← Quay lại trang sách

11 - Vị đầu lưỡi

Nghe tiếng gọi, Chính bước lên lề phố Tràng Tiền rồi vòng người quay về phía bên phải. Từ ngày cánh tay trái bị xụi vì Tẹo giáng báng súng vào vết thương chưa lành, mỗi lần quay bên trái Chính thấy dây thần kinh đau nhói, chạy lên buốt óc, có lúc làm đến liệt một nửa người. Hãm xe lại, kẻ vừa gọi nhảy bổ xuống, kêu lên:

- Tìm cậu mãi, hôm nay may mà thấy!

Mồm nói, Loan nắm tay Chính, vừa lắc vừa nói:

- Thật trời xui đất khiến, đâm đầu vào hỏi toà soạn Văn Nghệ, họ bảo không? Báo Nhân Dân, cũng không! Nheo mắt, Loan trêu - thế là tôi tưởng cậu đi Nam mất rồi!

Nghe Loan nói đùa nhưng Chính vẫn rùng mình. Khi xưa, được tin Chính thoát hiểm từ Bùi Chu về đến thị xã Hưng Nguyên, Loan đã tức tốc xuống huyện đưa bạn về tỉnh. Nếu câu nói không đến từ kẻ cưu mang mình khi bị bắt thuở đó, có lẽ Chính đã co lại lấy tư thế một con nhím xù lông lên để tự vệ. Hành vi này thành phản xạ, chỉ khi gặp người thân thích nó mới hé ra lộ hình như cách ứng xử không bình thường. Hai người rủ nhau vào một cái quán bán cà-phê sát bờ hồ. Loan nhìn Chính, thốt:

- Tóc điểm muối tiêu rồi nhé! Hết phận long đong là vừa. Tứ thập, bất nghi hoặc... Vả lại, hòa bình lập lại rồi!

Nghe Loan nói, Chính chợt thấy tủi thân. Hoà bình lập lại, cay đắng làm sao, lại là lúc chưa bao giờ Chính cảm thấy mình long đong như bây giờ. Chính thấy miệng đắng chát, nhăn mặt, chiêu một ngụm nước trà. Bao nhiêu mất mát xuôi tuột vào bụng, để cái vị còn nóng trên đầu lưỡi.

- Thế với cô Huyền và hai đứa bé sinh đôi thế nào? Loan hỏi.

Ngập ngừng, Chính nói khẽ:

- Huyền đi Nam với một cháu. Đứa kia ở với bà ngoại. Nhìn Loan trợn mắt ngạc nhiên, Chính thì thào, chuyện dài lắm... Để hôm nào cậu lại nhà, có thời gian thì mình mới kể hết được...

Chính im lặng, bất ngờ thốt:

- Lắm lúc, mình chỉ muốn chết...

Loan nghe, nhưng lảng quay đi, nuốt vội một tiếng thở dài. Chính đứng dậy rủ Loan tản bộ. Trời lành lạnh, nhưng hôm nay trong và cao. Hà Nội vào xuân, chồi non đâm mầm, cây cỏ đang lấy sức âm thầm vồng lên trên đất Thăng Long hẳn vừa quen với những đổi rời. Hai người lang thang suốt buổi, hàn huyên những câu chuyện sống để bụng, chết mang đi. Từ Chỉnh Ðốn Tổ Chức, ai nay cũng có thói quen giữ miệng. Sơ ý nói một câu lắm khi vô tội vạ cũng có thể bị phê là dao động, là mất lập trường. Chính kể cho Loan nghe chuyện Nguyễn Hữu Ðang, nguyên Thứ Trưởng có nhiệm vụ Tuyên Truyền, bị hạch sách là thuộc thành phần tạch tạch sè tiểu tư sản. Đang từng lăm le xin ra khỏi Ðảng, nhưng cấp trên là Nguyễn Khánh Toàn không cho, khuyên nên bình tĩnh và kiên nhẫn. Chính chép miệng, tiếp:

- Cậu bảo, bây giờ mình vào những năm cuối tứ thập, nhưng thật oái oăm, lại mới bắt đầu nghi hoặc... Mất hết, mất cả cánh tay trái này. Và đã khai hết lý lịch trong kỳ Chỉnh Huấn Chỉnh Quân nhưng vẫn cứ bị dòm ngó! Nhưng dẫu gì thì cũng cứ găm vào bụng, hỏi cho ra lẽ chẳng được, mở miệng là thấp thỏm ‘’mất lập trường’’...

Loan ôm vai bạn khi chia tay, giọng ngậm ngùi:

- Tôi chỉ dặn cậu, là chuyện Huyền đi Nam phải ỉm cho kỹ. Tổ chức hỏi, cứ khai mất tích.Và giấu mọi người, kể cả bè bạn thân quen. Tuần sau tôi sẽ lại nhà cậu, ta nói chuyện thêm!

