6 - Vỡ bờ
Ruộng đồng bằng sông Hồng nước ngập trắng xóa. Người đói bắt đầu thấp thoáng năm cửa ô. Đã đẻ non, Chính Phủ lâm thời lại phải gánh chịu thêm một cơn trời hành. Hà Nội động kinh, từ cổ đến chân, cơ bắp co giựt. Nguyễn Tường Tam và Nghiêm Kế Tổ phía Việt Quốc từ Côn Minh đã về Hà Nội. Liên kết với Việt Cách, họ tố cáo tính chất Cộng Sản của Chính Phủ lâm thời và đề nghị Tưởng Giới Thạch hất Việt Minh khỏi bàn cờ chính trị. Lực lượng Tự Vệ của Việt Minh rút vào bí mật. Tiêu Văn, người phụ trách chính trị của lực lượng quân Tưởng, đứng ra làm môi giới cho một cuộc đàm phán giữa những đảng phái Việt Nam. Song song với cuộc đàm phán, Quốc Dân Ðảng tổ chức ám sát, bắt cóc, và khủng bố những thành viên của Việt Minh và cả Pháp kiều. Trong những khóa huấn luyện ở khu tự trị Ngũ Xã, ba anh em Tam, Long, Bách đến giảng đường lối dân tộc dân chủ, nêu cao khẩu hiệu đoàn kết Kháng Chiến Quốc Gia, khoa trương tình hữu nghị giữa Quốc Dân Ðảng Việt Nam và Trung Hoa Quốc Dân Ðảng.
Việt Minh đút lót Tiêu Văn và các Sư trưởng quân Trung Hoa bằng vàng, mong kéo dài thời gian để có thể củng cố, tuyên bố sẵn sàng hợp tác với những đảng phái khác. Đối tác với Việt Minh, một Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất được thành lập với Nguyễn Hải Thần là chủ tịch, Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh đồng phó chủ tịch, và Nghiêm Kế Tổ, ủy viên phụ trách ngoại giao. Đại diện cho Việt Minh, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Hữu Ðang, và Chính đến trụ sở Quốc Dân Ðảng đóng ở trường tiểu học Ðỗ Hữu Vị. Mục đích buổi gặp gỡ là sửa soạn chương trình nghị sự giữa các đảng phái. Trước nay, Chính chưa có dịp gặp Nguyễn Tường Tam. Định bước đến bắt tay nhưng khựng lại trước ánh mắt lạnh lùng, Chính chỉ lễ phép nghiêng mình chào. Vừa ngồi xuống, Bách khai pháo:
- Ðúng là khi nguy các anh mới tìm đến chúng tôi!
Quai hàm bạnh ra, Đang nhìn thẳng vào mắt Tam, cắt ngang:
- Chúng tôi đến đây với tư cách là phái viên của Chính Phủ lâm thời mà những người canh cổng ở đây tùy tiện khám xét như những kẻ trộm cướp. Tôi phản đối cách khu xử thiếu văn hóa đó. Tôi cũng phản đối loại ngôn ngữ khiêu khích. Ðúng là chúng tôi chủ động tiếp xúc tướng Tiêu Văn, mong ông giúp để thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất. Về chuyện nguy hay không, các anh hiểu, cả dân tộc này đang đối phó với nguy nan chứ chẳng riêng ai...
Vẫn lạnh lùng, Tam im lặng nhìn ra cửa sổ, ria mép khẽ động đậy, tay đưa lên sửa gọng kính trễ xuống mũi. Vũ Ðình Huỳnh mỉm cười với Tam, rồi quay sang Vũ Hồng Khanh:
- Buổi gặp hôm nay, cách thức làm việc ra sao tùy các anh. Mục đích, các anh biết, là tiếp cận những vấn đề để cùng nhau đi đến một thỏa hiệp chính trị trong tình thế rối ren này.
Khanh gật đầu. Sau khi dông dài về nguyên tắc ‘’ tinh thành đoàn kết’’ của Nguyễn Hải Thần, Chính chậm rãi:
- Cụ thể, chúng ta thôi đả kích nhau trên báo chí. Tất cả những tờ báo của Việt Minh sẽ xuống thang từng bước, sửa soạn dư luận đi đến thỏa hiệp, và yêu cầu báo Việt Nam cũng làm như vậy. Mặt khác, quan trọng hơn, hai bên ngừng ngay những xô xát vũ trang, trả lại an ninh cho thủ đô...
Tam vân vê ria mép, thình lình hắng giọng:
- Theo tôi, để đi đến một thỏa hiệp, cụ thể nhất là Chính Phủ lâm thời hiện nay từ chức... Toàn bộ Chính Phủ từ chức!
Ðang phá lên cười. Chính lắc đầu, bình tĩnh:
- Từ chức là tạo ra một lỗ hổng. Trong thời gian ấy, cả nước không có một chính phủ, tiếng nói nào là tiếng nói giành độc lập. Vả lại, các anh nghĩ cho, nhiệm vụ của chúng tôi đâu phải đến đây để đầu hàng vô điều kiện.
Ðúng lúc đó, có tiếng quát tháo ngoài sân. Đó là Nhà thơ. Tóc búi củ hành, áo the, quần trắng, Nhà thơ đi quanh Bờ Hồ mấy hôm liền, vừa đi vừa lớn giọng ‘’Thù ngoài, trong mà đi chém giết lẫn nhau thì là giặc. Tại sao thế hả?’’.
Mọi người nhìn qua cửa sổ. Bách bỏ phòng họp vội vã bước ra. Ở trước cổng, Nhà thơ vẫn cao giọng lập lại đúng một câu.
- Thằng khùng, một cảnh vệ quát, xéo đi ngay... Nếu không, ông bắn cho một phát bỏ mẹ mày bây giờ!
Nhà thơ giơ tay lên trời:
- Nước sạch ta rửa giải mũ, nước đục thì rửa chân! Nhưng nước bẩn đến độ không rửa được chân nữa thì sao, hả Trời?
Người cảnh vệ đến gần Nhà thơ, bất ngờ thúc báng súng vào ngực. Nhà thơ ngã bịch xuống đất, máu trào ra khỏi miệng. Bách tiến đến nắm tay người cảnh vệ giằng lại. Người cảnh vệ im lặng lùi vào sau sân. Bước đến gần Nhà thơ, Bách cúi xuống đỡ. Gượng đứng dậy, tay quệt máu trên miệng, Nhà thơ hỏi:
- Hai thằng anh của chú đâu? Tam! Long! ...Chúng mày ở đâu? Nhà thơ gào lên – chúng mày bây giờ thành ăn cướp cả rồi hay sao?
Long, Chính và Ðang từ trong đi ra. Mặt nhúm nhó vì đau đớn, Nhà thơ nhìn Long, quát:
- Tam đâu? Ðón cố nhân thế này ư?
Tam lúc đó bước tới, hàng ria mép lại rung lên. Nhà thơ nhìn chằm chằm:
- ‘’Thù ngoài, trong mà đi chém giết lẫn nhau thì là giặc. Tại sao thế hả? ’’
Không đáp, Tam thò cánh tay dài ngoằng ngoẵng đặt lên vai Nhà thơ. Ðể yên, Nhà thơ dịu giọng:
- Lấy tình bạn với mày, tao bảo, những cái việc chém giết không phải việc của mày! Mày sinh ra để là một Nhà văn, không phải đi tìm công hầu khanh tướng làm gì. Chính trị trước mắt là phù vân... Nghe tao, bỏ lại hết để về với mình... bỏ hết...
Trong phòng họp ở Bắc Bộ phủ, Chính ngồi đợi báo cáo về chuyến thăm viếng chớp nhoáng của Phái Bộ Nga. Sau hiệp định Yalta, Nga thành một thế lực lớn nên dẫu họ chưa dính líu trực tiếp vào vấn đề Ðông Dương, tiếng nói chắc sẽ có trọng lượng. Thình lình, một Tự vệ vào, ghé tai Chính thầm thì. Chính đứng dậy theo chân bước ra sân. Huyền đang đứng cạnh trạm canh, nhác thấy Chính, vẫy tay rối rít. Chính nhận ra ánh mắt hoảng hốt trên khuôn mặt Huyền. Ngạc nhiên vì nay mình không còn trách nhiệm với đoàn Thanh niên Ngũ Xã trong đó Huyền là thành viên, Chính nhìn Huyền, dò hỏi. Huyền chào, rồi nói vội:
- Anh em Ngũ Xã sắp đánh vào tòa báo Việt Nam, trả đũa việc Quốc Dân Ðảng phá chùa Hòe Nhai...
