← Quay lại trang sách

8 - Bên lũy hoa

Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.

Khẩu hiệu ở đầu cửa miệng của tự vệ, khắp nơi. Vệ Quốc quân được điều động vào Hà Nội, sao vuông gắn mũ, thấp thoáng xuất hiện trên những nút chặn địch và những tầng nhà kiên cố. Trên đường phố Thủ Ðô, chiến lũy mọc lên. Lũy làm bằng đủ thứ gia dụng, nào sập gụ, tủ chè, giường, bàn ghế và những thân cây chặt thành khúc... Chính phủ hô hào dân chúng tản cư. Ðầu tháng 12 năm 1946, hàng đoàn người vượt cầu Doumer, tay xách nách mang, phần đông là người già và trẻ con. Thanh niên ngượng, có đi cũng đợi lúc tối trời, mượn bóng đêm che những nỗi riêng tư khó lòng bày ra thanh thiên bạch nhật.

Ðể giữ tính cơ động, Ðảng Ủy Mặt Trận Hà Nội ra lệnh đục tường nhà để nhà nọ thông với nhà kia, tạo thành một mạng giao liên có khả năng tránh được hoả lực của Pháp mạnh hơn ta hàng trăm lần. Liên Khu I nằm sát nách địch rộn rã tiếng kìm, tiếng búa. Sân thượng, bao lơn... khắp nơi trở thành những vị trí bắn. Tường, đục ra là lỗ châu mai. Nền nhà, đào lên làm hố chiến đấu.

Chi bộ Phụ Nữ khu Bến Nứa được ủy nhiệm làm công tác vận động quần chúng. Chi, Chúc, Hà... đi với tự vệ chiến đấu, vào từng nhà, xin đục tường, đào nền, xây công sự. Ðám tự vệ lần này có Thoại, lém lỉnh, ở đâu như Hưng Yên mới được điều lên. Gõ cửa một căn nhà gắn bảng hiệu Bảo Quốc trên phố Hàng Thiếc, người vừa ra mở cửa đã mắng xa xả:

- Này, tôi bảo cho các anh chị biết, nhà này là nhà bố mẹ tôi để lại. Không đào, đục, khoét, xới gì cả... Ði ra đi!

Hà dịu dàng:

- Thưa mẹ, mẹ quí nhà quí cửa thì chúng con hiểu. Nhưng cứ thử nghĩ xem, còn mạng người... Cực chẳng đã mới phải làm thế để cứu mạng chiến sĩ. Ðánh nhau rồi thì không mở cửa đục tường cũng chẳng được. Bom đạn nó có chừa nhà của mẹ ra đâu!

- Tôi không mẹ con gì với nhà cô! Tôi nói thật, cứ đụng vào nhà tôi là tôi đập đầu vào tường đến chết cho mà xem!

Ðang dùng dằng, có tiếng dép lẹt xẹt. Một người đàn ông đứng tuổi nhô ra, mặt cau có:

- Này, hai ngày trước đã có người đến đòi đục tường. Thử hỏi, nhà nọ thông thống với nhà kia, cụ Hồ có đến đây mà giữ của cải vốn liếng cho tôi được không? Ðây này - tay chỉ, người đàn ông cao giọng - nhà này làm xẻng, làm cuốc, vốn liếng ở đây cả. Sểnh ra một cái, là trộm, là cướp. Tôi đếm cuốc xẻng được ba trăm cái. Mua đi, tôi bán hết. Lúc đó hãy nói đến chuyện đục tường!

Chi lên tiếng, nhỏ nhẹ:

- Cháu đại diện cho các anh chị ở đây, xin thưa với ông chúng cháu làm gì có tiền để mua.

- Thế thì thôi. C’est fini! Tôi bảo cho mà biết, con tôi có độc một đứa, đang ở trong tự vệ khu Hàng Ðậu. Gia đình này thế là có cống hiến rồi. Mời các anh chị đi đi!

Chưa kịp làm gì, người đàn ông quàng tay ra sau. Lùi lại, ông nhăm nhăm khẩu súng săn hai nòng, quát:

- Có ra không thì bảo!

Lúc ấy, Thoại tiến lên đứng trước mũi súng, điềm tĩnh:

- Xin ông bớt giận! Chúng cháu đến làm nhiệm vụ. Xung quanh đây, đâu cũng đồng ý để đục tường. Lúc này, Chính Phủ không thể đảm bảo cho dân chúng về chuyện trộm cắp. Thưa ông bà, đến cả nước mình mà có kẻ đến cướp, thì chuyện trộm vặt là chuyện nhỏ...

Người đàn ông lên đạn, tiếng qui-lát kéo nghe lách cách. Ông ta sầm mặt:

- Chuyện nhỏ nhưng là chuyện của tôi. Của đau, con xót. Còn chuyện lớn, tôi xin nhường cho cụ Hồ của các anh các chị. Nào, có ra không nào?

Chi đưa mắt. Cả bọn rút ra ngoài. Chúc bực bội:

- Thật ra ngõ gặp gái. Thôi, đi tìm cái anh con ở Hàng Ðậu hỏi xem là ai? Rồi nhờ anh ấy vận động bố mẹ cho đúng chính sách!

Thoại xuỵt xoạt:

- Nghe có ba trăm cái xẻng cái cuốc mà thèm...

Trên hàng phố, cả bọn ngừng lại nhìn một đoàn thiếu nhi tầm mười ba, mười bốn đi ắc ê, tay đánh trống ếch, miệng hát:

-...Ði là đi chiến đấu

Ði là đi chiến thắng

Ði là mang mối thù thiên thu

Thình lình, một bà quần áo xộc xệch xô ra, chạy đến nắm lấy một đứa, thét:

- Thằng khốn! Mẹ mày đi tìm mày nửa ngày rồi, chiến đấu với lại chẳng chiến thắng! Cả nhà chờ mày đi tản cư đây!

Thằng bé giằng tay ra, van lơn:

- Mợ cho con ở lại! Con đã ‘’ thề sống chết với thủ đô’’ rồi!

Mẹ nó vẫn nắm chặt, miệng kêu:

- Cụ Hồ ơi! Làng nước ơi! Bảo nó hộ tôi, con dại cái mang. Quay lại, bà mẹ tát con, van vỉ - tao lạy mày, con ơi! Ði về... đi với mợ!

Bọn trẻ con ngừng bước, im lặng nhìn. Người lớn bu xung quanh, không biết nói gì. Thằng bé tiếp tục, giọng khẩn cầu:

- Mợ đi cứ đi! Con ở lại, con lớn rồi. Nó lại nhắc một khẩu hiệu kẻ trên tường nhà - con ‘’ thà chết không làm nô lệ!’’

Thoắt một cái, nó giật tay ra rồi chạy biến vào một cái ngách cạnh đường. Người đàn bà phục xuống, gào khóc:

- Con ơi là con ơi!

Lát sau, tiếng trống ếch lại nổi lên át đi tiếng khóc.

*

Ðảng Ủy Mặt Trận Hà Nội được Thường Vụ triệu tập họp. Sau khi xem xét bức thông tri mật của Valluy bắt được ở Hải Phòng và biết Pháp có kế hoạch ‘’đảo chính’’, cuộc chạy nước rút để ‘’phản đảo chính’’ đã bắt đầu. Chỉ huy trưởng chiến khu Hà Nội nay là Vương Thừa Vũ. Trần Ðộ được giao làm Chính Ủy. Hiện Pháp có sáu nghìn năm trăm lính, gồm một trung đoàn bộ binh, một trung đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn pháo binh, và những bộ phận lính dù, lính lê dương xưa bị Nhật bắt cầm tù. Ngoài ra, Pháp còn trang bị vũ khí nhẹ cho Pháp kiều, khoảng gần tám nghìn người. Phần Việt Nam, lực lượng có năm tiểu đoàn Vệ Quốc gồm hai nghìn năm trăm người, Tự Vệ có tám nghìn người. Trên toàn mặt trận, ta có khoảng hơn hai nghìn súng, hầu hết là súng trường, đa số là súng khai hậu Trung Hoa. Ðạn rất ít, và trung bình, cứ hai chiến sĩ mới có một quả lựu đạn. Quân Pháp tập trung trong nội thành, nhà thương Ðồn Thủy, trường Bưởi và sân bay Gia Lâm. Với lực lượng cơ động xe tăng và xe bọc thép, Pháp có thể nhanh chóng bít lối ra vào Hà Nội, cắt thành phố thành nhiều khu vực nhỏ để tiêu diệt lần hồi. Về phần ta, một lực lượng lớn đóng ở Bắc Bộ phủ, một ở trại Vệ Quốc đoàn, còn lại thì phân tán bảo vệ các cơ quan nhà nước, công xưởng. Lực lượng Tự Vệ có mặt khắp nơi, thông thạo đường đi lối lại, nhưng vũ khí là vũ khí tự mua sắm hoặc chế tạo, dao găm, mã tấu nhiều, súng rất ít, đôi khi hàng chục người mới có một khẩu với chục viên đạn.