Chuyện là chuyện những mất mát đời người ai cũng có. Chính mất mẹ. Nhưng dù sao bà Ðồ Cửu cũng đã già, có sinh thì có tử. Chỉ tiếc là bà ra đi giữa hai nấm mồ, đưa tiễn không có ai ngoài con Mực, may là chó nên còn giữ được nghĩa với chủ. Chính mất Xoan. Nhưng làm sao khác được giữa những cơn dâu bể. Xoan từng là chiếc phao, nhưng phút cuối chàng đã với hụt, để cơn sóng phũ phàng dập vùi trong khi chàng thoát lưỡi hái của hận thù. Chính mất Bình Minh, hy sinh trong những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhưng bao nhiêu thanh niên thanh nữ cũng đã hy sinh như Bình Minh? Nhìn Loan, Chính thì thào:

- ... nhưng đau đớn, và thậm chí vô lý, là tôi mất Huyền và một đứa con. Ngay sau khi tiếp quản Thủ Ðô, tôi tức tốc về Kiến Thụy. Nơi đây còn thuộc vùng ‘’ba trăm ngày’’, thời gian qui định để ai đi Nam có thể đi. Mẹ Huyền ngơ ngác ‘’...em nó lên Hải Phòng chữa chạy cho cháu Nhân, nhưng rồi bặt tin’’. Tôi ở lại suốt một đêm, thức nhìn Dân, đứa con ở lại, nằm thiêm thiếp ngủ. Sáng sớm, tôi đi Hải Phòng. Tôi thầm nghĩ, có ở Hải Phòng thế nào Huyền cũng liên lạc với gia đình Hoàng, một đồng chí tử thời Tổng Khởi Nghĩa. Đi thẳng lại chợ Sắt, tôi tìm cửa hiệu của ông bố Hoàng. Cửa hiệu đã đóng, bên ngoài chiếc khóa bằng đồng kẹp hai đầu một sợi xích to bằng ba ngón tay đập vào mắt. Hỏi thăm, tôi mò ra nhà riêng của người chủ cửa hiệu. Tất tả đến, nhưng nhà trống, chỉ còn một u già lưng còng. Căn vặn mãi u già mới đáp một câu, về làng mà hỏi. Tôi lại về Nghi Dương, quê Hoàng. Cải Cách Ruộng Ðất đã tràn đến địa phương này. Cẩn thận, tôi kín đáo tìm hiểu. Cái gia đình tư sản này có đất, bị qui địa chủ. Cha Hoàng vừa về làng thì bị bắt, không chịu ăn uống, nghe đâu hét ba ngày ba đêm trải thì chết vì kiệt sức. Gia đình vợ con ông ta không dám nhận xác, chẳng biết trốn biệt đi đâu. Về phần Hoàng, tôi không gặp lại từ ngày Hoàng trở thành tiểu đoàn trưởng đi phục vụ chiến dịch biên giới cuối năm 1950. Nay Hoàng ra sao? Sống hay chết? Hay bỏ đi Nam? Trở về Hà Nội, tôi tiếp tục thăm dò, nhưng bặt vô âm tín...

Ngừng nói, Chính nhìn Loan, mắt lạc đi, môi run lên vì xúc động. Lát sau, lấy lại bình tĩnh, Chính thẫn thờ tiếp:

- Giữa năm ngoái, mẹ Huyền nhắn tôi về, tay chìa một tấm bưu thiếp đóng dấu Sài Gòn, nghẹn ngào ‘’...em nó di cư rồi anh ạ!’’. Tôi chết điếng. Ôm Dân, tôi nói với mẹ Huyền ‘’...mẹ con nó thế là sống! Hai năm nữa Tổng Tuyển Cử, thế nào cũng lại đoàn tụ, bà ạ!’’. Đêm hôm ấy là đêm dài nhất đời tôi. Trằn trọc, tôi tự hỏi, làm sao mà Huyền lại có thể di cư đi Nam? Hay là đã có ai trong đời chiếm được trái tim nàng? Đằng đẵng chín năm chờ chồng, mấy ai chịu nhận chìm một thuở thanh xuân đâu cứ sẽ mãi mãi? Hay là Huyền đã đổi thay lý tưởng, không chấp nhận cái xã hội mới ươm mầm đã vội đầy oan khiên đến từ cuộc Cải Cách Ruộng Đất? Nhưng có thế nào đi chăng nữa thì ngày đoàn viên của chúng tôi nay thật đã xa vời. Những điều khoản thỏa thuận Tổng Tuyển Cử trong Hiệp Ðịnh Genève dẫu đấy, nhưng không hiệu lực pháp lý, chỉ là một thứ nguyện vọng mà khả năng thực hiện hầu như không có. Những cường quốc hầu như lập lại chuyện vạch biên chia thế giới làm hai...

