng miệng. Mặc giáo Bằng, rồi Cai Hợp nhao nhao góp lời, Chính bỏ ra sau. Trong bếp, bà mẹ ghẻ của giáo Bằng đang đun nước. Khi bà về căn nhà này, giáo Bằng còn nằm ngửa. Cha giáo Bằng ở giá một năm rồi mới quyết định xin bà về làm vợ. Cùng một thế hệ với Xứ Nhu, ông đau xót cho đất nước, qua đời khi giáo Bằng vừa lên học trường Trí Tri ở Hà Nội được một năm. Từ đó, bà mẹ ghẻ nuôi nấng anh em giáo Bằng. Khi Bằng gia nhập Đảng thì bà cưu mang luôn những đồng chí của con ghẻ, bằng lòng biến gian nhà thành xưởng chế tạc đạn. Thấy Chính, bà ngước nhìn, miệng cười:

- Sao anh không lên trên để bàn ‘’việc nước’’!

Chính nói lảng:

- Dạ, thưa bác con hơi nặng đầu…

Ngồi xuống, Chính xin bà một tách nước trà, lẳng lặng nhìn lửa bập bùng cháy trên cái bếp làm bằng ba viên gạch chụm đầu vào nhau. Bên ngoài, gió bỗng thốc lên. Trời đã chớm hè, ngày dài ra, bóng chiều đổi sang sắc tím loang lên mái gianh rải rác dưới những tàn cây xanh um. Nhìn bà, Chính chợt nhớ đến bà Đồ. Hình ảnh mẹ tràn ngập tâm tưởng Chính. Khổ cho mẹ, mẹ tưởng đã chôn xác con, nào có biết là con mẹ vẫn còn sống. Rồi Xoan, mới cập kê mà chịu lấy một cái xác vùi dưới ba tấc đất. Nước mắt chỉ chực ứa ra, Chính vội vàng đưa tay lên quệt, nói khẽ:

- Khói quá, bác nhỉ? Con ra vườn cho thoáng!

Đến ngã ba rẽ ra Hưng Hóa, họ chia tay nhau. Thục-đen và Cai Hợp ngược lên Sơn Tây, Chính và Ký-con về Hà Nội. Lúc ấy, Chính mới biết đầu tháng sau Đảng họp đại biểu toàn quốc ở Thuận Thành. Ký-con bảo:

- Có một ông cụ đến tìm anh, nhắn là người Giáp Đoài, anh có biết là ai không?

Chính chột dạ, biết nhưng lắc đầu. Ký-con tiếp:

- Sau vụ ám sát Bazin, chỗ thị xã Nam Đồng không còn an toàn. Anh về chỗ tôi ở Bạch Mai rồi tính sau.

Chính gật, hỏi:

- Ông cụ có nhắn gì không?

- Không! Cụ bảo anh biết nhà người quen cụ, thế nào cũng tìm được. Cụ dặn cụ chỉ ở đến rằm là phải đi, cố về gặp cho kịp… Cụ là ai đấy?

- Ông bác họ tôi, đã hơn năm nay tôi không gặp… Ở Nam Đồng, tình hình thế nào?

Ký-con thở ra:

- Mật thám đến quây lại, bắt bà Sở hàng cơm ở tầng dưới. Chúng nó tịch thu tất cả tài liệu. Nhượng Tống chạy được, nay ẩn ở Ngọc Hà… Ký-con nghiến răng - chúng ta phải đánh trả đũa… Ám sát đoàn cần lựu đạn. Anh về Bạch Mai giúp chúng tôi một tay!

Quãng xế trưa, hai người men qua ngõ ngách về đến cơ sở. Gõ cửa đúng ám hiệu, người ra đón là Nho, dáng dấp khác anh, dong dỏng cao, da trắng, môi đỏ như môi con gái. Gặp Chính, Nho vồ vập:

- Em nghe tiếng anh và trận đánh Nam Đàn lâu rồi. Mắt sáng lên, Nho hỏi, anh thấy giặc Tây thế nào?

Chính thận trọng:

- Giặc Tây, nhưng lính phần đông toàn là người mình. Nghĩ lại, tôi cho rằng chúng tôi manh động. Đánh mà chỉ biết chiếm đồn, chứ không biết sau phải làm gì, thế nào là thắng, thế nào là thua!

Ngắt câu chuyện dở dang với Ký-con và Nho, Chính vội vã đi thay quần áo, lòng như lửa đốt. Khoác lên người bộ âu phục, chân dày da, tay ba toong, Chính xách cặp vẫy xe tay hệt một ông phán lúc giờ tan sở. Đến ga Hàng Cỏ, Chính xuống xe. Vào ga, Chính đi một vòng, lên một chiếc xe khác bảo kéo đến phố Hàm Long. Từ đó, Chính tản bộ, mắt trông chừng xem có mật thám theo không. Một lát sau đến Hàng Khay, Chính tìm số nhà rồi gõ cửa. Một người đàn bà ra mở cửa. Đây là địa chỉ một người họ hàng xa, nhưng Chính tránh phiền nhiễu, chưa bao giờ liên lạc:

- Bà cho hỏi có cụ từ Giáp Đoài vào, nhắn tôi đến…

- À, cụ Đồ Cửu phải không? Cụ về được hai hôm rồi! Bà cười, hàm răng đen còn quết trầu, mắt hấp háy nhìn.

Chính điếng người, thất vọng. Chính chưa kịp nói gì, người đàn bà xởi lởi:

- Nhưng ông hỏi hay nhắn gì cụ thì có cô con dâu cụ ở đây…

Tiếng guốc vội vã, rồi tiếng người hớt hải:

- Ai hỏi cụ Đồ Cửu đấy bà?

Khung cửa bật ra. Ánh sáng mặt trời hắt vào nhà thành một vệt lung linh vàng tươi. Xoan hiện ra, mắt chói nắng, đưa tay lên che. Chính thót người, cảm thấy choáng váng. Lúc bấy giờ, Xoan đã nhận ra Chính, thốt lên kêu:

- Ôi giời ơi!

Để tay lên miệng làm dấu cho Xoan ngừng nói, Chính lách người vào, kín đáo nắm lấy tay Xoan bóp khẽ. Xoan đứng sững như trời trồng. Đợi người đàn bà vừa khuất sau cánh cửa dẫn vào nhà trong, Xoan mới bật miệng khóc thành tiếng.