Kéo Huyền ra xa, Chính lắng nghe. Huyền nói xong, Chính hấp tấp đòi gặp ngay Tạ Ðình Ðề. Chính nói vội:
- Anh Ðề, xin anh cái xe của Ông Cụ, đưa ngay tôi lại Quan Thánh. Gấp lắm, tôi sẽ báo cáo sau...
Tài xế đánh xe ra. Chính đòi cắm cờ đỏ sao vàng, lên xe với Huyền, miệng giục, mắt nhìn đồng hồ. Khi xe ngừng bánh trước tòa báo trên phố Quán Thánh, Chính thở phào. Bảo anh tài xế đậu xe trước cửa, Chính và Huyền bước vào. Mặc cho đám gác cổng sừng sộ, Chính giữ giọng ôn hòa, xin cho được gặp Khái Hưng.
Dăm phút sau, Khái Hưng thò đầu ra khỏi cửa vẫy tay. Chính và Huyền bước lên thang. Không phải chỉ có Khái Hưng, mà còn Bách, Long và vài người Chính không biết mặt đang ngồi quanh. Bách gằn giọng:
- Anh có việc gì? Giọng mỉa mai, Bách tiếp - chắc anh có phóng sự cho báo chúng tôi? Nhìn qua cửa sổ, Bách hằn học – Bây giờ anh đi xe có cắm cờ, oai thật!
Chính rành mạch:
- Cái xe có cắm cờ ấy có khả năng chặn một khẩu bazoka đang chĩa vào đây, và cứu sống chúng ta, kể cả tôi. Quay sang Khái Hưng, Chính hạ giọng - tôi có thể nói tí chuyện riêng với anh không?
Khái Hưng đứng lên. Hai người bước sang buồng bên cạnh. Lát sau, có tiếng quay điện thoại. Ði ra, Chính nói:
- Tôi xuống sân, cho mọi người nhìn thấy rõ, chắc họ sẽ tránh manh động!
Huyền bước theo, nhưng Chính cản lại:
- Thôi! Không cần em. Cứ ở trên gác...
Chính đẩy cửa bước ra. Gió ập vào mặt, lạnh lẽo cắt đến da. Những mũi súng đâu đây đang chĩa vào người chàng. Cổ họng tê rát, Chính chỉ muốn giơ tay, kêu Chính đây. Liệu những thanh niên đã cùng chàng chiến đấu có kịp nhận ra chàng không? Chiếc xe có cắm cờ Phủ Chủ Tịch đậu đây, nhưng những tay súng đang đợi lệnh bóp cò có thể chẳng quan tâm, máu sôi lên đòi trả nợ máu bằng máu? Chính hít không khí thật sâu vào buồng phổi. Trong những giây phút căng thẳng này, chàng bỗng dưng nhớ Xoan, nhớ Bình Minh. Ngậm ngùi tự hỏi ta đã làm được gì cho những người thân yêu kia, Chính lắc đầu. Cái cảm giác đầu tiên với súng đạn trong trận đánh đồn Nam Ðàn mười lăm năm về trước thình lình trở lại. Nỗi sợ một viên đạn vô tình găm vào người khiến Chính lạnh xương sống, tay chân gần như tê liệt. Khái Hưng cũng đẩy cửa. Miệng cười, răng vàng khói thuốc nhô ra, chàng nửa cười nửa mếu nhìn Chính:
- Tôi ra với anh... Chuyện gẫu cho nó tự nhiên...
Rồi Huyền cũng đi ra. Chính chưa kịp nói gì, Huyền cương quyết:
- Em cũng ra. Lỡ có gì thì...
Nàng chưa dứt lời, tiếng còi hụ của hai chiếc xe lính Tưởng đã rú lên đầu phố. Khái Hưng vừa điện thoại yêu cầu đội an ninh đến, chỉ nói sơ là tình nghi có bạo động. Xe đỗ. Một thiếu úy nhảy xuống. Chính vẫn không thấy động tịnh gì, thở phào nhẹ nhõm. Quay sang Huyền, Chính lấy lại bình tĩnh, nói nhỏ:
- Ðội Tự vệ chắc đã thấy em. Vậy, em không thể về đơn vị cũ được! Bây giờ, ta đi!
Bắt tay Khái Hưng, Chính ngậm ngùi:
- Chào anh. Cám ơn anh! Cố giữ mình nhé!
Buồn bã, Khái Hưng gật đầu. Cuộc tập kích tòa báo Việt Nam như vậy bất thành. Chính uể oải bảo tài xế đánh xe về Bắc Bộ phủ. Ngồi cạnh, lúc ấy Chính mới nhìn Huyền. Mái tóc xõa che nửa khuôn mặt trái soan chảy xuống bờ vai, Huyền quay nhìn ra đường. Không khí thoang thoảng mùi nước hoa Coty. Chính mỉm cười. Một thiếu nữ vẫn không quên bôi nước hoa khi sóng bước cạnh tử thần?
Huyền nhớ câu nói lửng lúc nãy, lỡ có gì thì... Thì sao, nàng không dám nghĩ tiếp, nhưng đỏ mặt ngượng ngùng. Từ khi Chính chuyển công tác, thỉnh thoảng Huyền cảm thấy một chút gì như nhung nhớ lãng đãng. Bây giờ, Huyền chợt hy vọng. Không về đơn vị thì liệu nàng chắc có một công tác gì khác dưới sự điều động của Chính chăng. Huyền đánh bạo hỏi. Nàng quặn ruột khi Chính đáp, để còn xem! Về đến Bắc Bộ phủ, người đầu tiên Chính chạm mặt là Trần Quốc Hoàn. Chặn Chính lại, Hoàn gằn:
- Anh không có nhiệm vụ sao lại đến Quán Thánh?
Giọng Hoàn găng, cặp mắt ti hí gếch nhìn, vẻ táo tợn. Chính trầm tĩnh, trong lòng ngờ ngợ một điều gì chưa định hình, chậm rãi đáp:
- Tôi sẽ báo cáo với Thường Vụ!
Phòng họp nay chỉ còn Giáp, Ðồng, Giám và Hoàng Hữu Nam. Chính kể lại câu chuyện. Giáp quắc mắt nhìn ra ngoài, thở phào rồi nói:
- May thật. Nếu không, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, kể cả chuyện quân Tưởng vây bắt Chính Phủ... Bây giờ, phải chuyển tất cả đám tả khuynh cực đoan ra ngoại thành, đưa về nông thôn, hoặc cắt cử vào đoàn Nam Tiến...
Ðám tả khuynh là đám cực lực chống Pháp, nhất định không thương lượng và hô hào kháng chiến toàn quốc. Ðồng chậm rãi, giọng Quảng khó nghe, dẫu cố rành rọt:
- Các đồng chí Liên Xô đến thăm ta cho biết rằng phe tả ở Pháp đang thắng thế. De Gaulle chắc sẽ từ chức, và đảng Cộng Sản Pháp nay là chính đảng số một, có khả năng thắng cử. Ta cố giữ hiếu hòa với Pháp, tránh không để lọt vào ảnh hưởng Mỹ-Trùng Khánh...
Giáp xen ngang:
- Thường Vụ đang soạn một tuyên bố, sẽ gửi cho Sainteny nay mai. Trước hết, phải làm sao tiến hành Tổng Tuyển cử cho yên ổn... Từ nay, Giáp hóm hỉnh, chúng ta phân biệt bọn thực dân Pháp với nhân dân Pháp, trong đó có Pháp kiều!