Nâng cánh tay trái rũ xuống như một sợi bún, Chính ngước lên nhìn bạn, buồn bã nói:

- Chín năm kháng chiến, thử hỏi ta được gì? So với Hiệp Ðịnh Sơ Bộ 6-3 và Tạm Ước 14-9 năm 1946, ta mất. Ở Genève, ta chấp nhận độc lập trong Liên Hiệp Pháp như đã chấp nhận trong Tạm Ước, tức là một nền độc lập rất giới hạn. Pháp không chịu. Vĩ tuyến 13, ranh giới Nam Bộ, là một trong những yếu tố tranh chấp giữa Pháp với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cũng không được. Thế thì vĩ tuyến 16, ta đành nhượng bộ. Cũng chẳng xong. Ta lại lùi. Sức ép tới từ hai nước anh em Liên Xô và Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc. Bàn cờ quốc tế vạch những đường ranh trên những quốc gia ven biên hai thế giới đang trở thành tiền đồn của chiến tranh lạnh. Ðông và Tây Ðức. Nam và Bắc Triều Tiên.Thế thì Nam Việt Nam và Bắc Việt Nam là chuyện tự nhiên, bất chấp người Việt Nam muốn gì. Con sông Bến Hải chia đất nước thành hai mảnh là dấu vết ô nhục, mặc dầu chiến thắng Ðiện Biên Phủ là một chiến thắng có thật. Giá phải trả lờm lợm mùi máu của bao nhiêu người đã hy sinh, rốt cuộc vẫn cứ còn câu hỏi đâu là độc lập, đâu là thống nhất? Có kẻ bảo, thì độc lập trên một nửa đất nước! Có người lại kêu, thế nào gọi là độc lập khi Trung Quốc o ép khiến ta lao vào Cải Cách Ruộng Ðất! Rồi sắp tới, sẽ cải tạo xây dựng một xã hội chủ nghĩa còn mơ hồ mà nhiều người đang mắm môi hò nhau tiến lên, bất kể quá trình lịch sử và văn hóa, và bất kể những điều kiện khách quan gắn liền quan hệ sản xuất với vận động xã hội.

Chính thở dài, giọng trầm xuống:

- Xưa thì Pháp miệng nói trưng cầu dân ý ở Nam Bộ, nhưng có làm đâu! Nay, với Genève, lại Tổng Tuyển Cử đầu lưỡi. Chỉ tay lên trời, Chính ngao ngán - và cái hy vọng gặp lại Huyền của tôi nó mong manh còn hơn sợi mây vắt trên kia! Đấy, cậu biết, 20 năm đi làm cách mạng rồi 9 năm kháng chiến để rút cuộc trở về thì trắng tay...Gà trống nuôi con mà chẳng dám nhận, miệng cứ cháu cháu bác bác, một thân một mình, đến với bạn bè đồng chí cũng phải giữ kẽ...

Gió ào đến mở toang cánh cửa sổ khép hờ nhìn ra đường, hất tung những chiếc lá bàng còn xót xuống mặt đất xào xạc. Chính đứng dậy đi ra đóng cửa. Sắp cái Tết thứ hai từ ngày hoà bình lập lại, ta đã có thêm thời gian củng cố miền Bắc để rồi sẽ tiến hành đấu tranh Thống Nhất đất nước.

Nhưng bây giờ, Chính tự hỏi, ta là ai?

Ðường phố Hà Nội rộn tiếng pháo đì đùng nổ từ lúc Giao Thừa. Sáng mồng một, người người ùa ra đón Xuân trên hè đường nhuộm hồng xác pháo. Trời ấm một cách lạ thường. Trên không chim én ríu rít, lũ lượt đảo vòng tháp Gươm, cánh chao qua lượn lại như không bao giờ mỏi. Đợi đến mồng hai, Chính ra chợ hàng Da, mua được ít mứt sen, mứt gừng, một gói trà thượng hạng bọc giấy bóng đỏ. Loay hoay mãi, Chính tìm được cho Dân một chiếc tầu làm bằng nhôm dài độ hai mươi phân. Ra bến xe, Chính mua vé đi Hải Phòng rồi về Kiến Thụy.

Mẹ Huyền mở cửa, mừng rỡ, ríu rít gọi:

- Dân ơi! Ông bác về này!

Mẹ Huyền khai rằng cha mẹ Dân mất tích. Sợ làng xóm láng giềng thóc mách, mỗi lần Chính đến thăm, bà đều bảo Chính là ông anh họ của cha Dân, và dặn Dân gọi bằng bác. Dân chạy lên từ khu vườn sau nhà. Năm nay nó vừa được chín tuổi, dong dỏng cao, trán rô, miệng nhếch lên cười. Nghe bà nó kể thì Dân bướng bỉnh, học được nhưng cứng đầu cứng cổ, hay bị phạt vì đánh nhau ở truờng. Một lần, Chính hỏi, sao con thế? Dân đáp, vì bọn trẻ cùng trường gọi Dân là thằng đẻ hoang không cha không mẹ! Chính quặn lòng, im không dám nói gì nữa, chỉ nắm tay nó.

Dân hí hửng chào, ngồi xuống cạnh bà, ta đặt lên bàn những món quà Chính mang về. Ngày Tết, nhưng nhà vẫn xơ xác. Mẹ Huyền đan rổ, rá và thỉnh thoảng vá lưới cho dân đi chài. Lợi tức còn lại, là một phần ba cái số lương ít ỏi của một cán bộ Phòng Văn Nghệ Quân Ðội tháng tháng Chính kín đáo gửi về nuôi con. Cán bộ đảng viên như Chính không một ai phàn nàn gì về chế độ lương kèm tem phiếu, nhưng đời sống bắt đầu cơ cực. Bấm bụng, họ nhìn nhau bảo đất nước ta còn nghèo, hy vọng nay mai sẽ khác.