Chính thuê được một căn nhà ở Ngọc Hà. Hai ngày sau, Xoan nói thác là về quê, nhưng y hẹn đến ga Hàng Cỏ gặp Chính. Thấy Chính từ xa, Xoan vẫy rối rít. Đó là lần đầu không có một người thứ ba giữa hai vợ chồng. Xoan nắm tay Chính, nước mắt ứa ra chảy dài trên má. Chính nghẹn ngào, cổ họng cứng lại, không nói được một lời. Họ nắm tay nhau, mặc cho vũ trụ quay cuồng trong tiếng rao hàng, tiếng cãi cọ tranh khách, tiếng chân người xuôi ngược.

Căn nhà nằm rìa con đường, một bên sóng sánh nước đong đưa những nụ sen hồng, bên kia trồng glay-ơn màu đỏ, chen vào là những gióng cúc vàng tươi.

- Võ ơi, trên đường từ Vinh ra Hà Nội, cha mới báo là anh còn sống. Lần đi này là đi tìm anh… cho em.

- Ta đã thấy nhau rồi.

- Thấy, nhưng đã tìm ra nhau chưa?

- Thì hẳn… em vẫn như ngày nào, trên bờ kênh Sắt.

- Còn anh? Võ ơi…

- Gọi là Chính, cho quen miệng. Võ chết rồi!

- Đấy! Anh thấy không. Em chỉ thấy Chính, đâu có tìm ra Võ…Nhưng thôi, Xoan đổi giọng vui vẻ, anh nhìn kìa!

Mặt trời đỏ chói lừ lừ cúi xuống vòm cây xanh tít tắp, quệt trên nước một vệt hồng lung linh. Những bông hoa bờ bên kia ánh lên huyền ảo đong đưa theo những thoáng gió buổi chiều tà. Vẳng từ đâu đó tiếng trẻ đùa vui cười lên khanh khách. Xoan bật miệng:

- Giê-su Chúa tôi, thiên đường là đây!

Nâng cằm, Chính nhìn vào khuôn mặt Xoan đầy an lạc. Nàng nhắm mắt, hai hàng mi cong khép hờ, miệng hé để lộ hàm răng hạt huyền đen nhánh. Đã trao thân cho một xác chết mang tên Nguyễn Trường Võ ở Giáp Đoài, người con gái này hôm nay là vợ một Phan thượng Chính thì có khác chi nàng đang trải nghiệm phép mầu biến chết thành sống khiến thế gian này phút chốc hóa thiên đường. Hình ảnh những con cá chết nổi trên mặt ao ở Sơn Dương khi thử tạc đạn lại hiện ra trước mắt. Chính chạnh lòng thấy mình không đụng chân vào được cõi thiên đường chỉ giành cho những người vô tội.

Xoan vào nhà khép cửa lại. Nàng đun nước, bỏ bồ kết vào, lẳng lặng cởi yếm. Nàng đưa tay che ngực, mặc Chính cởi vành khăn vấn tóc. Xoan khẽ lắc đầu, để tóc đổ xuống như một giòng thác mượt mà. Chính giội nước gội đầu cho Xoan, tay miết lên khuôn mặt nóng hừng hực. Miệng Xoan mấp máy. Chính cản lại, thì thào, đừng nói gì cả. Ngoài cửa sổ, trăng mười sáu. Trăng trong văn vắt hắt lên vách bóng hai người. Mới chập tối, ễnh ương quanh nhà đã kêu inh ỏi. Nhịp vào, tiếng quẫy nước, bọt vỡ lục bục mơ hồ như reo vui. Chó thỉnh thoảng sủa, lẫn vào tiếng người gọi nhau, tiếng chim gọi đàn, tất cả dặt dìu hư thực. Chính giội nước lên người Xoan. Tay vuốt nước trên ngực, trên bụng, trên đùi Xoan, Chính rưng rưng nước mắt hệt những buổi dự Thánh lễ khi còn thơ nhỏ. Có một điều gì thật thiêng liêng trùm lên xác thân như ân phúc đến từ một cõi ngoài tầm nhân gian. Lấy khăn bông lau người cho Xoan xong, Chính dìu nàng, tay vén màn, nhẹ nhàng đặt nàng nằm xuống giường. Xoan co chân, hai tay che ngực, quay người vào tường. Chính cởi quần, cởi áo, đặt mình nằm cạnh, tay quàng lấy Xoan. Hương bồ kết thoang thoảng lẫn vào mùi da thịt ngây nồng. Chính hít, mũi chúi vào cổ Xoan, tay lần từng tấc da thịt, nghe mơ hồ tiếng Xoan rên nhẹ. Cứ thế, cho đến lúc Xoan quay người lại, ôm lấy Chính. Nàng hé miệng hôn lên ngực Chính, cắn nhè nhẹ vào đầu vú, người thỉnh thoảng cong nhướng lên, mồ hôi vã ra ở ngực, ở bụng. Chính kéo hai chân Xoan dạng ra, úp mặt vào giữa, ngây ngất. Chàng co người, chồm lên, thúc nhẹ vào. Xoan kêu lên một tiếng, nhưng tay níu lấy, áp mặt vào vai Chính. Thở hổn hển, lát sau Chính ngật người nằm vật xuống. Xoan vừa dâng hiến tiết trinh sau khi đã thành vợ một cái xác chết vùi ở xã Đoài hơn hai năm về trước. Chính thiếp đi, tai nghe văng vẳng tiếng Xoan dịu dàng:

- Thế nào cũng phải cho em đứa con… anh nhé!

Cuộc họp đại biểu toàn quốc ở làng Đức Hiệp, phủ Thuận Thành đưa Đảng vào một tình huống có thể dẫn đến những rạn nứt nội bộ trầm trọng. Để đối phó sự khủng bố ngặt nghèo của thực dân Pháp sau vụ ám sát Bazin, Đảng tập trung tất cả mọi hoạt động vào một cơ quan lãnh đạo duy nhất là Tổng bộ chiến tranh. Nguyễn Thái Học đưa ra con số những đảng viên bị bắt, cho rằng cứ đà này thì từ nay đến cuối năm Đảng sẽ bị tan rã. Vì thế, nhiều đồng chí đề nghị phải làm cuộc Tổng khởi nghĩa.