Tin đồn quân Tưởng sắp rút khiến phe Quốc Gia muốn thôn tính ngay Việt Minh để thành lập một chính phủ thân Trung Hoa. Lực lượng bí mật của Quốc Dân Ðảng tiếp tục khủng bố. Ðầu đông, mây xám ngoét. Trời rả rích mưa. Đầu đội mũ dạ, bụng gài súng, lựu đạn, dao găm... những thanh niên thuộc đoàn cảm tử Việt Quốc được tung ra ba mươi sáu phố phường. Nhà thơ ở đâu lại xuất hiện. Khác với trước, lần này Nhà thơ để mặc cho râu mọc trên khuôn mặt tái xanh, vừa đi vừa lớn giọng:
- ‘’Thù ngoài, trong mà đi chém giết lẫn nhau thì là giặc. Tại sao thế hả? ’’
Bọn trẻ lêu lổng vì trường học phần lớn đóng cửa, bước theo Nhà thơ, đồng thanh nhại ‘’ Hả? Hả?’’ Cứ thế, như một đám rước, cả bọn đi vòng Bờ Hồ. Lính Tưởng gác đường cười hô hố, vẫy tay, cũng hò theo. Nhà thơ đi về phía Bắc Bộ phủ. Người hàng phố chong mắt nhìn, không ai bảo ai, lặng lẽ cúi đầu. Tại sao? Không phải ai cũng hiểu. Tiếng súng khi thành ngôn ngữ chỉ có một giọng. Thậm chí, một mùi, của máu. Nhà thơ vẫn hỏi. Bọn trẻ tiếp tục đồng thanh hò. Khi đến cổng Bắc Bộ phủ, Nhà thơ gào lên:
- Ông Hồ Chí Minh ơi! Ông cho tôi hỏi một đôi lời!
Bọn trẻ cùng cất tiếng hò theo:
- ... một đôi lời!
Ðoàn Cảm Tử thành có nhiệm vụ bảo vệ dàn thành đội hình, tưởng là màn đầu một cuộc biểu tình. Trung đội trưởng Tạ Ðình Ðề ở trong sân bước ra. Nhìn Nhà thơ, Đề dịu giọng:
- Cụ Hồ đi vắng! Xin ông để lại danh tánh...
- Thật không? Ông Cụ là Chủ Tịch Chính Phủ mà đi vắng à?
Thật ra, Ông Cụ đang ở trong Phủ. Nhưng lúc ấy là thời gian những thành viên của Thường Vụ phải di chuyển chỗ ở và chỗ làm việc đến những nơi bí mật để giữ an toàn. Ðề ê a đáp:
- Thật, ông ạ! Cười hề hề, Ðề tiếp – Tôi dối ông làm gì? Ông có muốn tôi thề không?
Nhà thơ lắc đầu. Nhìn đám trẻ con, Nhà thơ lại hỏi, chúng nó vẫn đồng thanh ‘’ hả? hả?’’ như thổi cho câu hỏi bay lên đám mây xám trên không. Ðám rước tiếp tục, lần này đi một mạch, qua chợ Ðồng Xuân. Dân hàng chợ xô ra, vỗ tay, reo hò. Ðám đi rước câu hỏi rẽ vào phố Quán Thánh, đến trước cửa toà báo Việt Nam. Nhà thơ vẫn hỏi một câu. Ðể đối phó, loa truyền thanh đặt ở gác hai vặn thật to, oang oang: ‘’...Chính phủ Việt Minh đang thỏa hiệp ngầm với Pháp, định bán đứng độc lập của nước ta. Dân chúng cương quyết đòi chính phủ bán nước này giải tán, yêu cầu vua Bảo Ðại trở lại chấp chính...’’
Bỗng hàng dân nhốn nháo vì một tràng súng đùng đoàng không biết từ đâu bắn vào hai cái loa phát thanh. Chúng hục lên rè rè, rồi bất lực, ngậm tăm. Khái Hưng trên gác thò đầu ra, mặt ngơ ngác. Nhìn thấy, Nhà thơ thét ‘’Thù ngoài, trong mà đi chém giết lẫn nhau thì là giặc. Tại sao thế hả? ’’. Ðám Tự vệ của Quốc Dân Ðảng ùa ra, súng chĩa vào đám trẻ con. Khái Hưng tất tả chạy xuống, thét:
- Ðừng! Ðừng...
Bọn trẻ con run rẩy, nép vào nhau. Nhà thơ ưỡn ngực, quát:
- Bắn đi, xem nào!
Khái Hưng nhảy vào giữa, mặt quay về đám Tự vệ, nói vội:
- Các anh cứ đâu về đấy, để tôi đối phó!
Ðám Tự vệ lùi vào sân sau, vẫn hườm súng dọa nạt. Khái Hưng chưa nói gì thì Nhà thơ dịu giọng:
- Giư ơi, mày cũng mắc vào cái vòng này à?
Khái Hưng làm thinh, không đáp.
- Mày có tin vào việc mày làm không Giư?
-...
- Mày có định thành ông này ông nọ không?
- Không!
- Thế thì về đi, trước khi quá muộn.
Mắt thâm quầng, mặt hốc hác sau những đêm mất ngủ, Khái Hưng nói, giọng thầm thì:
- Muộn quá rồi! Phóng lao thì phải theo lao...
Ôm lấy Khái Hưng, Nhà thơ bật khóc rưng rức rồi quay lưng lầm lũi bước. Bọn trẻ con lại đi theo. Cả phố Quan Thánh lắng xuống, lịm đi đến độ chỉ còn có tiếng gió thổi qua sông Hồng giữa những hàng cây bàng lá đã trụi.
Nắm được một số thông tin về khả năng phe Quốc Gia sẽ dùng bạo lực lật đổ chính phủ, Việt Minh tản cán bộ về nông thôn, sửa soạn chiến tranh du kích. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Minh Giám bí mật gặp Caput, bí thư đảng Xã Hội Pháp hiện có mặt tại Bắc bộ, để điều đình. Caput cho biết Pháp sẵn sàng trao cho dân tộc Việt Nam một nền độc lập ‘’ tương hợp’’, vừa trong Liên Bang Ðông Dương, vừa trong Liên Hiệp Pháp. Giáp đề nghị Paris ghi nhận ‘’nguyên tắc độc lập’’, nếu không thì Việt Minh buộc phải hợp tác với Trung Hoa. Nhưng cùng ngày, D’Argenlieu được điện của Pechkoff, đại sứ Pháp tại Trùng Khánh, cho biết Tưởng Giới Thạch tuyên bố sẵn sàng rút quân khỏi Bắc Bộ. Vừa thiệt hại mười vạn khi tiến đánh Hồng quân của Mao, Trùng Khánh cần tăng viện để củng cố hậu phương, không thể để quân chùng chình ở Việt Nam được.
Tưởng Giới Thạch lệnh cho Tiêu Văn phải lập tức thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp. Cuộc mặc cả bắt đầu. Quốc Dân Ðảng đòi bảy trên mười ghế bộ trưởng, đổi quốc kỳ ra cờ sao trắng, đổi quốc ca, đổi tên quân đội thành Quốc Dân quân. Việt Minh đề nghị sẽ giành cho Quốc Dân Ðảng năm mươi ghế, và Việt Nam Cách Mạng đồng minh hai mươi ghế trong Quốc Hội mà không qua bầu bán. Về thành phần Chính Phủ Liên Hiệp, sẽ để Bộ Nội Vụ và Bộ Quốc Phòng cho những người trung lập. Việt Minh và Đảng Dân Chủ giữ bốn bộ, Việt Quốc và Việt Cách bốn bộ. Ðồng thời, tất cả mọi đảng phái đồng ý thành lập Ủy Ban Kháng Chiến toàn quốc và một Ðoàn Cố Vấn quốc gia. Chuyện quốc kỳ và quốc ca, phải chờ Tổng Tuyển Cử bầu Quốc Hội, và sau đó, để Quốc Hội định đoạt.
Chia chác giữa những thế lực lăm le quyền bính chẳng được quan tâm bằng chuyện dân Thủ Đô xầm xì với nhau khắp nơi. Lính Tưởng canh gác ở những ụ giao thông thấy có một người đàn bà áo vàng dắt tay một đứa bé đi ngang nhiên giữa phố Tràng Tiền, gọi không đứng lại, bóp cò bắn chỉ thiên thì ngoái nhìn như không có việc gì. Lính nhắm bắn, chỉ thấy một vệt khói, và hai bà cháu cứ thủng thỉnh bước đi về phía Thủy Tạ. Giữa hồ Hoàn Kiếm, Rùa thần nổi lên. Trên mu rùa, một người râu ria, tóc búi củ hành, ăn mặc toàn trắng nằm ngửa bất động. Rùa bơi vòng bờ Hồ từ sáng. Một bọn trẻ con kéo nhau đi theo, miệng đồng thanh ‘’ Hả? Hả?’’ nhưng chẳng một ai biết chúng hỏi gì.
Hai bà cháu ngồi vắt vẻo góc sân chìa ra mặt hồ. Bà già áo vàng bảo:
- Ðấy! Thật ra là thần Kim Qui đã nổi lên từ đêm hôm qua. Nhưng không phải là đám trẻ này đi theo...
Ðứa bé đỡ lời:
- Không! Ðám trẻ ban đêm gày gò, chỉ da bọc xương. Chúng nó đã chết đói cả.