Trần Quốc Hoàn, Ủy viên Trung Ương có nhiệm vụ theo dõi mặt trận Hà Nội, đặt vấn đề:

- Giả như bọn Pháp cố ý để thất lạc cái thông tin mật, vừa một mặt dọa cho ta nhượng bộ, mặt khác đẩy không khí khẩn trương để khiêu khích khiến ta nóng vội manh động, tạo cơ hội cho chúng có cớ tiến đánh ta thì sao?

Vũ đáp, giọng như sắp mất kiên nhẫn:

- Ta nhượng bộ đến thế là đường cùng, còn làm gì khác được! Còn cái cớ để tiến đánh, thì chuyện Hải Phòng sờ sờ ra đấy, có cần gì cái cớ nào đâu? Chiến tranh là vấn đề tương quan lực lượng. Nếu lực lượng tương xứng, có muốn cũng phải tính toán, đánh được mới đánh! Ngược lại, nếu quá chệnh lệch, chúng mạnh thì chắc chắn là rồi chúng cũng sẽ đánh ta.

Võ Nguyên Giáp phổ biến nghị quyết của Thường Vụ, nhấn mạnh cố giữ gìn lực lượng, chủ động rút khi cần để tiến hành một cuộc kháng chiến lâu dài. Giáp nhắc đi nhắc lại:

-...sử dụng lực lượng nhỏ, triệt để lợi dụng địa hình địa vật, gây tổn thất cho địch bằng những thắng lợi nhỏ, tránh tung lực lượng vào những trận quyết chiến lớn!

Lê Quang Ðạo từ Hải Phòng về trình bầy lại kinh nghiệm cầm chân quân Pháp cả một ngày tại Nhà Hát Lớn với chỉ hai tiểu đội. Giáp đề nghị vòng đai phòng thủ những nơi như Bắc Bộ phủ, Toà Thị Chính, Bưu Ðiện và Trại Bảo An Binh... có thể kết hợp thành một khu vực chiến đấu liên hoàn với Liên Khu I. Đây là nơi nhiều ngõ ngách, thuận lợi cho việc đắp lũy, đào hào, khả năng hạn chế địch từ trung tâm đánh ra, làm điểm tiếp giáp để bộ đội rút khỏi Hà Nội khi có lệnh. Vương Thừa Vũ trình bày kế hoạch trong đánh ngoài vây:

-...kế hoạch này, tôi gọi là ‘’trùng độc chiến’’. Liên Khu I là khu vực cố thủ bên trong thành phố. Ngày đầu nổ súng, năm tiểu đoàn Vệ Quốc sẽ phá những cơ sở vật chất như Nhà Máy Ðiện, Nước, Kho Xăng, cầu Doumer, sân bay Gia Lâm, và tập trung bảo vệ Bắc Bộ Phủ, nhà Bưu Ðiện... Một tiểu đoàn sau đó rút về Liên Khu I cố thủ, lực lượng còn lại và tự vệ Liên Khu II và III giãn ra các cửa ô, dựa vào chiến lũy, giữ vị trí để thường xuyên đột kích yểm trợ Liên Khu I và ngăn quân Pháp tiến ra ngoại thành.

Vũ vừa dứt lời, một cuộc tranh luận nổ ra. Vấn đề là làm thế nào Trung Ương có thể nhanh chóng can thiệp vào diễn biến khi có khả năng ngưng chiến để lập lại hoà bình. Trần Quốc Hoàn, giọng nước đôi, nói:

- Tôi thì tôi theo Ông Cụ, và biết Ông Cụ chỉ mong hoà bình. Trong cuộc họp này, không ai nhắc đến hòa bình, tất cả xoay quanh chiến tranh...

Vương Thừa Vũ bực bội:

- Muốn có khả năng hòa bình, phải sửa soạn chiến tranh. Sửa soạn ứng phó, không có nghĩa là tiến hành chiến tranh!

- Vừa đây, Ông Cụ lại đánh điện cho chính phủ Leon Blum mới thành lập ở Paris, vẫn yêu cầu hai bên nghiêm chỉnh thực hiện Tạm Ước ngày 14-09. Còn Blum, hắn tuyên bố là sẽ thoả hiệp...

Giáp nhăn mặt, hỏi:

- Ðồng chí mà chắc là Blum thỏa hiệp thì chúng tôi sẽ ngừng tổ chức kháng chiến ngay! Đồng chí có chắc không?

Hoàn không đáp. Vũ cắn răng, quai hàm bạch ra nhưng cũng không kìm được một câu văng tục. Cuộc họp kết thúc. Vũ xin Thường Vụ phân công để Chính trách nhiệm toàn bộ hậu cần cho Chiến Khu Hà Nội, lo cung ứng thuốc men, lương thực. Khi ra khỏi Bắc bộ phủ, Vũ nhìn Hoàn đang vừa đi vừa nhìn lại đằng sau, buột miệng:

- Tiên sư cái thằng Cảnh con...

Chính cười tủm, nhìn Vũ như trêu. Vũ tiếp:

- Anh thì còn lạ gì nó! Không phải anh là người đòi mua chì nó đánh cắp được trong nhà in mà nó không bán à?

- Dân Ngũ Xã lúc đó trả sáu đồng một kí-lô để mua về đổ chảo gang. Còn phía ta, anh Trường Chinh chỉ cho trả năm đồng một kí-lô, mua về in báo Ðảng phát không nên nó không bán là phải!

Vũ bật cười, hồn nhiên:

- Lúc này ai cũng tíu tít lo, Cảnh con thì cứ làm sao có ‘’ lời ăn tiếng nói’’ của Trung Ương, nghĩa là của cái ông Ủy viên Trần Quốc Hoàn... Chán thật! Giá anh Giáp anh ấy không nói ngay, thì chắc còn cãi nhau cho đến khi Tây nó đánh mới thôi!

Ðợi Trần Ðộ đến, ba người cùng leo lên một chiếc xe jeep có cắm cờ. Khi xe chạy đến Bờ Hồ, có tiếng reo hò khắp nơi. Theo lệnh Ủy Ban Kháng Chiến Hà Nội, một đại đội Vệ Quốc diễu hành. Mũ ca-lô gắn sao vuông, binh phục xanh rêu, súng trên vai, họ đi giày săng-đá, nện chân cồm cộp. Dân chúng đổ xô ra. Tiếng hô ‘’ Việt Nam muôn năm’’. Rồi ‘’ Thà chết vinh hơn sống nhục’’. Một chập sau, có người kêu, Rùa thần đã lên trả kiếm. Thế là dân ùa ra đứng quanh hồ, mắt nhướng lên chờ đợi. Không hiểu ai đó đã treo ngay trên đỉnh tháp một lá cờ đỏ sao vàng đang phần phật bay cao.

*

Hà hớt hải tìm Chúc, quanh quẩn một lát thì gặp Chúc đang công tác quần chúng ở chợ Ðồng Xuân. Kéo tay Chúc, Hà líu lưỡi:

- Có người chờ chị ở trụ sở Ủy Ban...

Hai chị em phóng lên xe đạp. Chúc nhấn lên phía trước, tim đập thình thịch. Mở cửa chạy ùa vào, Chúc chực gọi tên, nhưng kìm lại. Một người tóc cắt ngắn, mặc quân phục Vệ Quốc đứng bật dậy. Chi tiến về phía Chúc, nói nhưng Chúc không nghe thấy gì. Khi chỉ còn hai người, Chúc bật khóc.

Người thanh niên đó là Vĩnh, mới học xong một khóa quân sự hai tháng trên Sơn Tây. Về Hà Nội, dò hỏi mãi Vĩnh mới đến Bến Nứa, chẳng chắc gì tìm ra Chúc. Vĩnh nghẹn ngào:

- Anh... anh ở Sơn Tây về là đi tìm Chúc... Cứ nói quê Hưng Yên thì biết bao nhiêu là người!

Chúc nắm tay Vĩnh:

- Trời! Em đâu có ngờ anh lên Sơn Tây...

- Anh biết em sẽ lên Hà Nội nhưng không thể chờ được!