Dân ôm chiếc tầu bằng nhôm có cắm cờ đỏ sao vàng ra mé ao. Đổ dầu lạc vào cái hộp thiếc, Chính châm lửa vào đầu bấc nhú ra từ một cái lỗ, để vào buồng lái, vặn nghiêng chiếc chân vịt. Chiếc tầu chạy vòng vòng trên mặt ao, tiếng phành phạch, phun khói đen lên trời. Mắt Dân sáng lên, hò, ra khơi nào, ra... Nhìn con, Chính cảm thấy một niềm ấm áp lạ lùng. Chính chợt nhớ đến một câu thơ của Ðặng Ðình Hưng mà Trần Dần đọc cho nghe:

‘’ Bao giờ về quê

trong khoanh một cái ao

ngồi giặt áo cả ngày...’’

Dân lại hò, ra khơi nào, ra...

Ra khơi, phải ra thôi. Mây trắng lồng mặt ao bay không xa. Chân trời là đâu? Phải đi, đến cuối biển mới đo được chiều dài của những đợt sóng ngầm. Có đi, mới có về. Ði hết biển rồi trở về trong khoanh một cái ao? Mây tụ trong khoang nước tù, chuyển sang màu rêu, đợi gió. Bất chợt, Dân cất tiếng:

- Cháu lên tầu liệu có thể đến nơi tìm thấy bố mẹ cháu không?

Chính quặn bụng xót xa, quay đi không dám nhìn con. Lát sau, Chính ngần ngừ:

- Cháu có biết truyện bà Tiên trong Tấm - Cám không? Bà ấy có đôi đũa thần, cứ ngoan ngoãn, học giỏi... thì rồi bà ấy gõ vào cái chốn không tăm tích biến nó ra thành ở ngay cạnh mình...

Dân lắc đầu, vẻ không tin, lại hò ra khơi nào, ra... trong khi chiếc tầu nhôm vẫn cứ vòng vòng trong khoảnh trời đục ngầu phản chiếu trên mặt ao. Chính dựa lưng vào gốc ổi. Cái Tết năm năm trước trên chiến khu hiện về chập chờn hư thực đọng ở cuối một giấc ngủ không ngon. Dẫn cả hai đứa con, Huyền nói thác là ra ăn Tết trên Hà Nội, nhưng lại lên An Toàn khu, nơi Chính đang công tác.Ý định lên ở hẳn chiến khu khi ấy là chuyện không thể làm được. Kháng chiến vào giai đoạn quyết liệt, chẳng ai để mẹ con Huyền ở đây. Tốt nhất, nên tránh những vùng tề, chắc chắn chiến sự sẽ lan dần đến.Vả lại, Chính thuyết phục Huyền, đã đến lúc Huyền mang hai đứa về cho cháu chào bà nội. Rồi thu xếp với Xoan để ở lại Bùi Chu, là nơi đã được giải phóng trong liên khu 4. Huyền ngại, hỏi thế nào đây cái phận người đàn bà lẽ mọn đến xin chia kiếp chồng chung với người vợ cả.Chính bảo, thế nào Xoan cũng bằng lòng. Chuyện có hai đứa bé là chuyện đã rồi. Chính viết một bức thư, bảo Huyền chuyển tận tay Xoan. Ôm hai đứa bé con vào lòng, Chính nói:

- Vì hai đứa bé, em phải đi! Ban đầu, sẽ tiếng bấc tiếng chì. Nhưng mẹ anh thương hai đứa cháu thì sẽ thương cả em, nhất là - Chính ngần ngừ - em lại chịu phận lẽ mọn! Thương con, thương anh... anh xin với em như vậy!

Huyền khóc. Nàng hiểu, sớm muộn cũng sẽ đến chỗ nàng khổ nhục vì cái thân phận của kẻ đến sau. Biết mọi hy sinh của Xoan đối với Chính và với cả gia đình nhà chồng, Huyền lờ mờ cảm thấy có chút gì tội lỗi. Như một kẻ nhặt được vật rơi bên đường, dẫu biết của ai đấy nhưng vẫn lờ đi bỏ túi. Cho đến nay, nàng vẫn không thật hiểu là tại sao nàng trao thân gán phận mình cho Chính. Dưới gầm một cái bàn thờ, chung quanh bom đạn gầm rú, gạch rơi ngói đổ, phải chăng việc nàng hiến tiết trinh cho Chính chỉ đơn thuần là bản năng chạy trốn sự chết chóc vây bủa tứ bề!