- Nhưng chúng cũng kêu hả? hả? Chúng kêu từ cõi bên kia..
- Bọn Thành hoàng và Thổ thần cũng đang ẩu đả với nhau, có khác gì trên cõi dương này. Vì thế bà cháu mình thấy mà chán nên mới bỏ cái miếu ở kênh Sắt vào đây tha phương cầu thực. Nhưng từ hôm đó, chẳng thấy ai cúng bái ở đền Ngọc Sơn, chắc rồi lại còn phải đi nữa?
- Ừ, dương loạn mà âm cũng loạn, có ai biết đâu là yên để mà tới...
Bà già vừa dứt lời thì Rùa thần bơi ngang. Ðứa bé nhìn, thấy đầu người nằm trên mu rùa toác ra một lỗ đỏ ngòm to bằng miệng chén. Nó bịt mắt, kêu:
- Kinh quá!
Ðám trẻ đi vòng Bờ Hồ lại hò lên. Hai bà cháu đứng dậy, bước theo. Thằng bé giật tay bà, nói:
- Bà cũng hỏi đi! Hả? Hả? Hỏi người không được thì hỏi hỏi Thần, hỏi Thánh!
Bà già áo vàng ngửa mặt lên, kêu:
- Cha là Trời, Mẹ là Đất. Trời ơi Đất hỡi, giờ đây hỏi ai? Ðến Thánh đến Thần cũng hư cả mất rồi! Tin làm sao được mà hỏi, hả?
Tiếng kêu vang vang trong bầu trời xám xịt. Một chớp sáng chụp xuống. Sét đánh ngang tóe lửa cháy sém mặt trái đất. Nhưng chẳng ai nghe, chẳng ai thấy. Con người dưới này đã mù, đã điếc cả rồi sao? Một đàn nhạn từ nóc Bưu Ðiện bay toáng lên, mỏ tru ra, rít lên những tiếng thảm thiết. Trên mặt hồ, Rùa thần bất động. Tháp Báo Thiên nhìn như bơi đến giữa hồ, nơi Rùa thần lặn xuống. Xác người nằm trên chìm xuống nước tựa như dính chặt vào mu rùa. Tuần sau, cái xác đó không nổi lên. Tháng sau, cũng vậy. Cái xác đó biến thành đất, hóa thành nước. Ðó là xác Nhà thơ ngày 19 tháng 8 năm 1945 đã viết:
’’ Hà Nội ơi, cờ bay đỏ phố đỏ nhà.
Ðỏ cả chân trời, đỏ cả lòng ta’’.
Có ai ngờ máu đổ.
Máu đổ ra cũng đỏ phố đỏ nhà. Và đỏ cả chân trời. Lời tiên tri đó ít ai nhớ. Và dĩ nhiên, người ta rồi cũng quên, chẳng biết Nhà thơ bỏ mạng là ai.
Ngày mồng 6 tháng 1, Tổng Tuyển cử. Ở Trung và Bắc bộ, mọi chuyện êm thắm dù Quốc Dân Ðảng cố tìm cách phá, nhưng không mấy hiệu quả. Ở Nam bộ, tình hình khác hẳn. Nơi đặt thùng phiếu bị Pháp bắn phá, xa thị trấn thì dội bom. Nhưng rồi Quốc Hội cũng được thành lập với 333 dân biểu, trong đó 70 ghế dành cho Việt Quốc và Việt Cách là được chỉ định. Ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng... dân chúng chăng đèn kết hoa, ngày đêm vang vang tiếng hát Tiến Quân ca. Quốc Hội của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức thành lập Chính Phủ Liên Hiệp. Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần là Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch, với thành phần Chính Phủ đúng dự kiến.
Phe Quốc Gia cực đoan và Hoa kiều điên lên trước xu thế thỏa hiệp của Việt Minh với Pháp. Họ ám sát Barylin là giám đốc Ngân Hàng Ðông Dương, chĩa mũi dùi khủng bố vào Pháp kiều, dùng bạo lực thủ tiêu cán bộ Việt Minh và tất cả những nhân sĩ, trí thức có cảm tình với đường lối hòa đàm. Thời gian này, De Gaulle vừa từ chức, quyền lực chính trị ở Paris về tay phe tả. D’Argenlieu sợ Chính Phủ Pháp sắp được thành lập có thể hòa hoãn với Việt Minh, vội vã đặt kế hoạch đổ bộ ở Bắc Kỳ, rắp tâm đưa Đông Dương đến tình huống ‘’chuyện đã rồi’’. Đối với D’Argenlieu, lực lượng Việt Minh chẳng đáng kể. Nhưng quân Tưởng thì khác. D'Argenlieu gửi Clarac và Pignon qua Trùng Khánh. Thái độ Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đối với Pháp rất cởi mở. Lo mối họa Cộng Sản, Trùng Khánh thỏa thuận với Pháp về ý đồ thay thế Chính Phủ Liên Hiệp bằng một Chính Phủ quốc gia ở Bắc kỳ, không chống thì ít ra cũng phi Cộng Sản, và sẽ buộc Chính Phủ này phải ký kết tạo điều kiện dễ dàng cho quân Pháp đến thay quân Trung Hoa.
D’Argenlieu lệnh cho Sainteny thăm dò khả năng lập một Chính Phủ Quốc Gia trong hướng chiến thuật này. Sainteny liên lạc với Nguyễn Tường Tam. Ðúng hẹn, Tam đến thẳng phủ Toàn Quyền trên một chiếc Citroen cắm cờ sao trắng, đi theo có Chu Bá Phượng và Nghiêm Kế Tổ, người phụ trách ngoại giao của Quốc Dân Ðảng. Cuộc đối thoại kéo dài ba giờ.
- Chúng tôi gặp các ông với tư cách lãnh đạo Quốc Dân Ðảng, không phải với tư cách thành viên chính phủ!
- Vâng, chúng tôi hiểu. Nhưng chúng tôi tiếp quí vị với tư cách những Ủy viên Cộng Hòa của Ủy ban Liên Bộ Ðông Dương, Pignon đáp, giọng lịch sự. Theo chúng tôi ước đoán, quân đội Trung Hoa sắp rút khỏi Bắc bộ, mong muốn có một Chính Phủ để làm sao quân đội chúng tôi đến thay thế trong những điều kiện thuận lợi...
- Tướng Lư Hán và Tiêu Văn có đề cập đến vấn đề này. Chúng tôi sẽ hợp tác với hai điều kiện. Thứ nhất, sẽ không có Việt Minh trong một Chính Phủ tương lai được sự chấp nhận của Trùng Khánh và Paris. Thứ nhì, vì những diễn biến từ ban đầu, quan điểm của chúng tôi trước quần chúng là chống các ông. Chúng tôi chỉ có thể thay đổi quan điểm này nếu chính phủ Pháp chấp nhận cho Việt Nam một nền độc lập...
Giơ tay lên, Sainteny ngắt, giọng ôn tồn:
- Quí vị đòi hỏi như vậy thì còn hơn cả ông Hồ Chí Minh. Ông ta hiện đã đồng ý chọn một từ ngữ khác, chẳng hạn như tự quản – self government – mà không cứ nhất định là độc lập.
Chu Bá Phượng chen vào:
- Nhưng không như Hồ Chí Minh, chúng tôi sẵn lòng nhân nhượng về thuế vụ, tài chính và thuế khóa...
Pignon quay sang Phượng, giọng trầm trọng:
- Với chúng tôi, cái khó nhất là làm sao có được một Chính Phủ mới có khả năng an dân. Ở Nam bộ, với sự khủng bố của Việt Minh, chúng tôi không làm sao thành lập được bộ máy hành chính ở ngoài thành thị và phải đương đầu với chiến tranh du kích khắp nơi. Về phương diện này, các ông nghĩ thế nào?
Nghiêm Kế Tổ nhìn Pignon, đáp:
- Hiện nay, từ Việt Trì đến Lao Cai là do Quốc Dân Ðảng chúng tôi kiểm soát. Với sự hỗ trợ của đạo quân Quảng Tây, chúng tôi có thể quét Việt Minh ra khỏi Cao - Bắc - Lạng. Chỉ có thế, mới có thể nghĩ đến bình định. Dân chúng ở thôn quê vẫn đói, vẫn khổ và không thấy gì ngoài bọn Ủy Ban hành chính Việt Minh thay thế đám Chánh Tổng, Lý Trưởng. Chẳng khác gì khi trước, họ cũng hạch sách, thậm chí quá khích, đã gây ra những sự bất bình, oán thán. Chúng tôi nghĩ, bình định là một khả năng có thể dễ hơn dự kiến...