Hai người dìu nhau ngồi xuống thì đám tự vệ ùa vào. Hà trêu:

- Thế là Ngưu Lang gặp Chức Nữ rồi nhé. Tối nay phải khao

‘’cả làng’’ đấy!

Ðám tự vệ nhao nhao lên. Vĩnh đỏ mặt, lúng túng:

- Tôi phải về đơn vị ngay. Với lại, nhìn Chúc, Vĩnh ngần ngừ - làm gì có tiền mà khao cơ chứ! Bộ đội nghèo lắm!

Hà véo von:

- Các anh nghèo thì nghèo tiền thôi. Chứ cái khoản tình, chị Chúc chuyến này giàu to! Mời chị phát biểu...

Ngây người ra, Chúc nhìn xung quanh, ánh mắt cầu cứu. Chị Chúc phát biểu đi, cả bọn hò lên. Ngại ngùng, Chúc ứ hự, rồi lí nhí:

- Em chẳng biết nói gì! Các anh các chị tha cho!

Ðúng lúc đó, Chi vào với đứa bé hồi nãy đã giật tay mẹ chạy, nhất định không chịu đi tản cư. Chi nói, giọng vui vẻ:

- Ðây là em Liêm, gia đình đã tản cư hết. Còn anh chị đây là... là gia đình mới của em.

Lại tiếng vỗ tay rào rào. Có người xướng lên, sống chết với Thủ Ðô, anh em ta ơi. Thoại với cây đàn ghi-ta bật dây, dạo một vài nốt.

*

Chi bỏ ra phòng trực phía trước, tai văng vẳng khúc ca diệt phát-xít đồng thanh vang lên. Trưa nay, nàng đã họp và nhận trách nhiệm hậu cần cho Vệ Quốc quân và đội Tự Vệ khu Ðồng Xuân. Chi hỏi xem Hà có bằng lòng cùng phụ trách hậu cần không, nhưng Hà nhất định không, đòi chiến đấu ở tuyến đầu như bọn đàn ông con trai, dỗ thế nào cũng chẳng được. Chi cũng tìm ra được anh tự vệ khu Hàng Ðậu có ông bố hôm kia đã mang súng săn ra dọa tự vệ. Liên lạc sẽ dẫn anh ta đến trụ sở Bến Nứa để Chi tranh thủ tối nay. Ngồi chờ, Chi lo lắng nhớ bà nội. Mồ côi mẹ từ tấm bé, bà là người đã bế ẵm nuôi nấng nàng cho đến lúc thành niên. Khi nàng thoát ly, bà biết, chỉ bảo bà không hiểu làm Cách Mạng là làm gì, nhưng đừng giết người cướp của là bà bằng lòng. Chi giải thích làm Cách Mạng để giành lại nền độc lập từ tay thực dân Pháp. Nhưng độc lập là sao, bà hỏi. Thấy Chi lúng túng, bà xuề xòa, ‘’ thì cứ đuổi được bọn cai đội hống hách da trắng mắt xanh để người mình khỏi quỵ lụy là độc lập chứ gì!’’.Thình lình, một người đội mũ dạ, chân đi ủng bước vào trụ sở với anh liên lạc viên của tự vệ Bến Nứa.

Anh ta tên Bảo, tham gia ngay từ Cách Mạng tháng Tám, trước đó giúp bố mẹ trông nom xưởng làm xẻng, làm cuốc sau khi thi trượt tú tài hai lần. Chi và Thoại tiếp, trình bày vấn đề và mong anh về vận động gia đình cho phép đục tường và đào hào sát cửa ra vào. Thoại lại xuỵt xoạt:

-... nhất là làm sao nói để ông bà cho ít cái cuốc. Lúc này, quí lắm. Anh em thì đông, xẻng ít, cuốc ít nên người làm, người đứng chờ đến phiên mới được!

Bảo chép miệng:

- Ông bà ‘’ via’’ nhà mình là ‘’ke’’ lắm, chẳng xỉa ra cho không đâu!

- Nhưng lúc đánh nhau rồi thì muốn cũng chẳng giữ được cuốc với xẻng!

Chi chen vào:

- Có xẻng có cuốc, đào công sự, đắp lũy... thì mới cứu được mạng mình. Sau này, nếu cái mạng còn không giữ được thì giữ cuốc giữ xẻng làm gì?

Suy nghĩ một chập, Bảo thủng thỉnh:

- Ðể tôi... Mình con một, xẻng cuốc rồi thì cũng sẽ là của mình. Nhưng lúc này cần gấp, thôi thì xin cái gia tài ấy ngay.

Bảo yêu cầu Thoại dẫn tự vệ theo mình về nhà. Khi Bảo mở cửa thì cứ việc vào khuân xẻng, khuân cuốc cho bằng hết. Chi sợ bị kiểm điểm là cho tự vệ đi cướp. Bảo đòi một tờ giấy viết tên, tuổi, ghi vào ‘’hiến cho chính phủ tất cả dụng cụ của xưởng Bảo Quốc’’, rồi cười:

- Bảo Quốc thì giữ nước là phải rồi!

Ðám tự vệ lên đường. Về đến nhà, Bảo ra dấu bảo chờ rồi mở khóa đẩy cửa bước vào. Có tiếng cãi vã. Lát sau, Bảo đi ra, cầm khẩu súng săn đưa vào tay một người, nói ‘’...súng để chống Pháp, xin hiến cho Cách Mạng!’’, rồi vẫy tay cho mọi người vào.

Xẻng, cuốc khuân ra, mặc cho ông bố Bảo giơ tay chặn. Bà mẹ bù lu bù loa:

- Con ơi là con! Bất hiếu, bất mục, đem của nhà đổ xuống sông xuống biển!

Bảo đứng im, nét mặt lạnh như đá tạc. Thình lình, ông bố cầm một cái cuốc nhắm đầu Bảo bổ xuống. Có tiếng người hét lên, thất thanh.

Ðêm hôm đó, tự vệ Bến Nứa mang về trụ sở hơn ba trăm cái cuốc, cái xẻng nhưng ai nấy lòng nặng trình trịch. Hà Nội co người trong gió Ðông Bắc thốc vào từ năm cửa ô vắng ngắt. Trên trời, không có lấy một vì sao lấp lánh. Nhưng dưới đất, muôn vạn người có đấy, lương tâm thắp sáng bằng những ngọn đèn hoa kì vặn vừa đủ để giữ được lửa mùa đông.

*

Cấp tốc quay lại Sài Gòn sau khi chiếm Hải Phòng, D'Argenlieu tiếp tục cáo buộc với chính phủ Pháp rằng Việt Nam gây chiến, và báo Paris những tin chiến sự rất lạc quan. Bộ Trưởng Moutet lại phái Sainteny qua Ðông Dương, nhưng Sainteny bị D'Argenlieu giữ lại, không để cho ra Hà Nội ngay. Ðồng thời, Valluy bay ra Hải Phòng hội họp với tướng Morlière và đại tá Dèbes. Chỉ hôm sau, đoàn một nghìn lính, vừa lê dương, vừa lính dù, chuẩn bị rời Hải Phòng về trợ thủ cho quân Pháp ở Hà Nội.

Phía Việt Nam, một cuộc nghi binh được sắp đặt. Tối tối, dân quân ở phụ cận Hà Nội có đến cả nghìn người ùa vào nội thành, rầm rĩ cho đến sáng lại rút ra. Lời đồn đãi, lực lượng bảo vệ thành phố nay có ba đại đoàn ứng chiến. Ðồng thời, một mạng lưới chuyển gạo, ngô, sắn phơi khô từ bốn phía được thiết lập. Dân đi tản cư bỏ lại lương thực cúng cho tự vệ, hàng ngũ nay mỗi lúc một đông. Tối tối, đường xá vắng ngắt nhưng vẫn có tiếng kìm búa đục tường, tiếng xà beng, tiếng cuốc bổ vào lòng đất bình bịch. Lâu lâu lại vang lên tiếng hát những bản quân hành chan hòa sức chiến đấu. Ban ngày, bên ụ đất mấp mô cạnh những chiến lũy làm bằng gạch, đá, giường, tủ, cọc sắt... thấp thoáng bóng những chàng Vệ Quốc trong quân phục xanh rêu và những chàng Tự Vệ chân dép, đầu trần, bươn bả ngược xuôi. Họ đã đục lỗ, gắn mìn để khi có lệnh sẽ giật mìn đánh đổ cây hai vệ đường chặn xe tăng. Đây là một nhiệm vụ quan trọng vì không thể nào cản nổi tăng với số lượng bom ba-càng rất ít ỏi. Vệ Quốc quân gom súng được một tiểu đoàn pháo binh, canh sẵn tọa độ, lệnh là bắn phải trúng, không được phí phạm một quả đạn nào.