Cuộc tranh cãi nổ ra, mỗi lúc một gay gắt. Đội Dương, vốn là bạn Học và là người vừa tốt nghiệp lớp hạ sĩ quan không quân, đứng lên giõng dạc:

- Lúc này, không ai có quyền lùi. Lùi là chết. Lại chết trong lao, trong khám. Cho nên phải tiến, sống còn với giặc!

Giáo Cảnh nhìn quanh. Đảng viên phần lớn là lớp người ít nhiều được đi học. Nếu không là ông thông, ông phán, là giáo học thì họ cũng là những kẻ xung vào học quân sự, thường giữ những chức Cai, Đội hay cao lắm thì leo lên Quản binh trong lực lượng lính khố đỏ hoặc khố xanh. Trong kế hoạch Tổng khởi nghĩa, lực lượng quân sự chủ chốt gồm những đơn vị binh đội dưới sự chỉ huy của những đảng viên này. Mục tiêu đầu là cướp trại lính, phát súng cho đám thanh niên đã tuyển chọn, xung vào Cách mạng quân. Rồi cướp lấy Phủ, lấy Huyện. Đám Cai, Đội căng thẳng, răng nghiến kèn kẹt, mắt đổ lửa. Tuổi hai mươi, sinh lực thừa, hành động trở thành cứu cánh. Cai Tuyển, mặt trẻ măng, râu lún phún trên mép, đứng dậy hét:

- Tuổi trẻ chúng ta quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh!

Hội trường rầm rầm tiếng vỗ tay.

Giáo Cảnh giơ tay xin phát biểu. Nhìn về phía bàn chủ tọa, Cảnh điềm tĩnh:

- Trước nhiệt tình vì đại nghĩa, không một ai trong chúng ta là kẻ không muốn xả thân. Chết mà là chết cho tổ quốc, bản thân tôi sẵn sàng. Nhưng thế nào là chết cho tổ quốc? Cai Tuyển vừa nói, Tổ Quốc quyết sinh. Nghĩa là, trước mắt, Tổng khởi nghĩa phải dẫn đến thắng lợi. Thắng lợi là sao? Là giành lấy độc lập. Vậy thử hỏi, với cái lực lượng hiện nay, ta có giành được độc lập không? Một vài chiến thắng quân sự ở hai ba đô thị, chiếm rồi trấn giữ năm bảy đồn binh, trại lính có gọi là độc lập không? Một số đồng chí lạc quan, cho rằng từ đó vết dầu loang ra thổi lửa Độc Lập bùng cháy trên toàn đất nước, nơi nơi sẽ theo ta cùng đứng lên. Nhưng ai đứng lên?

Nói đến đây, Cảng xúc động, miểng như nghẹn lại. Lát sau, Cảng trầm giọng, tiếp:

- Chỉ khi dân chúng đứng lên, ta mới giành được Độc Lập! Muốn họ đứng lên, họ phải thấu hiểu mục đích của Cách Mạng. Vì đứng lên, là hứng chịu mũi tên, hòn đạn. Là chống càn. Là chui vào hầm ẩn khi máy bay giặc Pháp đến đánh bom. Nếu dân chưa, hoặc chỉ thấu hiểu phần nào Cách Mạng, cái hy vọng vết dầu loang đó khó mà thành hiện thực! Như vậy, Tổng khởi nghĩa không dẫn đến thắng lợi. Rồi đảng viên sau đó cũng sẽ bị khủng bố, và khủng bố tàn bạo… có thể khiến phong trào giành độc lập sẽ thui chột năm năm, bảy năm hay hơn nữa… Trách nhiệm của chúng ta là chỗ đó. Chết, tôi không sợ. Tôi chỉ sợ làm chậm bước tiến của Cách Mạng!

Hội trường im phăng phắc. Bỗng Xứ Nhu chép miệng mấy tiếng, lạnh lùng hắng giọng :

- Cứ nói thế thì chẳng ai làm gì hết! Dân thì chỉ có cực khổ quá là làm loạn, chết thì bỏ… Ta có chính nghĩa, tất dân theo ta, đơn giản là vậy.

Nguyễn Tiến Lữ, đại biểu chi bộ đảng ở Hải Phòng, đứng dậy:

- Thưa cụ Xứ, dân theo thì cũng biết hỏi ta đi đến đâu, làm gì được cho họ, chứ họ có ngu đến độ cứ nhắm mắt mà theo đâu. Vả lại, ngu thì biết thế nào là chính nghĩa!

- Ấy, họ theo đấy. Tôi chẳng thấy ai chống cái việc giành độc lập cả! Với lại cùng tắc biến, biến tắc thông, giặc Pháp đẩy ta vào thế cùng. Ta tạo cơ biến, rồi thế nào cũng thông… Kinh Dịch đấy, các ông Tây học nên nào có biết, nào có hiểu. Đấy là cơ sở cái lý của tuần hoàn…

Tiếng bàn bạc rì rầm nổi lên tứ phía. Học ra dấu lấy lại trật tự. Thình lình, Dương đứng lên đề nghị lấy ý kiến đa số để quyết định. Và đa số quyết định Tổng khởi nghĩa.

Cùng tắc biến, dĩ nhiên. Biến tắc thông. Nhưng chẳng ai biết thông là sẽ thông làm sao. Nguyễn Thái Học kết thúc cuộc họp đại biểu toàn quốc ở Thuận Thành bằng một câu nghe như tiếng cảm hoài vẳng lại từ hồn thiêng sông núi:

Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu,

Hoa tự do phải tưới bằng máu

Không thành công, thì thành nhân!

Gò người đạp chiếc Pơ-zô lên dốc, Chính ngạc nhiên thấy Xoan đứng vệ đường, tay giơ lên gọi rối rít. Ngừng xe, Xoan chạy lại nắm ghi-đông, hổn hển:

- Không về nhà được. Có người rình anh!