Pignon trầm ngâm rồi hỏi thẳng:
- Nhưng hiện nay, lực lượng các ông có đủ sức làm việc ấy ở Bắc bộ không? Ngay tại Hà Nội, Quốc Dân Ðảng có khả năng cáng đáng trách vụ một Chính Phủ lâm thời không?
Tam ngần ngừ, song ngửng lên, quả quyết:
- Sẽ đủ. Chúng tôi lẽ liên minh với Ðại Việt. Và những thành viên của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất...
- Nhưng cho đến giờ phút này, Hồ Chí Minh là người có uy tín và Việt Minh được quần chúng ủng hộ. Các ông làm thế nào để thay họ trước mặt đồng bào các ông?
- Chúng tôi tiếp tục tố cáo Hồ Chí Minh phản bội nếu đi thỏa hiệp với các ông mà không giành được độc lập. Mặt khác, chúng tôi sẽ cướp lại được chính danh nếu chính phủ Pháp sau đó trao trả nền độc lập cho Chính Phủ do chúng tôi lập ra. Nếu ta thật tâm với nhau, vấn đề chỉ là một sự phối hợp nhịp nhàng, thế thôi.
Sainteny nhìn ba người đối thoại, trầm giọng ướm thử:
- Các ông sẵn sàng tiến hành một khế ước bất thành văn?
Nhìn họ gật đầu, Sainteny ngạc nhiên. Việc quan trọng đến thế mà những người này dám chấp nhận loại thỏa hiệp bất thành văn? Đánh giá bản lãnh chính trị của những người trước mặt, Sainteny không mấy hăng hái, quay sang Pignon, nói nhỏ:
- Vậy phiền ông, ông xem khả năng tiếp tục làm việc với những người bạn ta đây. Tay đưa về phía Tam, Phượng và Tổ, Sainteny tiếp, giọng ngoại giao - hy vọng là chúng ta cùng nhau làm sao để quân đội Pháp trở lại Ðông Dương mà không cần đổ máu!
Pignon báo cáo ngay cho D'Argenlieu về cuộc gặp Quốc Dân Ðảng. Viên Cao Ủy kết luận, một chính phủ gồm toàn phần tử Quốc Gia Hán hóa, cực đoan còn hơn Việt Minh trong vấn đề Độc Lập, là chuyện không thể chấp nhận được. Vả lại, họ ít khả năng, không thể đấu tranh chính trị với Hồ Chí Minh, và không có thực lực gì ngoài sự ủng hộ của quân Tưởng. D'Argenlieu quyết định tìm cách ký kết nhanh với Trung Hoa Dân Quốc và gỡ rối vấn đề chính trị với Chính Phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo bằng một thỏa hiệp sơ bộ. Ông ta về Paris, trao quyền Cao ủy cho Leclerc. Vị tướng này xưa đã nhanh chóng đánh tan lực lượng Việt Minh non trẻ ở Nam bộ, và đến tháng 1-1946 thì đã bình định nam Trung bộ và một phần Tây Nguyên.
Tướng Leclerc gọi Salan, hiện là Tư lệnh quân đội Pháp tại Bắc bộ, từ Trùng Khánh bay về Hà Nội để cùng Sainteny và Pignon xúc tiến những thỏa hiệp cho phép quân Pháp tránh được đụng chạm quân sự khi trở lại miền Bắc. Salan đến gặp Lư Hán, thông báo quân Pháp có kế hoạch đổ bộ vào đầu tháng 3. Sau đó, Salan thăm Hồ Chí Minh dịp Tết, khẩn khoản:
- Thưa ngài, thật tôi sẽ vinh dự vô cùng nếu như ngài cho phép quân Pháp đổ bộ yên ổn rồi thiết lập lại an ninh ở đây.
Ông Cụ nhìn thẳng vào mắt Salan, giọng khoan hòa:
- Chỉ làm thế, tôi sẽ trở thành kẻ phản bội Tổ quốc tôi. Người Việt Nam chúng tôi muốn sống tự do.Yêu nước Pháp và kính trọng dân tộc Pháp, nhưng chúng tôi không thể là những người nô lệ. Chữ ‘’độc lập’’ đối với tôi quan trọng ở nội dung của nó.
- Ý ngài, có phải là ngài lo ngại những kẻ chống đối...
- Đúng... Ông Cụ cười - họ chê trách rằng tôi chỉ yêu nước Pháp. Báo chí của họ vẽ hí họa, cho tôi khoác vai một cô đầm... Phần tôi, tôi không thể ngăn cản họ được. Quân Pháp đổ bộ, máu sẽ chảy, kể cả máu của các trẻ em và phụ nữ Pháp đang ở đây. Đó là điều bất hạnh mà tôi muốn tránh. Nhưng làm sao tôi có thể ngăn được phản ứng của những người không muốn xiềng xích trói buộc?
Ngẫm nghĩ, Salan nghiêm trang:
- Thưa ngài, tôi đã tiếp xúc với tướng Lư Hán và biết Trung Hoa sẽ làm theo đúng quyết nghị của Potsdam. Thời gian chúng tôi đổ bộ là đầu tháng 3, tức là còn 3 tuần...
Ông Cụ tái mặt, nhưng chỉ một giây sau, nhếch mép lên cười, lại từ tốn:
- Cám ơn ông đã báo cho biết...Nhưng dù cả thế giới có chống lại, chúng tôi cũng không thể chấp nhận trở thành những người nô lệ. Pháp là đất nước của tự do. Nước Pháp, một nước Pháp mới, hãy để cho chúng tôi chia sẻ cái tự do ấy...
Salan báo cáo cuộc gặp Hồ Chí Minh cho D’Argenlieu và Leclerc, nhấn mạnh sự ủng hộ gần như của toàn dân đối với đường lối của Chính Phủ Liên Hiệp. D’Argenlieu vẫn quả quyết dùng ngoại giao với Trung Hoa và tạo áp lực để Việt Nam hiểu Pháp nhất định trở lại Bắc kỳ. Trước khi lên đường đi Paris, D’Argenlieu dặn, nếu độc lập được hiểu như ‘’làm chủ tại nhà mình, được tự do’’ thì từ ‘’self-government’’ nói lên rất cụ thể điều đó. Nhưng điểm gút, là vấn đề Nam bộ. Pháp không chống trên nguyên tắc việc thống nhất 3 kỳ về mặt lãnh thổ và chính trị, nhưng vẫn nhân danh tự do giành cho Nam kỳ cái quyền nói lên tiếng nói của chính mình khi cần, không để cho chính quyền Hà Nội được phát biểu ý kiến thay cho toàn thể Đông Dương.
Hai ngày sau, Sainteny và Pignon hội đàm với Hồ Chí Minh, công việc tiến triển khá tốt đẹp. Mừng rỡ, Leclerc điện ngay về cho tướng Juin và D'Argenlieu, thông báo Hồ Chí Minh thôi hẳn việc dùng từ ‘’độc lập’’, chấp nhận chữ ‘’self-government’’, thỏa thuận để Việt Nam tham gia Liên Bang Ðông Dương, dường như bỏ ý định về quyền đại diện ở Liên Hiệp Quốc. Riêng đối với vấn đề Nam Kỳ, Việt Minh chấp thuận sẽ để dân chúng tự quyết định lấy lập trường chính trị qua một cuộc Trưng Cầu Dân Ý. Leclerc nhấn mạnh cuộc hội đàm vừa qua phải được giữ bí mật, yêu cầu Paris ra ngay một bản tuyên bố nhằm đi đến giải pháp với những nội dung rõ ràng để Hồ Chí Minh chính thức trả lời.
Nhưng không có gì thực sự bí mật.