Tình hình ngày càng căng. Pháp kiều được trang bị súng phất phơ đi lại trên phố Tràng Thi,mặt nghếch lên trời chứ không như trong thời kỳ Nhật chiếm đóng. Chúng nghênh ngang, tay lăm le để lên báng súng, bắt đầu hoạnh họe những cửa hàng, quán ăn. Ngày 15 tháng 12, quân Pháp bất thình lình tiến đánh bốt Công An ở vườn hoa Hàng Ðậu và ném lựu đạn vào một tiểu đội Vệ Quốc quân ở phố Hàm Long. Máy bay Pháp lượn cả buổi trên đầu Hà Nội. Xe bọc thép xông tới phá công sự tại phố Lò Ðúc, xúc chướng ngại vật đem đi. Cùng lúc, một toán lê dương xả súng đầu phố Hàng Bún. Tự vệ đánh trả, nhưng phải lùi dần. Lính Pháp xông vào nhà dân phá phách. Sau Hàng Bún, chúng kéo đến ngõ Yên Ninh. Hai mươi ba người bị súng cối bắn, xác xé thành mảnh, có đủ xác đàn bà, trẻ con. Số bị thương, lên đến cả trăm. Con gái bị bắt, chúng hiếp tập thể ngay trên hè phố, vừa hiếp vừa rú lên cười trong tiếng rên la khóc gào của những kẻ xấu số. Một người đàn bà có chửa quì xuống lạy. Tên lính gần đó nắm hai chân bà ta dốc ngược lên. Một tên khác lột quần, rồi lột áo cho đến khi bà ta trần như nhộng. Không chịu nổi cảnh ấy, một cụ già đứng dậy lao vào. Tên lính thọc đầu lưỡi lê vào bụng cụ, cười sằng sặc. Ðược thể, tên lính đến trước người đàn bà chửa đã ngất đi. Hắn đâm lưỡi lê vào bụng bà ta. Một tiếng rú thê thảm. Tên lính rút dao găm, rạch một đường từ vết lưỡi lê, rồi đạp vào bụng. Cái bào thai năm sáu tháng lòi ra, co thắt như thở, thoi thóp lịm dần trong bãi máu đỏ lòm.

Tin vụ thảm sát ở Yên Ninh truyền ra khắp nơi như một làn gió buốt xuyên qua Hà Nội. Vệ Quốc đoàn và Tự Vệ vẫn nhận lệnh tránh khiêu khích. Một chiếc xe Renault cũ sơn ngụy trang mầu bùn đất loang lổ, mũi cắm một lá cờ đỏ sao vàng, chạy từ từ trong thành phố. Hai bên thành xe chăng vạt vải trắng, chữ đen, viết ‘’Thanh niên sống chết với Thủ Ðô’’. Qua loa phóng thanh rè rè, một phụ nữ đọc bản tin. Trên đầu tiếng máy bay vẫn rì rầm dọa nạt. Một cụ già vung ba-toong, quát:

- Tiên sư chúng mày, bọn ăn cướp!

*

Trưa ngày 18-12, Ðại úy De Santillier ban Liên Kiểm chuyển vào Bắc Bộ phủ một lá thư, loan báo Bộ Chỉ Huy quân đội Pháp sẽ đem quân đến đóng ở sở Tài Chính trên phố Pasquier, và sẽ phá hủy những chướng ngại vật cản trở sự di động của quân đội Pháp. Hai giờ sau, xe tăng và xe bọc thép Pháp quây khu Cửa Ðông - Hàng Chiếu và xông vào phá chiến lũy của Vệ Quốc quân và Tự Vệ ở phố Hàng Bút. Xế chiều, Bộ Chỉ Huy quân đội Pháp gửi thêm một bức thư, cáo buộc Công An Thành Phố Hà Nội đã không làm tròn nhiệm vụ nên Pháp sẽ đảm nhiệm việc trị an chậm nhất là sáng 20-12-1946. Kịch bản Hải Phòng được lập lại. Từ nửa tháng nay, quân Pháp đều được lệnh cấm trại, bình tĩnh chờ đợi ở thế của kẻ mạnh. Thời gian thình lình trôi nhanh kinh hoàng. Cứ mỗi phút, thần chiến tranh bước tới gần bằng đôi hia bảy dặm. Hồ Chí Minh liên lạc với Sainteny sau khi nhận được bức tối hậu thư thứ ba, trong đó Pháp đòi tước vũ khí của Tự Vệ, đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, và trao cho quân đội Pháp toàn bộ việc duy trì an ninh ở Hà Nội.

Vương Thừa Vũ gặp Chính, hỏi:

- Ðủ gạo cho chiến sĩ ăn bao lâu?

Chính nhìn Ðặng Kim Giang, người được phái về giúp Chính sửa soạn hậu cần, nói với giọng quả quyết:

- Ba tháng!

Giang bổ túc:

- Ở mọi huyện ven đô, đã lập những kho lương và những Ủy Ban tiếp tế, tạo một số đường dây bí mật... Ta tiếp tục kiện toàn đường dây thì có thể được hơn ba tháng. Nhưng ba tháng là tối thiểu!

Ðúng lúc đó, một người bước vào thì thào vào tai Vũ. Nghe xong, Vũ thở phào, nói một mình ‘’Chúng nó vừa bỏ lệnh cấm trại. Lạ thật! Thế cái ngày 20 chỉ để dọa dẫm à! Hay Ông Cụ đã thỏa thuận gì với Sainteny? ’’.

Chia tay với Vũ, Chính về khu Ðồng Xuân, nơi ai cũng biết là một điểm chốt chiến lược. Chính ngẫm nghĩ, cái phải đến sẽ đến, nhưng trì hoãn giữ được hòa bình lúc nào hay lúc đấy. Nhìn qua cửa chiếc xe Traction, đường phố Hà Nội vắng và lạnh như một xác ướp, chân tay còng queo chia ra ngã ba ngã tư, cái duỗi cái co, thẳng đơ ra rồi co quắp úp vào những chiến lũy đắp lổn nhổn bàn ghế, giường tủ, cọc sắt, kèo cột... Nét tàn phá như mụn nhọt trên mặt một thiếu nữ xưa nay mơn mởn xanh tươi. Thiếu nữ vào cuộc ba đào, nay đã cắt tóc ngắn và mặc đồng phục xanh rêu, bỏ những chiếc áo dài thướt tha vào quá khứ.

Chính đến trụ sở Bến Nứa. Chi ra đón, giọng bần thần:

- Sắp đánh chưa anh?

Lắc đầu, Chính cố giữ giọng trầm tĩnh:

- Chưa đâu! Nhưng ngày một ngày hai thôi. Việc chuẩn bị nhiệm vụ cáng thương thế nào?

Chi than thuốc men chẳng có gì, băng bông làm bằng giẻ, sinh viên trường thuốc đến chỉ bảo chị em cứu thương cách băng bó, tẩy trùng, nhưng khi gặp trường hợp bị thương trầm trọng thì phải mang đi chứ trạm cứu thương cơ sở không có khả năng làm gì được. Chợt tiếng gõ cửa. Chính vừa mở thì một bọn ùa vào. Tiếng Hà lanh lảnh:

- Chúng em đến chào anh. Bao giờ đánh đây?

Chính nhăn mặt, nhưng cười. A, tuổi trẻ sao hồn nhiên đến vậy! Nhìn những ánh mắt rực lửa, Chính nhớ lại kinh nghiệm của mình lần đầu chạm vào súng đạn ở Nam Ðàn. Chính thầm nhủ, cái sợ xô con người vào sự liều lĩnh. Căng thẳng, chẳng khác gì sợi dây căng, đứt được là đứt và đến đâu hay đến đó. Nhưng chiến tranh không chấp nhận não trạng phiêu lưu thiếu tính toán. Ðiều đầu tiên chiến tranh dạy cho con người phải tự bảo tồn. Và cách hiển nhiên là tiêu diệt đối phương, trước khi bị tiêu diệt. Nhìn vào đôi mắt Hà to và trong, Chính ngần ngừ:

- Bao giờ thì không biết! Ai cũng hỏi câu ấy... Nhưng ta phải sẵn sàng...

- Sẵn sàng từ ‘’khuya’’ rồi, thưa anh! cả bọn thanh niên nhao nhao.