Giắt xe vào một cái ngách, Chính vỗ nhẹ vai Xoan, bình tĩnh hỏi. Sáng nay, sau khi Chính lên xưởng chế bom ở Bạch Mai thì có hai người đàn ông lạ mặt vào hỏi. Xoan đáp, nhà tôi đi vắng. Họ gặng hỏi đi đâu, Xoan trả lời là lên Tràng Tiền đi mua bán. Sau khi họ đi, Xoan cắp rổ ra chợ như hàng ngày. Khi về, Xoan thấy dấu có người đến lục lọi nhà mình. Cẩn thận, Xoan đi đường vòng ra lối ngoài, đến hàng nước chè thì một người lạ ban sáng còn đó. Đến quá trưa, lối trước vào nhà có dăm ba người lảng vảng. Xoan lẻn đi, biết đường Chính đạp xe về hàng ngày nên đến đợi để báo. Kể xong, Xoan sụt sịt:

- ....chúng nó rình bắt anh…

Hai người giắt xe đi một quãng, rồi men bờ nước vào một khu ngóc ngách nơi Nhượng Tống trú ngụ. Bảo Xoan vào xem động tịnh, Chính đợi, chắc nếu chỗ mình không yên thì nơi Nhượng Tống cũng khó mà ổn. Lát sau, Xoan ra. Chính dặn Xoan cứ về nhà, đến tối hãy quay lại. Và khi đi, nhớ trông trước trông sau.

Khi Chính đẩy cửa bước vào, chẳng phải chỉ có một mình Nhượng Tống mà còn Giáo Cảnh, Sự và Lữ là những người Chính biết mặt. Cạnh Sự, một người ăn mặc quần áo tây, da ngăm đen, tên là Bình. Nhượng Tống giới thiệu, Chính mới biết Đảng bộ Quốc Dân đảng trong miền Nam đặc phái Bình ra dự đại hội đại biểu. Đến không kịp, Bình đành tìm đến chi bộ Nam Đồng hỏi tin tức. Bình báo Trần Huy Liệu, người lãnh đạo Đảng bộ miền Nam, đã bị Pháp bắt đưa đi Côn Đảo. Tin này khiến mộtsố người phân vân. Giáo Cảnh điềm đạm:

- Tô Hiệu cử anh em lên báo rằng chi bộ Hải Phòng không thể sửa soạn cho kịp Tổng khởi nghĩa năm nay…

Nhượng Tống cười mũi, nhẹ nhàng:

- Chắc anh ấy không đồng ý, thế thôi! Chứ chỗ nào dám bảo là sẽ sửa soạn kịp! Quay nhìn Chính, Nhượng Tống hỏi, còn Hà Nội thế nào?

- Từ khi được cử vào coi Binh vụ ở Hà Nội – Hà Đông, Đội Dương đốc thúc việc chế tạc đạn mỗi ngày… Nghe đâu Đảng đã có khả năng tập hợp được ba đại đội khố đỏ, và chí ít là năm, sáu đại đội khố xanh. Dương hăng lắm, đang bắt may những chiếc khăn màu đỏ, chữ vàng đề Cách Mạng giải phóng quân để đeo vào tay ngày Tổng khởi nghĩa…

- Ngày nào? Lữ ngước nhìn.

- Chưa biết! Ban chỉ đạo tối cao Tổng bộ Chiến tranh sẽ thông báo sau.

Bình trầm ngâm, rồi lên tiếng:

- Tôi qua vùng Thanh – Nghệ, anh em cho biết là không đi họp đại biểu toàn quốc vì được thông báo quá chậm…Vấn đề phối hợp giữa các địa phương chưa nhịp nhàng, khởi nghĩa mà không đồng bộ thì dễ thất bại lắm...

Giáo Cảnh nhếch mép cười chua chát. Nếu thế thật, phải làm gì đây? Đảng bộ Nam bộ ở tình trạng thuộc địa, khác với miền Bắc là đất bảo hộ. Chắc chắn, Nam bộ không thể Tổng khởi nghĩa bằng phương tiện võ trang. Nhìn Nhượng Tống, Chính trầm ngâm:

- Tôi cũng cho rằng Tổng khởi nghĩa là quá vội. Thành công, không phải chỉ là có lực lượng quân sự mà là giành độc lập với hậu thuẫn toàn dân. Hậu thuẫn? Không chỉ hậu thuẫn suông, mà là góp công, góp của, góp cả sinh mạng vào công cuộc giải phóng… Anh ở trong chi bộ Nam Đồng với anh Tài, xưa nay ai cũng kính mến. Hay là anh và Tài thuyết phục anh Học, anh Thục, cụ Xứ Nhu hoãn Tổng khởi nghĩa lại, tạm thời rút vào bí mật để củng cố. Đợi ít lâu, ta có cơ sở cả ở Trung bộ lẫn Nam bộ rồi hãy tính!

Nhượng Tống còn ngần ngừ thì Sự chêm vào:

- Hải Phòng là cảng, như cái cửa mở vào Bắc bộ. Dưới đó không làm gì thì cuộc Tổng khởi nghĩa chắc chắn là thất bại. Mỉa mai, Sự tiếp - và thế thì mấy trăm con người thành ma cả. Không thành công thì thành nhân chưa thấy, nhưng thành ma là cái chắc!

Giơ tay với cái điếu cày, Nhượng Tống châm đóm, rít sòng sọc. Khói thuốc lào xanh um màu mắt rắn. Tiếng ếch kêu đêm đã cất lên rời rạc. Nhượng Tống cố giấu e ngại, thủng thỉnh:

- Không biết anh Tài nghĩ thế nào chứ phần tôi có muốn cũng khó gặp anh Học. Anh ấy nay đây mai đó. Cụ Xứ Nhu ở xa, còn Thục-đen thì lúc biến lúc hiện như ma chơi, chắc lại về Sơn Tây rồi!

Chợt nhớ đến lời cha nhắn nhủ, làm Cách Mạng các anh phải thành công, thế hệ các anh không thể thất bại nữa được, Chính ngửng đầu nhìn mọi người, giọng đanh lại:

- Hoãn, thì bớt tổn thất! Thành công là thành nhân. Không thành công, sẽ bị chém, chỉ có thể thành những người cụt đầu…

Tiếng guốc bỗng vang lên đầu nhà lẫn vào tiếng chó ăng ẳng sủa. Chính chưa dứt lời, Xoan hiện ra trong khung cửa, mặt hớt hải như ma đuổi.