Chiều tà. Mặt trời đỏ lòm nán lại trên những đụn rơm đang chuyển sang màu tím, hắt lên mặt đất những khoảnh sáng tối lung linh chập vào nhau thành vô số hình khối đổi thay bất tận. Dầu lạc trong hộp thiếc đốt để tàu chạy cạn dần, lửa tắt ngủm, tiếng lạch phạch thưa đi. Dân vẫn hò, ra khơi này... ra... nhưng chiếc tầu ngẩn ra vô tri lì lợm. Tiếng mẹ Huyền gọi với ra:

- Dân ơi! Mời bác vào nhà xơi cơm đi, tối rồi!

Từ Cửa Nam, Chính đạp xe lên nhà Trần Dần cuối phố Sinh Từ. Sau khi đi ‘’thực tế’’ Cải Cách Ruộng Ðất ở Bắc Ninh, Dần đến cơ quan nhưng ngồi chưa nóng chỗ đã vội đi nên Chính dẫu gặp đôi lần nhưng vẫn chưa kịp chuyện trò gì. Vả lại, Dần ít nói, cần thì chỉ gục gặc khi nghe, không đồng ý thì ngước nhìn, đôi mắt không giấu được lửa rừng rực. Vì vậy, Chính lắm khi ngại nói chuyện với Dần, mặc dầu Chính biết Dần từ ngày trên chiến khu. Lần cuối gặp là khi Dần đi Trung Quốc về. Lần đó, Dần được cử đi với nhiệm vụ học tập đường lối văn nghệ của nước anh em Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa để viết thuyết minh cho bộ phim Ðiện Biên Phủ. Bỏ về sớm hơn dự định, anh em hỏi, Dần chỉ kể lại những chuyện hóm hỉnh:

‘’ Các cậu ạ! Trung Quốc đang xây dựng một nền dân chủ nhân dân, cái gì cũng có, cũng kế hoạch. Thế này nhé, tớ ngồi ở nhà khách Thành Ủy Nam Ninh với Ðỗ Nhuận, khát quá mới rón rén hỏi. Một đồng chí ra, rất lịch sự: đồng chí uống gì? Hỏi lại, có gì, đồng chí ấy đáp: ở đây gì chúng tôi cũng có! Nhuận với tớ cần pro-tê-in, xin: cho chúng tôi hai cốc sữa! Rồi chờ. Cứ thế chờ mãi đến nửa tiếng, một đồng chí cần vụ tay cầm hai cái cốc, cùng một đồng chí khác đi ra. Ðồng chí này to, khỏe, da hồng hào, đến vạch vú rồi bóp. Xì, xì... sữa đầy được một cốc. Ðồng chí cần vụ lạnh lùng vào. Nhuận và tớ nhìn nhau. Còn một cốc. Thế là lại chờ. Một giờ, hai giờ. Ðồng chí cần vụ lại xuất hiện, với một đồng chí khác. Lại vạch vú, lại xì... Thế là được hai cốc. Ðồng chí cần vụ bấy giờ mới bảo: sữa tươi đấy! Ðúng, ly sữa trắng còn ấm. Ðồng chí cần vụ đi vào, hai đứa chúng tớ mới dám cầm cốc lên uống. Ðúng, sũa tươi. Uống được một nửa, tớ dặn Nhuận, lần sau xin gì thì xin, chớ xin uống bia hơi, chắc không được lạnh!’’.

Tại chỗ, anh em nghe rồi cười phá lên. Nhưng sau, có tiếng xôn xao. Người yêu thì cười, nhưng kẻ ghét kêu ca là nói thế thì như chửi vào mặt đồng chí anh em môi răng với mình. Chính phải gọi Dần lên, dặn cậu bông phèng kiểu này phiền lắm. Dần trợn mắt, chuyện này thật một trăm phần trăm, tôi chỉ thêm vào cái bia hơi thôi. Phì cười, Chính ghìm lại, cố lấy giọng nghiêm trang, hỏi ‘’...thu hoạch chuyến đi thế nào?’’. Dần bảo ‘’ Cái món lý luận văn học xã hội chủ nghĩa ở Diên An khó nhằn lắm. Tôi thì tôi cứ theo cái đề cương văn hóa của đồng chí Trường Chinh ta!’’. Diễn văn Diên An là bài tổng kết về đường lối văn nghệ ở Trung Quốc do Mao chủ tịch đọc. Còn đề cương của Trường Chinh, viết từ năm 43, dựa dẫm trên văn bản của Garaudy, Ủy viên Ðảng Cộng Sản Pháp, chủ trương kết hợp chính sách mặt trận bình dân với đường lối văn học Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nghe Dần nói, Chính dặn ‘’...cậu viết báo cáo, nhưng đừng đi nói đùa linh tinh, và thôi cái chuyện bia hơi đi hộ! Nguyễn Chí Thanh hỏi Trần Ðộ, khiến Ðộ cứ loanh quanh chống đỡ, nhọc lắm, nhắn mình nói lại để cậu thông cảm!’’.

Chính dựng xe, nhìn số nhà rồi gõ cửa. Vợ Dần là Khuê ra mở. Chính vào, nhìn quanh. Một căn phòng, đúng hơn là một cái nhà. Cái giường ở một góc. Góc kia, bàn và hai chiếc ghế. Ngọn đèn hoa kỳ, chiếc điếu cầy. Và đống bản thảo chồng chất dưới gầm giường. Dần ra, ngạc nhiên:

- À anh!