Giữa lúc khí thế lên như diều gặp gió, Bí Thư chi bộ khu Ðồng Xuân xuất hiện, nhìn Chính cười tủm. Cả bọn lại nhao nhao:

- Sao anh Tần, đánh chưa? Số ‘’ mìn bánh’’ để đánh đổ cây cối ngăn tăng hết rồi. Xin ‘’trên’’ ủng hộ cho thêm, anh Tần ơi!

Tần lắc đầu:

- Vũ khí cần, nhưng người mới là yếu tố quyết định. Anh em ta quyết tử cho tổ quốc quyết sinh!

Thoại không biết nghĩ gì, buột miệng:

- Không có vũ khí, quyết tử không thôi thì chiến thắng thế nào được! Mà không thắng, thì làm sao mà tổ quốc quyết sinh được. Hô quyết sinh thôi không đủ...

Câu Thoại nói nhẹ như gió mà nặng nghìn cân. Hà giả bộ không nghe, giọng át đi, cố làm như vui vẻ:

- Nào, ta ra chiến lũy. Hôm nọ em có nói với các mẹ các chị ở chợ hoa, xin ủng hộ cắm hoa vào chiến lũy để chẳng những người, hoa cũng xung trận... Các mẹ các chị đã ưng. Sáng nay chở cho một xe bò, hoa đủ loại!

Vĩnh mời Chính và Tần ra xem. Vòng vèo một lát, cả bọn ra đến dốc Hàng Than. Lũy đầu dốc cắm đầy hoa. Nào hoa Cẩm Chướng, nào hoa Phù Dung. Nào Huệ, nào Cúc... những bông hoa mang tên con gái Hà Thành. Hoa và con gái mọc trên những chiếc cọc sắt, lách qua bàn, qua tủ... trồi lên trong nắng hanh một ngày khấp khởi chuyển mùa. Nhảy lên chiến lũy, Hà ôm ghi-ta, hát:

‘’ Mây núi rừng thiêng chính khí ca

Tinh binh giục giã trên đường xa

Ðây hồn chiến sĩ oai hùng ngự

Một thuở binh đao giục lánh nhà...’’

Âm thanh bài ca lan vào không gian và thấm vào lòng người. Họ bất chợt im lặng, để nỗi xúc động khắc vào từng cái nhìn, cái nhích môi, cái mím miệng. Khi Hà dứt lời, nước mắt nàng ròng ròng. Tiếng đồng thanh hô ‘’ Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh’’ ầm ầm thổi gió cho mây lên cao, bay lơ lửng trong vòm trời Thăng Long xưa nay đã biết bao lần chứng kiến tang thương dâu biển.

*

Xế trưa ngày 19-12, Bộ Chỉ Huy quân đội Pháp thình lình hạ lệnh cấm trại. Lính Pháp khắp nơi lại tụ về những trại binh. Không khí vừa giãn ra, nay lại căng lên như những sợi tơ nhện đung đưa giữa hoà bình và chiến tranh. Nhận lệnh, Chính vội vã cùng Giang đến điểm hẹn ở khu Khâm Thiên gặp Giáp, Hoàn, Vũ và Trần Ðộ.

- Chúng chơi trò mèo vờn chuột! Hoàn khẳng định. Có lẽ cứ như ở Hải Phòng thì chúng sẽ bất ngờ khởi sự tấn công ta. Trung Ương xuống lệnh, giá nào ta cũng giữ chủ động.

Giáp tiếp lời:

- Nghĩa là, nếu không tránh được chiến tranh, ta sẽ tấn công trước. Cùng lúc, và ở mọi nơi! Ta công, nhưng quay ngay về thế thủ, như đã có kế hoạch.

Nhìn Vũ, rồi Ðộ, Giáp hỏi:

- Các đồng chí đã sẵn sàng chưa? Chẳng đợi ai trả lời, Giáp chép miệng tiếp - Chưa, thì cũng đến lúc hành sự rồi...

Nghe những báo cáo cuối cùng của Vũ xong, Giáp nghiêm giọng:

- Ban Chỉ Huy Pháp dự định tốc chiến tốc thắng, một hai ngày là bình định Hà Nội. Với chúng ta, thắng có nghĩa là giữ vững trận địa thủ đô ba ngày, năm ngày. Thắng lớn là một tháng, hai tháng. Thời gian đó cho phép chúng tavừa tiếp tục đàm phán vừa chứng minh cho Chính Phủ và Nhân Dân Pháp rằng một giải pháp thuần quân sự là bất khả thi.

Theo chân đội bảo vệ, tất cả ‘’xuyên tường’’ đi vào những ụ đất, lũy, hào, và những vị trí đặt súng chặn đường tiến quân của Pháp. Tự vệ Khâm Thiên hầu như chẳng thèm biết gì, vẫn vui vẻ sinh hoạt. Chiến lũy phía Nhà Ga nhộn nhịp, đường sắt gỡ ra cắm tua tủa trên những lũy đất nhô cao. Ðồng bào được vận động khuân những phiến tà-vẹt bồi vào lũy, thản nhiên trước tiếng rú đe dọa của hàng chục xe bọc thép ở nhà dầu Shell nơi quân Pháp đóng. Hoàng hôn chụp xuống rất nhanh, đổ bóng tối lên những mái nhà khấp khểnh trong ánh đèn vàng ứa mủ từ những vết thương đang xưng tấy những toan tính nhiễm độc của mọi thứ quyền lợi và quyền lực. Bề ngoài thành phố im ắng. Xe bọc thép đã ra chặn một số ngả. Bên trong, là con người. Với mọi nỗi niềm.

Vĩnh chỉ huy Trung đội Ngô Quyền được lệnh sửa soạn phản công khi Pháp tiến vào khu Đồng Xuân. Thở phào, Vĩnh dặn Chúc:

- Em ở ‘’ hậu phương’’ với chị Chi, cấm không được bén mảng ra ‘’ tiến tuyến’’!

Chúc ứa nước mắt:

- Chứ không phải người ta bảo thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn à...

- Không! Lúc này không ai đi tát biển...

Vĩnh ra lệnh tập hợp. Thiếu Thoại. Vĩnh hét, đi tìm đồng chí Thoại. Lúc ấy, Hà nước mắt nước mũi, lắc đầu chìa một tờ giấy vào tay Vĩnh. Mở ra, Vĩnh đọc, nghiến răng không nói một câu. Thư Thoại viết cho Hà ‘’...Tôi yêu Hà, nhưng là tình yêu vô vọng vì từ nay tôi không còn ở bên Hà. Tôi không đủ sức mạnh để yêu ai chăng? Tôi sợ. Tôi trốn. Và trốn cả Hà, vì cuối cùng không trốn được mình, tôi biết rằng mình là một kẻ hèn yếu...’’

*

Lệnh xuống, phải cấp tốc gài mìn vào cây ngay. Vĩnh tập hợp được tám tự vệ. Ba xin về. Còn năm người, Vĩnh quyết định vẫn chiến đấu. Ðích thân Vĩnh và một tự vệ sẽ đánh đổ cây đa trước cửa đình Thạch Khối. Hai tự vệ đi giật mìn cây bàng Ðiện Cai Năm dốc Hàng Than. Một khi địch phải ngừng xe vì vướng cây, năm người bố trí trên bờ đê sẽ bắn địch khi chúng đổ lính xuống. Nhưng lâm sự, mới biết chưa chuẩn bị búa và đục để đào lỗ vào thân cây. Và phải nhét mìn cho thật sâu, mới đánh cho cây đổ được. Cuống lên, Vĩnh dùng dao rựa chặt bạt mạng. Ðang chặt, có thêm tám người đến, nhưng đến tay không. Dù sao, cũng có tin vui. Họ báo trung đội phó Thành Trường nhắn đã cùng một chục tự vệ bố trí trận địa ở bến ô-tô như dự kiến. Vĩnh phân công cho tám Tự Vệ mới đến về lấy tám ngọn giáo ở trụ sở và lên đê đào hố chiến đấu đang còn dở dang. Trời đã tối mịt, đèn pin không có, Vĩnh thò tay vào thân cây đa, thấy cái hốc ngập gần hết con dao, cho mìn vào, bịt kín lại.

19 giờ 58 phút, ngày 19 tháng 12 năm 1946.