Độ gần nửa giờ sau khi Xoan đến tìm Chính ở nhà Nhượng Tống thì cô Giang cũng xuất hiện. Giang kể:

- Nhà anh Chính bị vây rồi, mật thám đã dò ra. Tôi đến báo, nhưng không được, phải đợi bên ngoài. Nhìn Xoan, Giang tiếp – Khi chị nhà về, tôi thấy chị quanh quẩn dò chừng, nhưng vì không biết mặt nên không dám chắc. Cho đến khi chị vội vàng đi, tôi mới theo. Lúc đến đầu ngõ, tôi đoán là nhà anh Nhượng Tống, chờ động tịnh, biết là yên rồi tôi mới gõ cửa!

Mới nhìn thoáng, cô Giang là một người đàn bà tầm thường. Mặt hơi rỗ hoa, Giang thoa một lớp phấn kín đáo nhưng nhìn kỹ, ai cũng nhận ra rằng trời đã hành nàng một cơn lên đậu thuở ấu thơ. Để bù lại, tạo hóa tặng cho Giang những phẩm chất chỉ kẻ gần gụi mới biết được. Giang có cái trực cảm của một con thú hoang. Gạn lọc từ một trí nhớ man sơ, Giang cảm ngay được những hiểm nghèo mà không cần phân tích lý giải. Dẫu gan là gan lim, Giang giữ được bề ngoài hiền lành của một người đàn bà quê mùa. Giả đi buôn hàng xén, Giang bôn ba khắp bốn năm tỉnh ở Bắc bộ, vừa làm liên lạc vừa mua bán chuyển vận hàng trăm cân thuốc súng, kíp đạn, ngòi nổ, dây đồng cho việc chế tạo bom và tạc đạn. Ngoài ra, Giang rất quyết liệt, ngay cả chuyện riêng tư. Khi phải lòng Học, Giang tự mình mang bức thư của Học về Thổ Tang trình cha mẹ xin phép cho mình ly hôn với vợ cả để lấy Giang. Chị vợ khóc bù lu bù loa, nhất định không chịu. Quì xuống lạy cha mẹ Học, Giang quay sang chắp tay xin với chị vợ cho mình làm lẽ. Không được. Hôm sau Giang lại đến, một tay cầm ba lạng vàng, tay kia một viên đạn đồng. Chìa cho xem khẩu súng giắt lưng, Giang nghiêm trang: chị chọn cho em, nhưng chọn gì thì chọn, chỉ một.

Giang báo, Tỉnh đảng bộ Bắc Giang đang bị truy lùng khủng bố. Xưởng chế bom nhà anh Trảm không hiểu vì sao nổ, chết ba đồng chí. Sau mật thám lại khám phá ra một trăm ba mươi trái bom và truyền đơn chôn ở làng PhaoTân. Giang buồn bã chép miệng:

- Lộ kế hoạch, nên Tổng bộ đang bàn khả năng hoãn Tổng khởi nghĩa. Tôi có nhiệm vụ liên lạc các anh Cảnh, anh Sự về việc này!

Mọi người thở ra, ai nấy như vừa trút được một gánh nặng. Cô Giang ghé vào tai giáo Cảnh thì thào điểm hẹn. Quay về phía Chính, Giang nói:

- Về phần anh, chắc về nơi cụ giáo Du thân sinh ra anh Dương là an toàn và dễ liên lạc nhất. Việc tiếp tục chế bom ở Bạch Mai hay không sẽ do quyết định của anh Dương, tất anh sẽ biết!

Chính bàng hoàng nhìn Xoan. Trong tình thế bị truy lùng, làm thế nào đây? Đoán được tâm lý Chính, Giang nhỏ nhẹ:

- Phần chị, anh để chị đi với tôi. Tôi sẽ tìm nơi an toàn cho chị một thời gian. Sau đó, anh chị tính toán sau vậy. Nắm tay Xoan, Giang dịu dàng – chị đi với em!

Xoan ngỡ ngàng:

- Đi ngay hở chị? Em chẳng quần áo gì…

Giang bật cười:

- Đừng lo, chỉ quần áo thì dễ. Cái mạng mình mới khó giữ, chị ạ!

Khuya hôm ấy, mưa phùn rỉ rả xua hơi ẩm đầu đông lạnh cóng người. Nắm tay Chính, Xoan tấm tức khóc. Đầu ngõ, Giang đứng đợi, bóng xiêu xiêu đổ xuống mặt đất sũng nước. Khi nghe Giang ho lên để giục, Chính buông tay Xoan, đẩy nhẹ vào vai, nói khe khẽ, thôi mình, mình đi đi!

Vòng vèo men ngách lờ mờ dưới ánh đèn le lói hắt vào từ ngọn đèn đường ngoài cửa sổ, nắm đấm làm bằng sứ tráng men trắng trên cánh cửa gỗ ánh lên mời mọc. Lãng đãng một tiếng xênh chêm vào giọng nhừa nhựa đẩy thanh âm của câu ca dài ra dằng dẵng. Chính nghe ngóng, rồi nhẹ nhàng xoay nắm đấm. Phòng xanh mơ hồ thứ khói thuốc phiện thơm phưng phức. Trong góc, ba người ngồi quanh chiếu, cạnh là một ả cô đầu tay đang bưng nước. Chính nhận ra giáo Cảnh, Dương và Sự. Như vậy là còn phải đợi thêm một người.

Phạm Thanh Dương, tuổi nhấp nhỉnh ba mươi, mặt xương, mũi cao, mắt hơi lé. Môi mỏng dính chúm chím lúc nào cũng như sắp cười, Dương phẩy tay giục, giọng chớt nhả:

- Cô em hát đi, chúng anh còn phải chờ vài người bạn. Nhìn giáo Cảnh, Dương nháy mắt – quan huynh đây cầm chầu cho…

Ả cô đầu, tên đào Huệ, đặt chén nước xuống. Tay cầm phách, ả xin phép quan viên rồi chúm môi:

- Hồng hồng tuyết tuyết… i… i

Mới… ngày nào chẳng biết cái chi chi

Mười lăm năm thấm thoát có ra gì

Ngoảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu … i …i

Nghe Dương giục, Cảnh miển cưỡng cầm dùi trống, tay gõ.