Dần nhìn Khuê, dặn pha trà, rồi ra ngồi trước mặt Chính. Tay chìa cho Dần tờ Giai Phẩm Mùa Xuân, Chính nói:

- Trên ra lệnh xét kỹ lại xem có nên thu hồi tờ báo này hay không, cậu biết chưa?

Lắc đầu, Dần mỉm cười, kháy:

- Vì sao? Anh ‘’ trên’’, chắc anh biết!

- Không! Không biết chi tiết, nhưng có người nói riêng, là vì cái bài này!

Chính lật tờ báo, chỉ tay vào bài thơ ‘’ Nhất định thắng’’. Dần nhíu mày, nét mặt căng lên, giọng thách thức:

- Anh không đồng ý?

- Không phải là đồng ý hay không đồng ý! Bây giờ, ai đi đường ở Hà Nội cũng lẩm nhẩm ‘’ Tôi vẫn đi, không thấy phố thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ...’’

Mắt Dần sáng lên:

- A, thế thì may cho bài thơ!

Chính trầm ngâm:

- Nhưng còn nhà thơ?

Khuê bụng chửa vượt mặt, ra ngồi mép giường gần chiếc bàn, ý nghe ngóng. Chuyện Dần xin giải ngũ để lấy Khuê vì bộ đội không cho phép ai cũng biết. Khuê gốc tư sản, công giáo, lại gia đình đã đi Nam, thuộc diện có quan hệ xã hội phức tạp. Dần báo cơ quan là hai người ‘’chót dại’’, Khuê mang thai và quyết định cùng Khuê chung sống. Nhìn ánh mắt lo ngại của Khuê, Chính ngừng nói, tay với chén nước uống dở. Không muốn nói gì thêm, Chính lái chuyện:

- Ðộ bao giờ anh chị có tin vui? Nhìn quanh, Chính tiếp - Cái gian này bé quá, có cháu sẽ chật lắm đấy...

Khuê cười ngượng nghịu. Chính nói dăm câu qua loa cho có rồi xin kiếu, rủ Dần cùng đi với mình lại nhà Văn Cao. Hiểu ý, Dần theo Chính. Hai người đạp xe, vừa đạp vừa nói chuyện.

- Tôi được báo cậu sẽ là đối tượng đấu tranh. Nghe đâu quyết định này đến từ Trung Ương...

Dần cười, cái cười ngạo nghễ. Sợ hiểu lầm, Chính tiếp:

- Không phải tôi, hay ai đó cử tôi, đến tranh thủ cậu đâu. Tôi cũng đệ đơn xin giải ngũ rồi...

Ngạc nhiên, Dần hỏi:

- Vì sao? Chuyện của tôi, thì ai cũng rõ, tôi muốn thoát vòng kỷ luật của bộ đội để có thể lấy Khuê. Anh thấy đấy, chúng tôi sắp có con, làm sao mà tôi làm khác đi được. Ngoài tình yêu trai gái, còn cái hạt máu trong bụng, bỏ đi thì làm người thế nào được!

Chính chậm rãi:

- Phần tôi, lý do là nay hòa bình. Dẫu còn non trẻ, nhưng hòa bình cho tôi thấy rõ những mất mát trong chiến tranh. Ðó là những mất mát phải hàn gắn, và chỉ có thế, con người mới lớn lên để xây dựng một xã hội mới...

Dần ngắt:

- Tôi vừa đi thực thế Cải Cách Ruộng Ðất đợt năm về. Trề môi, Dần trợn mắt - Ôi, hòa bình rồi đấy chứ! Thế mà con người đang vỡ ra thành mảnh để đổi lấy ‘‘quả thực’’, ba sào ruộng chia bình quân...

Chính vòng người nhìn Dần, giơ tay chặn:

- Tôi biết... và vì thế, ta biết là hòa bình còn non trẻ. Cái xã hội ta muốn xây dựng còn ở trước mặt. Nuốt nước bọt, Chính ngập ngừng... Bởi nó còn ở trước mặt, nên tôi vẫn hy vọng. Nay tôi về công tác ở sở Văn Hóa của thành phố, báo để cậu biết!

Hai người ngừng xe cuối phố Yết Kiên. Dần băn khoăn:

- Anh có hiểu vì sao họ chọn tôi làm đối tượng đấu tranh không?

- Tôi đoán, cậu giải ngũ nên bên quân đội không đỡ được cho cậu nữa. Thứ là cái chuyện năm ngoái cậu tham gia vào cái ‘’ Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa’’ với Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Tích Linh... đòi trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Người ta gọi các cậu là ‘’ vô chính phủ’’, là những kẻ ngóc đầu rắn tiểu tư sản rình cắn vào lập trường giai cấp... Cuối cùng, chuyện này cá nhân, nhưng lại không phải là chuyện nhỏ: trong bài ‘’ Cái nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu’’, cậu có quá lời, viết là Tố Hữu nhìn vấn đề gì, vấn đề ấy thu hẹp lại. Và yêu ai, người ấy nhỏ đi. Rồi cậu còn đồng ý với Hoàng Cầm và Lê Ðạt, kết rằng thơ Tố Hữu là kiểu thơ tiểu tư sản chưa theo kịp Cách Mạng!