Hồ Chí Minh vấp vào một phản ứng mãnh liệt ngay trong nội bộ Tổng Bộ Việt Minh. Một số phần tử cực đoan khuynh tả gây những hành động ly khai, chống đối, cho rằng đàm phán như thế là đầu hàng Pháp. Việt Quốc và Việt Cách tấn công Chính Phủ nay họ gọi là ‘’ chính phủ của những tên phản bội’’. Họ tung truyền đơn, hô hào Tổng đình công và bãi thị, kêu gọi dân chúng chống lại điều khoản của hiệp ước Pháp-Hoa cho quân Pháp vào thay quân Tưởng. Đoàn Thanh Niên Quốc Gia và Tự Vệ bí mật của Quốc Dân đảng ở Hà Nội ngăn không cho nông dân ngoại thành mang hàng hóa vào, leo lên tàu điện khóa máy, đến những công sở cấm mở cửa, vào chợ Ðồng Xuân hô hào bãi thị. Họ trương cờ vàng trên có thêu hai chữ Dân Chúng, hô ‘’ Ðả đảo Việt gian thân Pháp’’, kéo ra Bờ Hồ đi về Tòa Thị Chính. Đến trước cửa nhà cố vấn Vĩnh Thụy ở phố Trần Hưng Ðạo, họ đòi thành lập Chính Phủ mới, cử người vào để bày tỏ nguyện vọng, nhưng Vĩnh Thụy tránh không gặp. Hôm sau Vĩnh Thụy tuyên bố ‘’ không phải một nhóm người muốn ai thì kẻ đó làm Chủ Tịch. Việc bầu Chủ Tịch cho nước Việt Nam là do Quốc Hội dân cử định đoạt.’’
Tình trạng mất an ninh khiến Ông Cụ cũng như nhiều thành viên của Chính Phủ bắt buộc tối tối phải rời chỗ ở đến những cơ sở bí mật. Hôm ấy, thình lình Tạ Đình Đề báo Ông Cụ phải di chuyển ngay. Đã quen, Ông Cụ không hỏi han gì, chỉ quơ vội chiếc máy chữ xách tay cùng mớ tài liệu rồi bước theo. Cùng đám cận vệ, họ lên xe đi về Bưởi. Trầm ngâm, Ông Cụ không nói không rằng, xuống xe rồi đi bộ theo chân Đề vào một khu vườn được canh gác cẩn mật. Lát sau, họ tới trước một căn nhà ẩn dưới những lùm cây rậm rạp, gọi cửa rồi vào. Tự vệ canh gác yêu cầu Đề ở ngoài.
Ông Cụ thấy lố nhố người. Nhìn qua một lượt, Ông Cụ mỉm cười, hỏi: ‘’ họp hay sao mà đông thế, các chú? ’’. Ngoài những người cộng sự trong Chính Phủ như Giáp, Đồng, Giám, Chính... Ông Cụ thấy Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Lê văn Lương, Hà Huy Giáp, Hà Huy Tập...là những thành viên cũa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hình thức tập hợp đảng viên Đảng Cộng Sản Đông Dương sau khi giải tán. Ông Cụ dí dỏm ‘’... đông thế này thì là Thường Vụ mở rộng rồi. Đoán ra vấn đề, Ông Cụ vẫn tươi cười, tiếp - các chú định bắt tội tôi vì chuyện hoà hoãn đàm phán với Pháp chứ gì? Nào, tôi là bị can, sẽ cãi, nhưng cãi sau. Chú nào thích buộc tội thì cứ lên tiếng đi! ’’.
Có tiếng ho khan. Tiếng dặng hắng. Nhưng chỉ thế. Ông Cụ nhìn một vòng, giọng buồn buồn:
- Các chú không nói, nhưng tôi đọc báo Việt Nam của Quốc Dân đảng là tôi biết đến ba phần tư cáo buộc rồi... Thôi, ta làm thế này: tôi xin giải thích tại sao Chính Phủ phải hòa, vì hòa để tiến, cái đích là độc lập...
Như một nhà giáo, Ông Cụ nhắc ngày còn ở Pắc Bó, Thường Vụ Đảng đã biết rồi người Pháp sẽ tìm cách quay lại Đông Dương. Hiện nay, Anh và Mỹ ủng hộ Pháp trong việc này, vì họ phải giữ đồng minh ở Âu Châu để đối đầu với Liên Xô. Anh-Mỹ sẽ làm áp lực lên Tưởng Giới Thạch đang còn lúng túng với Hồng quân của Mao, và Tưởng nhân cơ hội sẽ trục lợi bằng cách đòi lại Pháp những nhượng địa trước khi chịu cho quân Pháp đến thay thế từ vĩ tuyến 16 trở ra. Trong khi đó, thực dân Pháp trong Ủy ban Liên bộ Đông Dương ở Nam bộ đã lấn chiếm, và đang rắp ranh lập một Chính Phủ tự trị Nam kỳ, ý đồ là chia cắt Việt Nam, chống lại ước vọng thống nhất về mặt chính trị và lãnh thổ của dân tộc...
Mắt nhìn vào khoảng trống trước mặt, Ông Cụ ngưng nói. Lát sau Ông Cụ mới chậm rãi, tiếp:
- Phần chúng ta, chúng phải làm gì? Và với những phương tiện nào? Và sức mạnh của chúng ta ở đâu? Từ quần chúng yêu nước, và với chính sách Mặt Trận đoàn kết toàn dân để giành độc lập... Trước mắt, chúng ta phải đoạt chính danh. Toàn dân từ Nam chí Bắc bầu Quốc Hội, rồi Quốc Hội đề cử một Chính Phủ do dân, tức là ta có chính danh...Danh chính ngôn thuận, Chính Phủ chúng ta sẽ điều đình với Chính Phủ Pháp, ở cái thế một quốc gia với một quốc gia. Hiện nay, sớm muộn quân Tưởng có thể sẽ rút để quân Pháp vào Bắc bộ. Làm thế nào trước đó ta có chính danh đây? Thời gian lúc này là yếu tố quyết định của phong trào giải phóng đòi độc lập. Mua được thời gian, là làm thế nào xử dụng được mâu thuẫn Pháp-Hoa và giữ chân quân Tưởng bằng cách triệt để khai thác mâu thuẫn giữa Trùng Khánh và đám tướng lĩnh đang đóng quân ở miền Bắc.
Một người đứng dậy, tay đưa ra phía trước như yêu cầu Ông Cụ để mình nói.
- Tôi là Hà Huy Tập. Xin hỏi... Hoà đàm rồi thỏa hiệp với Thực dân Pháp thì một mặt, độc lập không giành được. Mặt khác, sau đó làm sao có thể xây dựng một xã hội người Cộng Sản chúng ta coi như mục tiêu, tức là một xã hội do công-nông chuyên chính?
- Thế tôi xin hỏi ngược lại, ta không thỏa hiệp, bị quân ngoại xâm đánh đuổi phải rút lên Việt Bắc. Ta lập chiến khu rồi phục hồi đảng Cộng Sản Đông Dương, tái sinh ra một Xô Viết Nghệ Tĩnh mới... thì liệu ta có xây dựng được một xã hội công-nông chuyên chính cho đất nước Việt Nam ta không?
Chợt Ông Cụ gãi đầu:
- À, à... tôi nhớ ra chú rồi, hồi chú đi học trường Phương Đông ở Moscova ấy mà. Có cái tin này, nhắc chú và tất cả, là các đồng chí Liên Xô có bí mật đến thăm chúng ta ở Hà Nội và cho biết bên Pháp đang có nhiều biến động chính trị. Trong tình hình này, khả năng đảng Cộng Sản Pháp trở thành chính đảng số một, liên minh với đảng Xã Hội phe tả để nắm chính quyền là khá lớn... Đấy, hoà đàm bây giờ, biết đâu ta lại chẳng thỏa hiệp với một Chính Phủ tiến bộ của Pháp trong tương lai! Các chú Giáp, Đồng, Giám... Ông Cụ cười, giọng hài hước - các chú làm chứng cho tôi là tôi không bịa nhé...
Tiếng cười đồng thanh cất lên trong căn nhà. Không khí dịu xuống, Ông Cụ từ tốn:
- Thôi, các chú về nghỉ, đêm khuya rồi. Các chú phải lấy sức để ngày mai đối phó với cái tình thế bấp bênh này. Chứ các chú mà ‘’đảo chính’’ lúc này thì các chú làm cả nước cười, và những kẻ cười sau cùng là bọn Thực dân Pháp đấy...
Bước ra, Ông Cụ vẫy Giáp và Chính đi theo. Khi đó Tạ Đình Đề đến gần, khẽ nói:
- Chúng tôi bị Tự vệ ở đây tước khí giới ngay sau khi Chủ Tịch vào họp. Đề thở ra - Chỉ khi nghe tiếng mọi người cười tôi mới yên tâm được phần nào!