Tôm tôm chát

Tôm tôm chát…

Tiếng trống trật nhịp khiến câu hát khuỵu xuống tắc nghẹn. Đưa tay đập lên đùi Cảnh, Dương cao giọng:

- Này nhé, tôm tôm… giữ nhịp. Còn chát, cũng thế. Hát hay thì đánh thưởng… đánh liên hồi thế này… Các cụ nhà ta biết chơi lắm, chứ giờ thì mai một đi nhiều.

Dương vênh mặt, dẫu chẳng cần chứng tỏ mình thành thạo ăn chơi. Mà quả vậy. Tiếng là thông minh, Dương học xong Thành Chung ở trường Bưởi, được nhận vào trường đào tạo Y sĩ Đông Dương. Đến năm thứ hai, Dương bỏ vì mê đánh bạc, nợ nần lên đến tận cổ. Bỏ sang Lào, Dương được bổ làm Thư ký Toà Khâm. Đâu được hai năm, ham chơi nên Dương lại quay trở về Hà Nội. Xin học trường hạ sĩ quan không quân ở Bạch Mai, Dương vừa ra trường, và mới được bổ làm quan Đội đầu năm nay.

Giáo Cảnh giao chiếc dùi trống cho Sự, bảo:

- Cái món này tôi không biết chơi. Anh thử cầm chầu đi!

Sự lắc đầu, chuyền dùi cho Dương. Dương một tay đỡ dùi trống, tay kia véo nhẹ vào đùi đào Huệ, giọng bỡn cợt:

- Này, tôi cầm chầu, cô em hát lại đi…

Tiếng tôm chát lại nổi lên, khi đều đặn, khi dồn dập, nhanh chậm tùy theo nhịp luyến láy của đào Huệ. Cô ta tay lấy quạt che mặt, mắt long lanh liếc các quan viên, thỉnh thoảng lại ứ hự dặn hơi, nghe không khỏi liên tưởng đến chuyện ăn nằm chăn gối…

- … Ngã lãng du, thời quân thượng thiếu

Quân Kim hứa giá ngã thành ông…

Tôm tôm tôm chát…

Thình lình, tiếng kẹt cửa. Đào Huệ ngưng hát. Người mới vào là Ký-con. Nhìn quanh, Ký-con chào rồi ngồi xuống cạnh Dương, thì thầm vào tai. Vẫy tay cho đào Huệ đi ra, Dương quay nhìn giáo Cảnh và Sự, giọng nghiêm trọng:

- Báo với các anh, anh Ký vừa thông báo rằng không ai đến được, nên đại diện Tổng bộ hôm nay là tôi. Việc chính, là tìm hiểu tại sao có biến cố Bắc Giang, người của ta bị bắt, bom bị tịch thu, dự định Tổng khởi nghĩa nay bị lộ.

Ngưng lại, Dương nhìn quanh rồi trầm giọng:

- Đảng ta có hai phe, phe chủ chiến và phe chủ hòa…

Sự đưa tay lên ngắt:

- Xin lỗi anh, không có phe chủ hòa. Chúng tôi không hòa với giặc. Chúng tôi chỉ cho rằng Tổng khởi nghĩa bằng bạo động là chưa đến lúc. Chúng ta vẫn ở thời kỳ dự bị, thế thôi…

Dương nhếch mép, tiếp:

- Ừ thì thế… Tổng bộ cho điều tra, và đi đến kết luận là có nội phản!

Giáo Cảnh quắc mắt:

- Chúng tôi được chỉ thị của Tổng bộ do chính cô Giang thông báo là đến đây để bàn trực tiếp về việc hoãn Tổng khởi nghĩa. Nếu nghị sự không có vấn đề này, chúng tôi xin kiếu…

Ký-con thở ra, ngắt:

- Báo với các anh là không có chuyện hoãn Tổng khởi nghĩa trong nghị sự.

- Thế cái việc nội phản, bàn thì bàn cái gì?

Dương gằn giọng:

- Tổng bộ hỏi, có phải chính các anh – phe chủ hòa – các anh đã tiết lộ công việc Đảng...

Sự quát:

- Tổng bộ buộc tội chúng tôi vậy à? Đúng thế không?

Dứt lời, Sự đứng bật dậy, tay kéo giáo Cảnh. Nhanh như chớp, Ký-con móc khẩu súng lục chĩa vào hai người, quát khẽ:

- Các anh phải theo tôi. Đây là lệnh của Tổng bộ!

Giáo Cảnh bật lên cười chua chát:

- Trưởng ban Ám sát bây giờ làm cái việc giết đồng chí à? Còn Trưởng ban Binh vụ của Đảng nữa! Binh vụ có phải là lừa thầy phản bạn đâu… Được, tôi báo cho các anh để sau các anh nói lại với anh Học, anh Phó Đức Chính và cụ Xứ Nhu, là chúng tôi muốn cứu Đảng, bảo toàn lực lượng, cho nên chúng tôi chưa muốn bạo động. Chúng tôi không tin là sức mạnh của Cách Mạng chỉ có đám binh lính khố xanh, mà chính phải từ nhân dân. Muốn vạch một con đường cho lịch sử, cần nhiều bước chân, cùng bước một hướng. Đảng chưa làm được việc này, nên hành động bây giờ là manh động.

Dương vỗ vào bao súng lục giắt hông, gầm gừ:

- Im… Đây không phải chỗ diễn thuyết. Đã sửa soạn từ trước, Dương lôi ra hai chiếc còng, quát – đưa tay ra đây…

Thình lình, Chính chồm dậy, tay cầm một quả lựu đạn đã rút kíp:

- Các anh không làm thế được! Nhìn Ký-con quay mũi súng về phía mình, Chính gằn từng tiếng, giọng chắc nịnh – Anh bắn, tôi buông tay là lựu đạn nổ, chết cả thôi…

Dương hộc lên:

- A, thằng khốn… con vợ mày, mày nhớ không, nó bây giờ là con tin. Mày cản trở chúng tao, thì nó chết!