Dần bật cười:

- Ðúng, đúng thế...

- ... người ta cho là cậu đánh phá lãnh đạo, mục đích triệt hạ uy tín Ðảng!

- Tôi là đảng viên. Tôi triệt hạ uy tín loại thơ vè thì đúng chứ tôi triệt hạ uy tín Ðảng để làm gì?

Chính nhấc xe đạp lên lề đường, mắt ngước nhìn tầng hai căn nhà cuối phố Yết Kiêu, miệng thủng thẳng:

- Tôi kể, để cậu sửa soạn mà đối phó. Cậu lên chỗ Văn Cao với tôi chứ?

Dần lắc đầu. Chính lên, quay lại dặn với:

- Nhớ kín miệng hộ nhé!

Vũ Ðình Huỳnh lấy tay nhấn mạnh vào bụng, mặt nhăn nhó, không nói gì. Ðồng chí lái xe bóp còi rẽ sang phố Trần Hưng Ðạo. Chiếc xe Jeep chở Vương Thừa Vũ đi thẳng. Vũ ngoái cổ, giơ tay vẫy, miệng nhếch lên cười. Huỳnh khẽ rên, nhưng kìm lại.

- Anh lên cơn đau bụng à? Chính hỏi

Huỳnh gật. Tưởng về thẳng nhà, bất ngờ Huỳnh nói đồng chí lái xe chạy thẳng lại Phủ Chủ Tịch. Tay vẫn ôm bụng, Huỳnh bảo đợi, rồi bước thấp bước cao, chống gậy đi thẳng vào.

Khi ra, Huỳnh cau có, nét mặt không vui. Rủ Chính về ăn cơm tối, Huỳnh bảo, cậu độc thân đi đâu mà chẳng được. Bước vào nhà, Chính đã thấy Ðặng Kim Giang và Nguyễn Hữu Ðang. Giang nắm cánh tay trái của Chính, vồn vã:

- Phục hồi được bao nhiêu phần trăm?

- Mười, mười lăm gì đó! Nếu tai qua mà nạn không tới may ra phục hồi được độ sáu mươi phần trăm!

Thấy mọi người ngạc nhiên nhìn mình, Chính giải thích:

- Ấy, tai là bom Tây, còn nạn là tôi bị một cậu đội trưởng đội Cải Cách xã quật cho một hèo...

- ???

- ...mình về quê, nghe là mẹ bị qui địa chủ. Nhưng vừa về đến nơi thì bị chộp ngay. Không muốn nói gì thêm, Chính nói lảng - chuyện tôi thì cũng giống chuyện Vương Thừa Vũ trưa nay, không có anh Huỳnh thì chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra!

Huỳnh kể, sáng nay tình cờ một cán bộ trẻ sở Văn Hóa từ Thanh Hóa về kể việc một chiếc xe Jeep bị dân quân chặn lại bắt, trói giật cánh khuỷu một thiếu tướng mặc quân phục lẫn đồng chí lái xe và đồng chí hậu cần. Anh cán bộ này vốn là Tự Vệ Thành ngày xưa, nhận ra Vương Thừa Vũ, vội báo cho Chính. Hoảng hồn, Chính lập tức điện thoại cho Huỳnh, người trách nhiệm Ðại Đoàn Cải Cách ven đô. Thế là hai người đi thẳng ra Hà Ðông, ‘’giải cứu’’ cho vị tướng vừa được phong là Anh hùng Quân Ðội sau chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Huỳnh tiếp:

- Trăm chuyện thì cũng vì cái nghị quyết chỉnh đốn tổ chức. Nhân đó, lộng lên cứ muốn làm gì thì làm. Mặt lại nhăn, Huỳnh tiếp - mình vào gặp Ông Cụ, hỏi người ta đang giết đồng chí mình mà Bác ngồi yên được sao?

Ðang chen vào:

- Thế Ông Cụ nói thế nào?

Không đáp câu hỏi, Huỳnh bực bội:

- Nói thì chỉnh đốn tổ chức cấp Xã, sau leo lên Huyện và không cản lại ngay thì rồi sẽ Tỉnh, sẽ Trung Ương...

Giọng mỉa mai, Ðang đâm ngang:

- Thì Ông Cụ bảo, tổ chức cũ là tổ kén không nên dựa vào mà!

Giang vẫn ở trong quân đội, nay đã thăng Thiếu Tướng, từ tốn:

- Quả là sau Tổng Khởi nghĩa chỉ độ hai ba tháng, khi những Ủy Ban hành chính thường là những người đã được vận động đi đánh cướp kho gạo của Nhật thì... khó kiểm soát thật. Dân nhiều nơi bị các vị này sách nhiễu, từng ca thán...