Ông Cụ nhẹ nhàng vỗ vai Đề, không đáp. Quay sang Chính và Giáp, Ông Cụ thì thào:
- ... phải giữ chuyện này trong nội bộ. Sợ nhất không phải sợ kẻ thù vì lúc nào ta cũng đoán ít nhiều được họ định tâm làm gì. Sợ nhất, là sợ những đồng chí đầu đóng khung trong những khái niệm cứng ngắc đến độ mất hết khả năng suy đoán hiện thực, lại hăng tiết vịt...
Sau khi củng cố nội bộ và yên tâm không bị quân Trung Hoa Dân Quốc tiêu diệt, Hồ Chí Minh liền tiến hành một cuộc thương lượng với Sainteny. Thời gian đó, Leclerc phát động chiến dịch H, tức là cuộc đổ bộ vào Bắc Ðông Dương. Ngày mồng 4 tháng 3, Leclerc đã ở ngoài khơi Hải Phòng, nhưng chỉ huy quân Tưởng tại các địa phương vẫn chưa có lệnh. Phía Bộ Tham Mưu quân Trung Hoa Dân Quốc, họ viện lý không thể để quân Pháp đổ bộ khi Pháp chưa có thoả hiệp nào với Việt Nam. Trưa ngày mồng 5 tháng 3, chỉ huy quân Tưởng ở Hải Phòng báo là họ sẽ ngăn chận không cho hải quân Pháp vào cảng. Leclerc vẫn ra lệnh cho hạm đội Pháp vào Hải Phòng, vấp phải lưới lửa của những đơn vị Trung Hoa, gây nên một tình trạng cực kỳ căng thẳng. Trong tình thế này, mọi phía đều trông chờ một thỏa hiệp Việt-Pháp hầu gỡ ngòi nổ giữa hai đạo quân vừa mới đụng độ.
Hồ Chí Minh đánh những lá bài cuối, lợi dụng triệt để khó khăn Pháp – Hoa và những mâu thuẫn giữa đám Tham Mưu quân Tưởng với Trùng Khánh trong cuộc đàm phán với Pháp. Trước căng thẳng quân sự giữa Trung Hoa và Pháp có nguy cơ dẫn đến những đụng độ trước mắt, Pháp buộc phải chấp nhận ký kết với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Tường Tam thoái thác không ký. Nguyễn Hải Thần thấy vậy, làm theo. Ông Hồ đích thân nói với Vũ Hồng Khanh ‘’...chữ ký nhân danh một dân tộc, một quốc gia, chứ không chỉ một đảng. Không ai ký với tôi thì tôi đành ký một mình, cũng chẳng sao!’’.
Chiều ngày mồng 6 tháng 3, trước mặt các đại diện của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc, Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh đã ký với Sainteny một ‘’Hiệp Ðịnh Sơ Bộ’’, trong đó chính phủ Pháp
- Thừa nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là một quốc gia tự do có chính phủ riêng, quốc hội riêng, quân đội riêng và tài chính riêng nằm trong Liên Bang Ðông Dương và Liên Hiệp Pháp.
- Cam kết công nhận quyết định của dân chúng qua cuộc trưng cầu dân ý về việc thống nhất ba kỳ.
Bản thỏa thuận phụ, do Sainteny, Salan và Võ Nguyên Giáp đồng ký tên, chỉ rõ lực lượng thay thế quân Trung Hoa Dân Quốc gồm:
- Mười nghìn quân Việt Nam với chỉ huy Việt Nam, và trực thuộc các cơ quan quân sự Việt Nam.
- Mười lăm nghìn quân Pháp, kể cả lực lương Pháp có sẵn phía Bắc vĩ tuyến 16, trừ những đội quân có trách nhiệm canh giữ tù binh Nhật, và chỉ bao gồm những người Pháp gốc chính quốc. Lực lượng này được đặt dưới quyền chỉ huy tối cao của Pháp, có trợ lý Việt Nam...
- Lực lượng Pháp dùng để canh giữ tù binh Nhật sẽ hồi hương, chậm nhất là trong mười tháng.
- Lực lượng Pháp còn lại sẽ được quân đội Việt Nam thay thế mỗi năm 1/5, trong vòng năm năm.
Hiệp Định Sơ Bộ nổ như một quả bom. Dân Hà Nội sửng sốt. Cả Liên Bang Đông Dương lẫn Liên Hiệp Pháp đều chưa có qui chế, không một ai biết là gì! Chính Phủ Liên Hiệp phiêu lưu với một điều khoản mù mờ, hy sinh hai chữ Độc Lập thiêng liêng đã nêu ra như mục đích đấu tranh từ ban đầu.Việt Quốc và Việt Cách lập tức tố cáo Việt Minh phản bội dâng nộp đất nước cho kẻ địch. Một cuộc mít-tinh khổng lồ được tổ chức ngày mồng 7 tháng 3. Giáp tuyên bố:
‘’ Pháp thừa nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là một nước tự do. Tự do không phải là tự trị, mà hơn tự trị, nhưng chưa phải là độc lập. Một khi đạt được tự do rồi, chúng ta sẽ đi đến độc lập, hoàn toàn độc lập... Pháp muốn giữ Nam bộ. Nhưng Chính Phủ đã tuyên bố sắt đá, nếu chia cắt Nam bộ, Trung bộ và Bắc bộ thì chúng tôi sẽ quyết chiến đến cùng... Họ phải chấp nhận trưng cầu dân ý... Kết quả thế nào chúng ta biết trước....Chúng ta đã chọn con đường thương lượng nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn... Tư tưởng chủ đạo, mục đích của Chính Phủ là hoà bình và tiến bộ. Con đường mở ra với hiệp định là con đường dẫn chúng ta đến độc lập trong một ngày gần đây, thật sự và hoàn toàn. Ðó là mục đích của chúng ta.’’
Sau khi Giáp nói, đến lượt Vũ Hồng Khanh. Và cuối cùng là Hồ Chí Minh. Biển người chao qua chao lại, cơn sóng ngầm trong lòng những kẻ đang ngước mắt nhìn lên khán đài chỉ chực vỡ ra, vỗ vào bờ, có thể cuốn đi vài ba chữ ký trên hai văn bản chưa ráo mực. Những giây phút này, lịch sử nhón chân bước tới trên cái chông chênh giữa tình và lý, giữa được và thua, giữa còn và mất. Ông Cụ nói, vẫn dễ hiểu, vẫn ngắn, vẫn gọn. Nhưng Ông Cụ có cảm giác những lời nói của mình rơi tuột xuống vực. Phải níu bắt lại. Biển người im lặng. Ðể chờ. Chờ gì? Râu rung lên trong cơn gió đông quét ngang, Ông Cụ mím môi, cổ nghẹn lại. Biển dưới kia. Nhảy xuống, thành một giọt nước. Và nói lời nói từ lòng biển cả. Chỉ có những tiếng nói từ lòng mới cứu vãn được sự sụp đổ của cái thế giới tính toán xảo trá đang chao đảo vì quyền lực. Thôi thúc không thể cưỡng được bật ra thành lời:
‘’...Tôi, Hồ Chí Minh, tôi vẫn luôn cùng đồng bào đi trên con đường tự do, đã suốt một đời đấu tranh cho độc lập của Tổ Quốc chúng ta. Đồng bào biết rằng tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước. Tôi thề, tôi thề với đồng bào rằng tôi đã không phản bội đồng bào ‘’.
Bộ Trưởng Bộ Hải Ngoại của Pháp là Moutet gặp đại diện của Tưởng Giới Thạch trong một buổi họp của Liên Hiệp Quốc và đề nghị thương lượng. Hai con mèo đã vờn nhau, bất chấp chuột Việt Nam chạy đâu cũng bị kẹp vào hai lần móng vuốt. Cuộc mặc cả ngã giá: Pháp trả lại Trung Hoa Dân Quốc các tô giới ở Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu... và bán lại đường sắt Vân Nam. Không đếm xỉa đến chủ quyền Việt Nam, Pháp thỏa thuận cho hàng hóa Trung Hoa miễn thuế khi chuyển qua cảng Hải Phòng. Ngược lại, Trùng Khánh đồng ý để quân Pháp thay thế quân Trung Hoa. Ðó là nội dung thỏa hiệp Hoa - Pháp ký ngày 28 tháng 2.