Chính lạnh người. Thì ra những người đồng chí này đã ngụy tạo ra tất cả, từ việc rình rập nhà mình ở Ngọc Hà cho đến việc đưa Xoan đi trốn. Và lại ép mình về ở nhà giáo Du để Dương tiện bề kiểm soát! Không dằn được, Chính bất ngờ giang tay tát vào mặt Dương, miệng thét:

- Đã đến lúc này, nồi da xáo thịt thì mạng mình chẳng tiếc, còn tiếc mạng ai, và sợ cái gì nữa. Nhìn Ký-con, Chính trầm giọng – anh Ký, mong anh nghĩ lại. Còn tôi, sống chuyến này tôi sẽ tìm Tổng bộ hỏi cho ra lẽ!

Thanh tra mật thám Riner là người ở cảng Mạc-sây, từ trẻ đã mơ mộng những chuyến đi xa. Kết bạn với đám thủy thủ học tiếng Việt, Riner bập bẹ được, nhưng từ khi đến Tonkin thì chỉ vài tháng sau đã nói khá sõi. Sau khi Riner phá tan được Nam Đồng thư xã, hắn tăng tiến vùn vụt. Và lúc được bổ nhiệm Thanh Tra, Riner đã trả ơn giáo Du là người đắc lực giúp mình. Giáo Du được quan Khâm Sứ cho mê-đai «tím» và Khâm sai Hoàng Cao Khải trao tước hàm Hồng Lô Tự Thiếu Khanh của triều đình Huế. Đối với Dương, đứa con trai phiêu lãng của Du, Riner sắp xếp đẩy Dương vào trường Không quân, hứa hẹn sẽ đề đạt cho trông coi không vụ ở phi trường Bạch Mai sau này.

Về phần Dương, khi học xong bỗng trở nên một ông Đội nghiêm nghị, không đánh bạc nữa và nghe kháo rằng đã cai thuốc phiện. Sau lần bắt hụt giáo Cảnh và Sự, Dương bực bội đòi Tổng bộ làm một cuộc thanh trừng nội bộ ở mọi Đảng bộ, từ cấp Tỉnh đến cấp Huyện. Tên những kẻ giơ tay chống Tổng khởi nghĩa, Dương đã cẩn thận ghi hết lại trong buổi họp đại biểu ở Thuận Thành. Cô Giang được Học phái lên Hà Nội, hẹn Dương họp tại Võng La, một làng cơ sở của cách mạng ở huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

Trước tình trạng khủng bố dồn dập của chính quyền Bảo Hộ, nghĩa quân bố trí bảo vệ Võng La khá chặt chẽ. Dân Võng La công ai việc nấy, nhưng đặc biệt nghe động tĩnh, hễ có gì bất thường là báo ngay cho đội bảo vệ. Ngày tám tháng giêng, có hai người theo đường ven sông vào làng. Hỏi mật hiệu, họ đáp đúng. Ban chỉ huy tối cao của Tổng bộ Đảng đã đến từ tối hôm trước. Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính và Xứ Nhu trưa nay chờ hai đồng chí từ Thành bộ Hà Nội. Ngoài Dương, còn Nguyễn Thanh Giang, người phụ trách ban Dân vụ ở Hà Nội và những vùng phụ cận. Không biết rõ lý do gì, một số cơ sở của Đảng bị lộ. Một số đồng chí nằm trong các đội khố xanh và khố đỏ bất thần bị chuyển đơn vị, nhiều người không còn trực tiếp chỉ huy lính.

Học đi ra đi vào, mắt thỉnh thoảng lại nhìn đồng hồ tay. Nhìn Xứ Nhu, Học thốt:

- Cụ ạ, chẳng hiểu sao sáng nay sốt ruột quá…

Với khay nước đặt trên một cái bàn trước mặt, Xứ Nhu rót nước, tiếng chảy òng ọc. Thục-đen vẫn ngồi, mặt lầm lì, tay khe khẽ bóp vào nhau. Xứ Nhu lên tiếng:

- Ở Bắc Giang, cơ sở bị phá vỡ, không còn đụng đậy được. Nếu Hà Nội cũng bị động, rồi Hải Phòng xin hoãn Tổng khởi nghĩa thì thật không biết làm ăn ra sao đây… Tôi cũng sốt ruột, rất muốn biết chuyện Hà Nội…

Tiếng chó sủa lên oăng oẳng, lẫn vào tiếng người. Cả Xứ Nhu, Thục-đen và Học cùng nhìn ra cửa. Phạm Thanh Dương bước vào, theo sau là một thanh niên chạc ba mươi, mặt đen đủi, người tròn to chắc nịch. Thục-đen hỏi Dương, mắt nhìn người lạ:

- Anh Thanh Giang đâu?

Dương đáp:

- Tôi đã cho người liên lạc anh Giang, chắc sớm muộn trưa nay cũng tới. Nắm cánh tay thanh niên, Dương tiếp – đây là người gạc-đờ-co cho tôi đi đường!

Thục-đen nhếch mép, đầu gật gù, kín đáo bấm tay Học. Theo nguyên tắc, chỉ Dương mới có quyền liên lạc với Thanh Giang, cấm qua một người trung gian. Và cũng chỉ một mình Dương đến họp, không được đi kèm với bất cứ một ai để giữ an toàn cho ban chỉ huy Tổng bộ Đảng. Xứ Nhu thừa biết điều đó, mặt cau lại, định lên tiếng vặn hỏi nhưng Học hắng giọng, nói lấp đi:

- Anh Dương đi đường có thấy động tịnh gì không? Đảng bố trí bảo vệ bí mật, chung quanh ta có đến hai ba lớp nằm rải đến ven làng, đủ súng đủ bom để đối phó…

Đánh tiếng như Học mục đích là để dọa. Mặt tái đi, Dương đang ấp úng thì tay thanh niên thò tay vào bụng. Xứ Nhu đạp đổ cái bàn, vùng lên nhảy ra ngoài. Học và Thục-đen cũng quay lưng cắm cổ chạy. Đoàng, đoàng! Thục-đen kêu hự lên, ngã ngửa. Học vấp vào, chúi xuống, người sõng soài trên nền đất. Tay thanh niên quát, hãy đuổi bắt thằng già. Dương bắn thêm một phát về phía Thục-đen, rồi chạy theo. Xứ Nhu nhắm hướng bờ sông, chân vắt lên cổ. Có tiếng súng. Súng tắc bọp. Rồi tiếng súng săn. Tiếng tạc đạn. Riner đang hô một tiểu đội mật thám xông vào làng. Nghĩa quân hò hét bắn trả. Xứ Nhu lên chiếc thuyền đã giấu sẵn, tay cầm chèo, miệng giục người giữ thuyền. Họ dọc theo bờ, đến một quãng thì chèo qua sông rồi bỏ thuyền chạy bộ.