Vĩnh định đi xem việc đặt mìn ở cây bàng dưới dốc. Tay quệt mồ hôi ròng ròng chảy xuống má, Vĩnh vừa bước thì đèn điện phụt tắt. Trong thành phố, tiếng súng đại bác vang lên. Rồi súng máy tằng tặc, súng trường ùng oàng. Ðạn réo lên xé gió. Những chớp lửa nhoáng lên mỗi lúc một nhiều. Phía cầu Doumer, lửa bốc rực trời. Tiếng súng mỗi lúc một dồn dập. Vĩnh bàng hoàng. Bây giờ, nổ mìn hay không? Nếu đánh đổ cây mà địch không đến thì sao? Ðột nhiên, đất rung lên, tiếng xe tăng ầm ì vọng lại dọa dẫm. Chúng đến từ phía cầu Doumer. Không chần chừ được, Vĩnh ra lệnh đánh cây bàng Ðiện Cai Năm. Tự mình, Vĩnh xuống châm ngòi nổ phá cây đa Ðình Thạch Khối. Ðợi cho giây cháy phun ra những tia lửa nhỏ, Vĩnh mới chạy lên đê. Lúc đó, anh Tự Vệ châm ngòi ở cây bàng cũng chạy về.

- Cháy chưa?

- Tôi xòe diêm rồi chạy ngay! Còn anh?

- Cháy rồi! Dứt khoát là cháy...

Tiếng xe tăng đã gần lắm. Sao tất cả vẫn im ắng. Mìn không nổ ư? Vĩnh nhổm người nhưng một Tự Vệ kéo áo, chỉ:

- Xe tăng nó đang đến kia!

Một khối sắt lừ lừ kéo lê trên đường, tiếng xích nghiến rung trên nền đá gầm gừ như nguyền rủa. Một tia chớp lóe lên, sau là tiếng nổ tung trời xẻ đất. Mìn đánh cây đa nổ, nhưng nó vẫn đó, nguyên vẹn như thách thức. Chỉ có chiếc xe tăng ngừng lại trước nhà dép cao-su Con Hổ. Tiếng tắc bọp, rồi tiếng đui-xết thi nhau nổ dòn, đạn viu víu bay về phía Chợ Nứa. Lính Pháp cứ thế bắn. Tự Vệ nằm mọp ở bờ đê, súng cũ, đạn lại ít, đưa mắt nhìn nhau.

Vĩnh lấy hai quả lựu đạn, dặn anh em yểm trợ khi cần, rồi trườn xuống chân đê theo những đường hầm chữ chi tiến đến gần chiếc xe tăng. Lính Pháp ngồi hẳn lên tháp pháo xì xồ. Vĩnh quăng lựu đạn. Hai tiếng nổ chói chan. Lính Pháp thụt xuống, chui vào. Chiếc xe tăng lùi, quay đầu chạy về phía Nhà Máy Nước.

*

Nửa giờ sau phát đại bác đầu tiên, quân Pháp chia làm hai cánh đánh ra. Một cánh từ Cửa Bắc tiến theo đường Hàng Ðậu. Cánh kia từ Cửa Nam, chiếm bót Hàng Trống và tiếp tục đi về Nhà Hát Lớn, chắc sẽ tiến đánh Bắc Bộ Phủ. Vệ Quốc quân và Tự Vệ phá xe tăng ở Hàng Đậu, chặn quân Pháp không nhích lên được. Trên những mái nhà phố Tràng Thi, Tự Vệ quăng lựu đạn, bắn tỉa, và tổ chức phục kích, khi biến khi hiện từ những con đường xuyên tường. Vương Thừa Vũ lệnh cho mọi lực lượng vừa chặn địch, vừa tung những bộ phận cơ động đánh thọc vào sườn.

Cánh quân Pháp tiến theo đường Hàng Ðậu phải bọc khu Bến Nứa để phối hợp với đội quân trên đê Yên Phụ đang tiến chiếm cầu Doumer. Chúng bắn đến độ trung đội của Vĩnh không ngóc đầu lên nổi. Chợ Nứa phừng phừng lửa. Lửa lem lém lan vào mái gồi, bắt qua những ô nứa. Nứa tép khô nỏ bốc cháy như đuốc, đốt nứa bống, nứa dại. Rồi tre, gỗ. Tất cả cháy đùng đùng. Từ nhà nọ lan qua nhà kia, lửa loang ra thành một biển lửa, hừng hực, tràn bờ. Trận địa bị nghiến thành tro. Quay về trụ sở, trụ sở nay cũng đang bốc cháy. Vĩnh ra lệnh rút lui. Tự vệ có người chạy về xem nhà cửa mình thế nào. Có người đi về phía Nghi Tàm, dọc đê sông Hồng, lẫn vào một đoàn người chạy loạn cuống quít rời thành phố.

Cánh quân Pháp tiến đánh Bắc bộ phủ vào lúc 5 giờ sáng ngày 20 tháng 12. Ðội cảm tử quân giữ phủ chống trả mãnh liệt, đẩy lùi hết đợt xung phong này đến đợt xung phong khác của bọn lính Lê Dương thiện chiến. Trong tiếng súng nổ, có tiếng hát. Những người chiến sĩ non trẻ đầu đội mũ gắn sao vuông vừa bắn vừa hát. Họ hát hết bài này đến bài kia. Bom đạn không át được tiếng người, vì dẫu gì thì cũng chính con người trong thế giới này đã sinh thành ra bom đạn. Trên trời, máy bay vần vũ từng vòng, điên cuồng bắn phá. Dưới đất, sau những mái nhà, những ô cửa sổ, mũi súng chĩa ra đẩy cho tiếng hát bay xa.

‘’ Bao chiến sĩ anh hùng,

lạnh lùng vung gươm ra sa trường.

Quân ta đi, nước non đang chờ...’’

Họ đã hát và chiến đấu mười ba giờ đồng hồ trước một lực lượng đông gấp mười, trang bị gấp trăm, cho đến khi phải đếm từng viên đạn. Chính Ủy Lê Gia Ðịnh lệnh cho hai trung đội còn lại rút sang nhà Bưu Ðiện. Thương binh, không mang đi được. Bom và lựu đạn, còn bao nhiêu dùng bấy nhiêu. Ðịnh ở lại, rắp tâm giật bom đánh toán lính Pháp đầu tiên xông vào. Anh giữ một tiểu đội tình nguyện làm nghi binh cho đồng đội thực hiện kế hoạch rút lui như dự tính. Súng vẫn nổ ròn. Ðịnh quát, cứ hát lên. Một chiến sĩ trúng đạn, gục xuống. Thình lình anh ta bật dậy, đưa súng cho đồng đội rồi quơ vào lòng chiếc đàn măng-đô-lin. Anh cao giọng, hát:

‘’ Ngày, bao hùng binh tiến lên

Bờ cõi... vang lừng câu quyết chiến...’’

Những giọt máu từ phím đàn tí tách nhỏ xuống mặt đá men lát sân thượng. Ðịnh đến gần. Anh Vệ quốc trẻ măng ngửng lên nhìn, cương quyết. ‘’ Xin đồng chí tiếp tục đánh. Còn tôi, tôi đang làm nhiệm vụ cuối cùng...’’. Mắt anh trong nhưng đủ sâu để phản chiếu hết mảng hoàng hôn đang nhuộm đỏ Hà Nội.

Ðã có tiếng hô a-la-xô. Vệ quốc quân vẫn hát. Ðịnh mỉm cười và bỗng dưng trầm tĩnh một cách lạ thường. Đợi lính Pháp lên đến tầng hai, anh sẽ giật cho bom nổ. Còn một quả lựu đạn nữa. Anh sẽ tiếp tục chiến đấu với nó. Như người chiến sĩ bị thương kia đang tiếp tục gẩy măng-đô-lin. Ðịnh phục xuống. Anh chờ. Một, hai. Rồi đã cả chục tên Lê Dương đã vào tầm đánh bom. Ðịnh nghiến răng, nhấn cần động cho bom nổ. Nhưng chờ mãi. Bom tịt. Anh chửi toáng lên, xông xuống, tay đã rút kíp quả lựu đạn cuối cùng. Tiếng lựu đạn nổ. Tiếng hét. Ðịnh không chịu chết một mình. Khi lính Lê Dương leo lên sân thượng, chỉ còn chiến sĩ ngồi ôm măng-đô-lin. Anh ta tiếp tục hát. Haut les mains! Giơ tay lên! Anh ta ngước nhìn trời, tay vẫn ôm đàn. Thình lình, anh quăng đàn lên không, hai tay giơ cao, miệng hô ‘’ Việt Nam muôn năm!’’. Tiếng hô lịm tắt trong tiếng súng tiểu liên ằng ặc tuôn ra như giọng cười nắc nẻ đến từ địa ngục.