Valluy thay mặt Leclerc đến báo cáo D’Argenlieu về Hiệp Định Sơ Bộ. Viên Cao Ủy bực tức với cam kết của Pháp cho một cuộc trưng cầu dân ý về thống nhất ba kỳ, mỉa mai ‘’...có một đội quân như vậy mà vị tướng chỉ huy có tiếng là anh hùng giải phóng Paris chỉ biết có điều đình!’’. Ủy viên Cộng Hòa Cédile tại Nam bộ tuyên bố ngay với báo chí rằng Hiệp Ðịnh Sơ Bộ chỉ có tính địa phương giữa nhà cầm quyền Hà Nội và Sainteny tại Bắc bộ, không dính dáng ràng buộc gì Nam bộ. Sau đó, D'Argenlieu tức tốc tuyên bố sẽ thành lập một Chính Phủ Nam kỳ tự trị, đi ngược lại những điều được ký kết.
Hồ Chí Minh gửi thông điệp phản đối và yêu cầu Pháp mở cuộc đàm phán chính thức. Hà Nội lại mít-tinh, dân chúng rầm rập ra đường hô vang ‘’ Ủng hộ Hồ Chủ Tịch’’ và ‘’ Nam bộ là đất Việt Nam’’. Trong thời gian tạm hòa hoãn, Chính Phủ nêu khẩu hiệu kiến quốc, diệt giặc đói và giặc dốt, ban hành sắc lệnh giảm tô 25% và thúc đẩy việc dạy học và viết cho đồng bào. Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là vấn đề kiện toàn tổ chức quân sự. Ở Hà Nội, trường cán bộ Tự vệ Hồ Chí Minh mở khóa II. Tháng ba, khai giảng trường Quân Chính Bắc Sơn, sau đó, trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây, rồi trường Lục Quân Quảng Ngãi. Hồ Chí Minh lên Sơn Tây đọc huấn thị cho học viên, nhấn mạnh: ‘’ Trung với nước, hiếu với dân’’ là một bổn phận thiêng liêng của người chiến sĩ cách mạng...’’.
Ngày 18 tháng 3, một nghìn hai trăm lính Pháp cùng hai trăm chiến xa vào Hà Nội. Leclerc và Giáp đi trước đoàn Vệ Quốc quân trang phục chĩnh tề, khí giới sáng choang, bồng súng chào trong tiếng Tiến quân ca và tiếng hò reo cũa những người Pháp cư ngụ tại Thủ Đô. Leclerc đến viếng Hồ Chủ Tịch ở Bắc bộ phủ. Ông Cụ ra ngoài đón, đưa tay bắt, miệng cười. Leclerc vui vẻ: ‘’ Thế là chúng ta đã thỏa thuận được với nhau, thưa ngài Chủ Tịch’’.
- Vâng...Nhưng xin ngài đại tướng lưu ý, còn có những kẻ muốn phá hoại thỏa hiệp lịch sử này, ký kết chưa kịp ráo mực thì đã tìm cách lập Chính Phủ Nam kỳ tự trị. Việc gấp rút, theo tôi, là trên cơ sở Hiệp định Sơ bộ, chúng ta sẽ chính thức tiến đến một Thỏa Hìệp dứt điểm giữa Chính Phủ Pháp và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tôi đề nghị nơi đàm phán chính thức là Paris, và tôi xin đích thân sang Pháp để đáp lại thịnh tình một dân tộc tôi hằng ngưỡng mộ.
- Dĩ nhiên, thưa ngài... Về chuyện ngài đi Paris, đó là một hân hạnh cho nước Pháp, và tôi xin hết lòng ủng hộ.
Leclerc cho cắm cờ hai nước trên quân xa, cùng Giáp đến đặt những vòng hoa tưởng niệm cho những chiến sĩ tử trận cả Pháp lẫn Việt. Mấy ngày sau, Leclerc rời Hà Nội, trao quyền chỉ huy cho tướng Valluy, một quân nhân trung thành với đường lối cũa D’Argenlieu. Vài ngày sau, Valluy cho một phân đội xông vào chiếm sở Tài Chính, hạ cờ đỏ sao vàng xuống. Chính phủ kêu gọi toàn dân phản ứng trước sự ngang ngược của Pháp. Trên miền Bắc, lại bãi thị, đình công. Khẩu hiệu là bất hợp tác với Pháp. Cuối cùng, Pháp nhượng bộ. Cờ Việt Nam được kéo lên. Một Ủy Ban liên lạc và kiểm soát Việt - Pháp, gọi là Ủy Ban liên kiểm được thành lập để điều hành việc thi hành Hiệp Ðịnh Sơ Bộ. Ở Nam bộ, sau khi điều Sư đoàn 9 và Binh đoàn Thiết Giáp ra Bắc, Pháp chỉ còn Sư đoàn bộ binh thuộc địa, lực lượng khá mỏng vì phân tán, lùi dần khỏi những địa bàn tưởng đã kiểm soát được. Phong trào chính trị ở Sài Gòn lên rất cao, dân chúng biểu tình phản đối hành động phá hoại Hiệp Ðịnh Sơ Bộ của Pháp, vạch mặt đề án ‘’ đòi tự trị’’ của miền Nam như trò giật dây của Thực dân.
Hồ Chí Minh phái Chính bí mật liên lạc với một số Sư Trưởng những sư đoàn quân Tưởng đóng ở ven đô Hà Nội. Cuộc điều đình ngã giá dễ dàng, kết quả là ở miền Bắc, quân Tưởng lần lữa không chịu rút đi. Ðã có những va chạm đổ máu với quân Pháp. Việt Quốc tổ chức bắt cóc và thủ tiêu lính Pháp, mong đẩy tình thế bấp bênh vào một cuộc xung đột toàn diện. Súng nổ ở Bờ Hồ, phố Hàng Da, Cột Cờ... lắm khi kéo dài hàng ngày, quân Tưởng và quân Pháp đều có thương vong. Trong tình thế rối ren đó, chính phủ Việt Nam khôn khéo đứng ngoài, hết sức tránh tiếng phá hoại Hiệp Ðịnh.
D’Argenlieu đề nghị một cuộc gặp cấp cao. Ngày 24 tháng 3, Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám và Nguyễn Tường Tam ra vịnh Hạ Long gặp D'Argenlieu, Leclerc, Sainteny và Salan. Viên Cao Ủy, kẻ tu xuất tự xưng là ‘’ người của im lặng và khổ hạnh’’, nhấn mạnh mình mới đại diện nước Pháp chứ không phải tướng Leclerc. Cùng Hồ Chí Minh, D'Argenlieu duyệt hạm đội đứng sắp hàng trên mặt biển, súng nghếch nòng lên trời xanh nhả đạn chào mừng.
Sau, là cuộc trao đổi ý kiến. D'Argenlieu không để Leclerc tham dự, chỉ làm việc với một mình Hồ Chí Minh. Ông ta nói với Leclerc ; ‘’ làm thế là để tránh cho ông khỏi phải chịu những ràng buộc với Chính Phủ Hà Nội!’’. Viên tướng này nổi giận, chửi ‘’ Merde!’’ và hầm hầm to tiếng bảo ràng buộc là ràng buộc với cả Chính Phủ Gouin ở Paris đã chuẩn y Hiệp Định Sơ Bộ.
Khi chỉ có một mình Hồ Chí Minh, D’Argenlieu phàn nàn về việc người Nam kỳ không chấp nhận Chính Phủ Hà Nội cho nên rất khó thực hiện việc trưng cầu dân ý trên vấn đề thống nhất lãnh thổ. Hồ Chí Minh đáp:
- Cái ngài gọi tên là Chính Phủ Hà Nội có phải là Chính Phủ đề cử bởi Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do dân 3 miền Trung - Nam - Bắc bầu ra không?
Hồ Chí Minh đòi mở ngay cuộc đàm phán chính thức tại Paris trong khi viên Cao Ủy muốn trì hoãn, đề nghị một cuộc họp trù bị tại Ðà Lạt. Để đạt yêu cầu này, D’Argenlieu tỏ ý mong muốn mời một phái đoàn Quốc Hội Việt Nam sang thăm viếng thân hữu Quốc Hội Pháp. Hồ Chí Minh cuối cùng đồng ý với cuộc họp trù bị, với hai điều kiện. Thứ nhất, phái đoàn Pháp phải do chính phủ Pháp đề cử chứ không phải do Ủy Ban Liên Bộ Ðông Dương ở Sài Gòn chỉ định. Thứ hai, ngày phái đoàn Việt Nam qua Pháp mở cuộc đàm phán chính thức ở Paris phải được ấn định.
Ðó là hiệp một của cuộc đấu giữa một ông thầy tu xuất và một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Salan, người đưa đón Hồ Chí Minh, đang ngồi trên boong tầu