Khi Dương quay về chỗ họp ban nẫy, Riner cũng vừa vặn xông vào. Không thấy cả Học lẫn Thục-đen. Trên nền nhà, một vũng máu đỏ nhầy nhợt. Riner văng tục ‘’Merde alors! Ces connards…[1]’’. Dương nói bằng tiếng Pháp, chắc chúng nó bị thương không đi xa đâu. Cứ lùng, sẽ bắt được. Chợt có tiếng hét. Dương đẩy cho Riner ngã xuống. Một quả lựu đạn ném vào, tiếng rơi đến bịch một cái. Nó trơ trơ, không nổ. Dương lúc ấy bạo dạn ra đá cho quả tạc đạn văng ra ngoài. Ùm… Cánh cửa văng lên trời. Lửa bắt vào mái rạ, cháy phừng phực. Tiếng mật thám gọi nhau, lúc bằng tiếng Việt, lúc bằng tiếng Pháp, í ới, náo loạn. Khi đó, lính khố đỏ tiếp ứng đã đến. Chúng vây Võng La, nội bất xuất ngoại bất nhập. Cuộc lùng kiếm bắt đầu. Đến sáng, lính rút. Riner vỗ vỗ tay Dương, vẫy bọn mật thám, miệng xì xồ những gì không ai hiểu. Lát sau, phi cơ của quân đội Pháp bay rà rà trên những đỉnh cây trồi mọc khắp làng Võng La. Tiếng bom dội xuống nổ như sấm sét. Lửa bốc lên tứ phía, cháy cho đến khi trời làm mưa hai ngày sau mới tắt. Mưa dứt hột thì người trong làng Võng La đi chôn nghĩa quân thương vong. Họ chết đến hàng chục nhưng không ai khóc thành tiếng. Chỉ có tiếng nghiến răng. Ngay sau trận mưa, những cây trồi mới cháy rụi nhìn bỗng thoắt lại xanh lá, như thường ngày.

Tiếng tru lên thảm thiết không phải là tiếng người. Đó là tiếng tru một con sói chân mắc bẫy, mũi sắt kẹp vào đâm thấu đến xương, càng giẫy vòng thép càng xiết lại mỗi lúc một chặt. Tiếng tru nhỏ dần, khi tưởng yên thì lại hừ hự cất lên, quằn quại từng chập một, ngắc ngoải đau đớn. Thình lình, mõ lốc cốc vẳng lại nhịp cho tiếng tụng kinh:

-Nam mô cứu khổ cứu nạn quan thế âm bồ tát, nam mô a di đà…lượng độ chúng sinh, nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng…

Nhà sư quay lưng lại, trước mặt là một người nằm xuôi, trên bệ thờ Phật hai ngọn nến lung linh cháy. Chính hé mắt nhìn qua khe cửa, đoán là sư Trạch, người đảng viên kỳ bí đã trở thành huyền thoại. Tiếng đồn, một lần sư bị bắt, nhưng giữa trưa cứ thủng thẳng đi khỏi trại giam như một kẻ nhàn du. Người ta bảo sư có phép tàng hình, và súng đạn có bắn vào thì như xuyên qua không khí. Sư Trạch là sư hộ pháp cho Đảng, trực tiếp bảo vệ ba yếu nhân chỉ huy Tổng bộ Chiến tranh. Trạch đến Sơn Tây để lo cho Phó Đức Chính, người suýt bị bắt ở Võng La tháng trước.

Không quay lại, sư bỗng cất tiếng:

- Mời thí chủ vào. Tôi bận tay bấm huyệt chữa bệnh cho ông đây, nhưng nay thì xong… xin lỗi đã để thí chủ chờ!

Chính ngạc nhiên. Làm sao sư biết Chính ở đây? Khi đến hỏi, chú tiểu chùa ngoài mời vào rồi chỉ tay về phía chùa trong, xong lại tiếp tục cuốc đất cơ mà. Sư thình lình vừa cười vừa nói:

- Lại còn một vị khách đi cùng thí chủ còn đứng ở gốc cây ngoài vườn. Sư cất tiếng gọi to – tiểu Hồng, mau ra ngoài chỗ cây hoa đại mời khách vào cho thầy…

Lần này, Chính kinh hoảng. Đúng là Nho đi cùng, chưa biết động tịnh thế nào nên còn đứng bên ngoài đợi xem tình thế ra sao. Sư quay ra, chòm lông mày trắng phau lấp lánh sáng, điềm đạm:

- A di dà phật!

Lúc ấy, Chính nhận ra sư chính là Sư trụ trì ngôi chùa ven phủ Lâm Thao. Sư cũng nhận ra Chính, tươi cười:

- Tưởng ai, hóa lại là cố nhân! Cứ có duyên là còn gặp!

- Thế ra sư là sư Trạch. Dạo xưa…

- À, xưa tôi nói Trạch là em tôi, rủ rê tôi làm cách mạng. Sư cười, hồn nhiên – ấy là nói thế thôi, chứ tôi có là Trạch hay Trạch có là em tôi thì…tất cả cũng vẫn một chữ không, thế là… chẳng có gì cả. Cái xác phàm với cái tên phàm ấy mà, quan trọng chi đâu!

Lúc đó, Nho đẩy cửa bước vào. Sư reo, giọng bỡn cợt:

- A, chú Nho. Cứ tưởng ai! Chú cứ thập thò bí ẩn như… như đi làm cách mạng nên phải mời mới vào à!

Nhìn Nho ngượng ngịu, Sư tiếp:

- Mà này, mắt chú có sát khí đấy, hãi thật. Chỉ người còn nằm xuôi trên tấm phản trước bồ đoàn, sư thủng thẳng – anh Thục anh ấy