*

Giáp quyết định xát nhập khu I vào khu II. Hà Ðông và Sơn Tây trở thành hậu phương của mặt trận Hà Nội, cho phép xử dụng những lực lượng dự bị. Hồ Chí Minh kêu gọi ngày 20 tháng 12:

‘’ Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!... Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc... Ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước... Dù phải gian nan kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta ‘’.

Ban Chỉ Huy quân sự thành lập Trung Ðoàn Thủ Ðô, chỉ huy vẫn là Vương Thừa Vũ và Chính Ủy, Trần Ðộ. Tháng giêng năm 1947, quân Pháp bị cầm chân, loay hoay với một khối người sửa soạn tản cư, trong số đó có nhiều Hoa kiều. Trùng Khánh can thiệp với sự ủng hộ của lãnh sự Mỹ Sullivan, yêu cầu tạo điều kiện cho thường dân Hoa kiều rời khu vực chiến tranh.

Trần Quốc Hoàn tức tốc triệu tập một cuộc họp với những cán bộ đã từng làm việc trong lòng Hà Nội trước ngày Tổng Khởi Nghĩa. Có Nguyễn Hữu Ðang, Vũ Ðình Huỳnh, Dương Ðức Hiền, Phan Thượng Chính. Có cả Trần Ðộ, năm 43 đã về nội thành phổ biến Ðề Cương Văn Hóa của Trường Chinh đến một số văn, nghệ sĩ. Hoàn lập danh sách, chia làm ba loại. Loại một là ta. Loại hai, những kẻ lừng chừng, có khả năng tranh thủ. Và loại ba, là Việt gian, là địch, thậm chí nguy hiểm hơn cả địch. Lập danh sách để làm gì? Hoàn đáp:

- Chặt những cái đầu, nhưng giữ chân giữ tay!

Ðang ngạc nhiên, hỏi:

- Ai cho phép làm như vậy?

- Ở trên...

-...trên là ở đâu? Quốc Hội hay Chính Phủ?

- Ðánh nhau thế này, Quốc Hội với Chính Phủ gì nữa! Trên bây giờ là Thường Vụ.

Ðang chép miệng:

- Tôi không thông! Vẫn còn Chính Phủ, còn Quốc Hội. Phải hỏi Ông Cụ. Mà Ông Cụ có còn là Chủ Tịch nữa không nhỉ? Ðang kháy.

Trần Quốc Hoàn đỏ mặt, nhưng lại cười ngay, giả xuề xòa:

- Thì anh cứ hỏi! Phần tôi, tôi chỉ thi hành chỉ đạo. Trên bảo sao, tôi làm vậy.

Ðang bỏ họp, đi ra. Phần Chính, ngẫm nghĩ một lát, Chính xếp tất cả những mối liên hệ của mình vào loại hai. Hoàn nhìn, mỉa:

- Ai cũng lừng chừng cả à! Ðúng là ‘’ ngưu tầm ngưu, mã tầm mã’’, một bè với nhau cả!

Chính bỗng muốn nắm tay đấm vào cái khuôn mặt choắt choeo cứ châu miệng ra cố một nụ cười giả tạo. Ghìm cơn giận bốc lên, Chính quay lưng về phía Huỳnh và Hiền, thõng một câu:

- Hai anh cùng công tác với tôi đã lâu, xin đừng xếp tôi vào loại ba nhé! Việt gian thì chỉ có ‘’ mò tôm’’ thôi!

*

Chiều hôm sau, liên lạc báo Chính phải cấp tốc lên trạm xá ở Chèm. Ðó là nơi chuyển dân tản cư ra khỏi phạm vi Hà Nội. Khi Chính đến nơi, một anh cán bộ dẫn vào căn nhà ẩn đằng sau bụi chuối. Một người ngồi trên chiếc trõng tre, mặt quay về hướng còn chút ánh sáng le lói qua chiếc cửa làm bằng phên. Cạnh đó là hai Tự Vệ có nhiệm vụ canh gác. Anh cán bộ đến, tay bấm đèn pin chiếu vào mặt khiến người ngồi đó nhắm tịt mắt lại. Mặt râu ria lởm chởm hất lên, anh ta nhếch mép như thách đố, nhưng im lặng.

Cán bộ nói với Chính:

- Xin đồng chí nhìn cho kỹ!

Bước khỏi căn nhà, anh cán bộ kéo Chính vào một nơi, tay lật một đống hồ sơ để trong những kẹp giấy. Lát sau, anh lôi ra đưa cho Chính một kẹp, miệng giục:

- Anh coi đi, chắc là nó!

Ðó là một hồ sơ trên có đóng dấu Secret. Deuxième Bureau. Mở ra, có hai tấm ảnh chụp nghiêng, và một tấm chụp thẳng, tên đề Trương Tử Anh. Anh cán bộ lại nói:

- Công an lệnh xuống phải bắt bọn Việt gian tối nguy hiểm. Thằng Trương Tử Anh này là một. Anh xem, có phải là nó không?

Trương Tử Anh là lãnh tụ Ðại Việt Quốc Dân Ðảng, xưa nay hoạt động bí mật, rất ít lộ diện. Ngay khi còn nằm trong tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, Anh chỉ liên hệ với một số rất ít nhân vật, không bao giờ xuất hiện trước công chúng nên số người biết mặt không được bao nhiêu. Từ ngày Vũ Hồng Khanh ký Hiệp Ðịnh Sơ Bộ mồng 6/3, Anh quyết định rút ra khỏi Mặt Trận. Không tin vào một giải pháp chính trị, Anh tìm cách tổ chức chiến khu. Vì thế, dù Chính là đại diện của Việt Minh để tiếp xúc với những nhân vật theo khuynh hướng Quốc Gia, Chính chưa bao giờ gặp Anh. Nhìn kỹ bức ảnh và so với nét mặt người ngồi trên trõng, Chính không thể quả quyết được gì, nhưng hiểu một lời nói của mình có khả năng giết một người. Cổ họng Chính nghẹn lại như nòng súng tức đạn. Chính lấy giọng trầm tĩnh:

- Tôi chưa hề gặp Trương Tử Anh. Tôi không thể trả lời dứt khoát được vì tôi không biết chắc!

Anh cán bộ chặc lưỡi:

- Ðành vậy! Sai còn hơn sót!

Chính nghe, người nổi gai ốc. Sai, trời hỡi, là một mạng người. Chẳng lẽ mạng con người nay rẻ rúng đến thế sao? Chính rời Chèm, quay về khu Ðồng Xuân, miệng lẩm bẩm, sai còn hơn sót, người nóng như lên cơn sốt.

*

Tự Vệ Bến Nứa rút về chợ Ðồng Xuân. Vĩnh củng cố lại Trung Ðội. Vẫn gần như đủ mặt. Thành Trường trực tiếp chỉ huy một tiểu đội, trong có Bảo, người suýt bị nhát cuốc của ông bố tiếc của bổ vào đầu. Hôm đi ‘’ tiếp quản’’ cuốc, xẻng nhà Bảo Quốc, tiếng thét của một Tự Vệ khiến Bảo nhảy ngược trở lại, nhát cuốc cắm ngập vào chiếc cột cạnh lối ra vào. Tự vệ ôm ông bố lại. Ông ấy nhìn chiếc cuốc, nhìn con. Bảo tái mặt ’’ Con chết thì bố để của lại cho ai?’’ Bà mẹ nằm phục xuống, tay vả vào mặt, khóc sướt mướt, miệng kêu giời. Bảo nâng mẹ dậy, khẽ nói ‘’ Bây giờ cúng hết cho Cách Mạng rồi, bu đi tản cư đi! Con thỉnh thoảng tạt về trông nhà.’’

Chúc trở thành chị ‘’nuôi’’, lo việc hỏa đầu quân cho Trung Ðội. Phần Hà, Hà xin với Vĩnh làm ‘’quân báo’’. Nhìn Hà, Chúc thầm nhủ, chỉ thiếu Thoại. Trước ngày kháng chiến toàn quốc, ai cũng biết tình cảm của Thoại đối với Hà. Dẫu kín đáo, Hà cũng ‘’tích cực’’, nói theo kiểu nói mới du nhập của đám trẻ mới lớn. Hà nằn nỉ:

- Anh Vĩnh cứ để em, em nhỏ người, lại phụ nữ nên địch nó coi thường. Thằng Liêm làm giao liên, phối hợp với em là nhất. Ðịch đến, em báo và Liêm liên lạc với Trung Ðội...

Liêm, đứa trẻ trốn gia đình không đi tản cư, nhảy cẫng lên:

- Báo cáo, em sẽ hoàn thành nhiệm vụ với chị Hà!

Nó đứng ngay như một khúc củi, giơ tay lên chào kiểu nhà binh, hô ‘’ Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi’’, mặc cho mọi người ồ lên cười.

Chợ Ðồng Xuân vừa là chiến địa, vừa là doanh trại. Như vậy, vừa tổ chức phòng bị và chiến đấu, lại đồng thời vừa xếp đặt một cuộc sống bình thường. Trước hết là cái ăn. Và sau, cái mặc. Rồi giặt rũ, tắm rửa. Trung Ðội có mười bảy người, toàn là các tiểu thư, công tử cách đây mới mấy tháng. Khi Vĩnh đề nghị Nga, một tiểu thư nhà phố Hàng Chiếu làm phụ tá Chúc, Nga giẫy nẩy, nói dỗi:

- Ðấy, chuyện đâm đầu vào bếp thì lúc nào cũng là phụ nữ thôi!

Thế là Chúc lại phải ‘’động viên’’ Nga một buổi. Ðó là chuyện ăn. Còn cái mặc. Ai cũng chỉ một bộ quần áo trên người. Quây cót lại, Bảo đi tắm, khi ra thì ai đã nhặt mất quần. Bảo kêu ầm lên:

- Chỉ có mấy cậu Tự Vệ mà ‘’nhón’’ nhau thế, Tây nó đến thì tớ cởi truồng mà đánh à!

Vĩnh lại phải nghĩ đến chuyện may thêm cho những anh những chị chỉ có độc một bộ quần áo. Trong chợ có vài chục sạp vải. Nhưng thợ may, là ai. Lại họp. Và anh Tần tiếp viện cho một cậu, tên là Long. ‘’ Long sur-mesure’’ không có máy khâu. Thôi thì đành động viên Chúc và Nga khâu tay. Nga lại dỗi:

- Biết mà! Ðàn bà thì hết ăn, lại mặc. Thế mà cứ rao phụ nữ bình quyền!

Lúc đó, một Tự vệ tên là Lãng xung phong giúp Chúc và Nga, nói:

- Ðúng là phải lo đến đời sống anh em. Tôi cũng ‘’rách’’ lắm, bây giờ tất cả ‘’vô sản’’ rồi, hãy đoàn kết lại nhé!

Sửa soạn công sự cho trận địa, phải đào hầm, đào hào. Chợ rộng mười nghìn mét vuông, có bốn bức tường che cho năm gian cầu chợ dài năm mươi hai mét, cao mười chín mét, mái lợp tôn. Đào hào, ít cũng phải dài năm trăm mét theo kiểu chữ chi để giao nối với nhau. Còn muốn vững vàng, hào phải sâu một mét, rộng bảy mươi phân. Như vậy, tổng cộng là ba trăm mét khối đào trên nền xi-măng, dưới là đá cứng. Rồi lại đắp ụ chiến đấu, hố cá nhân. Và quyết định, chỗ nào là chỗ tiến, chỗ lui. Chỗ nào là nơi quyết chiến tử thủ.

Vĩnh lặn lội đi thăm dò địa hình địa vật, xếp đặt tổ chức, xử sự khi cứng khi mềm với anh em trong Trung đội, nay có cảm tưởng mình sắp kiệt lực. Suốt mấy đêm không ngủ, Vĩnh vừa đặt mình nằm thì chợp mắt mê mệt. Khi lơ mơ thức giấc, Vĩnh nghe tiếng đàn ghi-ta. Hé mắt, Vĩnh thấy Hà tìm ở đâu được đàn, đang gảy nhè nhẹ. Anh em Tự vệ xúm quanh rủ nhau hát. Giọng Hà cao vút:

‘’ Chiều chiều trên cánh đồng xanh

Có nàng gánh lúa

Cho anh ra đi diệt thù

...

Một ngày, một ngày chinh chiến mùa thu’’

Vĩnh giụi mắt. Ai đó ấp tay lên má. Vĩnh khẽ quay lại, mũi thoáng mùi hương nhu lá sả. Trong ánh đèn mờ, thấp thoáng một khuôn mặt trái soan. Vĩnh nhắm mắt. Nhưng Vĩnh vẫn thấy mái tóc dày vấn cao, nước da rám hồng, hàm răng hạt huyền, đôi môi đỏ mọng và nhất là nụ cười, rất dịu dàng nhưng đằm thắm. Chúc nói nhỏ ‘’Dậy ăn cơm, anh!’’. Nước mắt Vĩnh ứa ra.Nằm im, Vĩnh áp mặt vào tay Chúc. Tiếng hát bỗng ngừng ngang. Thình lình, tiếng Thành Trường cất lên:

- Thoại! Thoại đấy à!

Vĩnh chồm dậy, bước lại. Thoại đã về. Phải thế chứ, Vĩnh thầm nhủ. Ðứng như trời trồng, Thoại chỉ nói:

- Tôi xin chiến đấu với anh em!

Vĩnh ôm lấy Thoại. Hà đứng lên bước ra sau, tay che mặt. Vĩnh nghẹn lời:

- Chúng ta gắn bó với nhau, yêu thương nhau, vì không sống chết có nhau thì khó mà khuất phục kẻ thù. Rồi đây, cuộc chiến đấu của chúng ta sẽ rất gian khổ.

Cảm động, Vĩnh thấy cổ họng mình tắc lại. Vĩnh hít hơi, tay nắm lại, âm thanh oà vào sự im lặng rồi vỡ ra thành lời:

- Quyết tử... chúng ta quyết tử, tổ quốc quyết sinh.

*

Chính sốt ruột nhìn lên đê. Cái hẹn trễ gần một giờ, điều rất hiếm khi xảy ra nhất là với Chi, người lúc nào cũng chấp hành giờ giấc nghiêm chỉnh. Chàng trèo lên đống gạch đổ nát, ẩn mình trong bóng cây đề trườn ra phủ lên mái nhà đã bị bom đạn đánh sạt đi một nửa. Chính kéo cổ áo, mắt lại nhìn đồng hồ. Những con số ánh lên màu mắt mèo, cái kim chỉ giây vẫn cứ đều đặn xoay vòng, bình thản máy móc kéo thời gian theo một thứ chu kỳ trơ lỳ vô cảm.

Tiếng hô khẩu lệnh nho nhỏ. Chính đáp. Hai bóng người hiện ra, lò mò đi về phía Chính. Chi thở hổn hển:

- Em tranh thủ, nhưng vẫn không kịp cho đúng giờ. Phải đi vòng vì bọn Pháp quây khu Hàng Khay!

Chính đến nhìn tận mặt người đi cùng với Chi, không nói một câu. Quay về phía Chi, Chính nói:

- Thuốc tiếp tế đã đến rồi, hiện ta đã giấu đi và phải chuyển về trạm quân y Hàng Buồn. Giao cho cô trách nhiệm này được không?

Chi gật đầu, chào rồi lủi và trong bóng đêm. Lúc bấy giờ, Chính rút túi lấy bao thuốc, tay chìa cho người lạ:

- Mời anh. Tôi biết anh hút!

- Cám ơn anh.

Ðó là Khái Hưng, Chính đã tìm gặp tuần trước. Khái Hưng tiếp tục ở lại Hà Nội làm tờ báo Việt Nam cho đến tháng mười, mặc dù những cơ sở của Việt Nam Quốc Dân Ðảng bị triệt hạ toàn bộ vào tháng bảy, sau vụ án Ôn Như Hầu. Quyết định gặp Khái Hưng đang trốn ở một căn nhà trong ngõ Tạ Hiền, Chính biết tính mạng của chính mình có thể nguy hiểm. Nhưng chàng bị dằn vặt. Và câu sai còn hơn sót cứ ám ảnh. Có một đêm, chàng mơ thấy mình đi trên đê Thụy Khuê. Thình lình một đám đông từ xa tiến về phía mình, tiếng chân thình thịch. Trời đầy sao và lộng gió, thứ gió lạ lùng phà vào như hơi thở lạnh ngắt đến từ cõi âm. Linh tính điều không lành, Chính định chạy nhưng chân ríu vào nhau. Tiếng chân mỗi lúc một gần. Chính thấy một lũ người đang bước, vai khoác súng, cổ cụt, tay đang bưng đầu mình. Chặt đầu, nhưng giữ tay chân, lời Hoàn lại văng vẳng. Ðoàn quân ma im lặng đi theo một nhịp quân hành không thanh âm trên con đường gập ghềnh. Đường sâu hun hút, xa xa chập chờn cờ bay theo chiều của bóng đêm cứ lúc một dài ra.

Ðiếu thuốc lập lòe cháy hắt lên khuôn mặt Khái Hưng một màu đỏ l?