- Anh đúng nếu đó là tình hình cuối năm 45, đầu 46. Khi Kháng Chiến Toàn Quốc năm 47, ta rút vào bí mật. Ở những vùng tề - ngụy thì đám lao đao ‘’ dinh tê’’ nhiều, chỉ cán bộ trung kiên mới trụ lại. Ðó là cái bây giờ người ta gọi là ‘’ tổ chức cũ’’!

Ðang chép miệng, tiếp:

- Tôi không nói ai cũng tốt, nhưng cứ đổ đồng ra mà đánh toàn bộ thì không tránh được đánh oan. Rồi chẳng biết thế nào mà hô chủ trương ‘’ sai còn hơn sót’’! Nhưng tránh sót một, mà sai thì sai bao nhiêu? Nhất là những kẻ được đi đánh đều là loại mới kết nạp. Các anh biết đấy, rễ rồi chuỗi ở nông thôn bây giờ là đại đa số đảng viên. Có nơi thi đua đấu tố kết hợp với ‘’ thi đua kết nạp’’. Ðịa chủ, phải ‘’nống’’ lên cho đủ năm phần trăm, thì kết nạp tất cũng năm phần trăm đảng viên. Có vùng những kẻ ‘’ lên’’ đảng làm lễ tạ ơn gia tiên, bắt cả làng đóng góp liên hoan, mổ trâu mổ lợn...

Huỳnh lại nhăn mặt, tay chặn vào bụng. Chị Huỳnh nhỏ nhẹ hỏi chồng:

- Lại đau à! Anh uống thuốc không?

Lắc đầu, Huỳnh xua tay, gượng cười, nói với bạn bè:

- Cái gan tôi ấy mà! Nó hành từ cả tháng nay...

Ðang châm chọc:

- A cái thời gan không còn, mật cũng mất!

- Anh là chúa khiêu khích. Coi chừng, Huỳnh lại cười, có kẻ gọi anh là agent provocateur đi khiêu khích đấy!

Thật thà, Giang dặn:

- Ừ... anh Huỳnh không nói đùa đâu. Khéo mà vạ miệng!

Bấy giờ, nhìn đám đồng chí xưa đã hoạt động nội thành thời cướp chính quyền, Ðang nghiêm trang:

- Sắp tới, anh em trong báo Văn Nghệ nơi tôi công tác xì xào là cũng sẽ có đấu tố. Hiện, đã bí mật ‘’diễn tập’’ từ khi thu hồi Giai Phẩm Mùa Xuân. Anh Chính nay về sở Văn Hóa, anh có biết gì hơn không?

Chính cẩn thận:

- Tôi cũng nghe, nhưng chuyện đấu tố thì chưa! Tôi biết, Trung Ương bảo phải uốn nắn, thế thôi... Quay qua Huỳnh và Giang, Chính hỏi, các anh đọc Giai Phẩm Mùa Xuân chưa?

Giang gật, lo lắng:

- Ðấu tố là đấu tố thế nào? Có phải Cải Cách Ruộng Ðất đâu...

- Thì Cải Cách cái đầu. Ðầu bùn có khác gì ruộng đất - Ðang lại đâm ngang - Các anh biết chuyện Hồ Phong bên Trung Quốc năm ngoái chứ?

Huỳnh lắc đầu.

- Hồ Phong công khai tự phê. Mấy tháng sau, bị bắt đi lao cải...

Chị Huỳnh trước cùng hoạt động với chồng, nay công tác phụ nữ, xen vào, giọng có chút trách móc:

- Thôi, các anh ơi... Một đồn mười, mười đồn trăm, là rồi cứ rối tinh lên. Mới tiếp quản có già một năm, chập chững là đương nhiên, sai đâu sửa đấy!

Chính bật cười:

- Nhưng chị ạ, dân người ta có câu hỏi, sai đấy sửa đâu, thì trả lời thế nào hả chị!

Hội Văn Nghệ triệu tập họp. Hội nghị gần một trăm năm mươi văn nghệ sĩ, đa số nghĩ là buổi họp đầu năm, nhắc lại nhiệm vụ, phác họa công việc... Nhưng bất ngờ, bài báo cáo của Hoài Thanh, nhà phê bình hàng đầu, về bài thơ ‘’ Nhất định thắng’’ là đề tài chính. Ðây là một vụ xử án. Bị can là Trần Dần. Tội phạm, một bài thơ. Công tố viên, gồm Hoài Thanh và một số con rối làm cò mồi. Bên bị, luật sư bào chữa có dăm người bạn văn. Tất cả diễn ra trong một hội trường, tường treo trên cao một băng vải đỏ kẻ ba chữ vàng Ðộc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc. Và ngay dưới, bức ảnh Hồ Chủ Tịch miệng mỉm cười với ánh mắt hiền hòa. Hoài Thanh đọc. Trần Dần mặt tím như đá. Không khí quạnh lại. Bản án đã gần một tiếng đồng hồ. Ðọc xong, im lặng. Chợt có tiếng vỗ tay cò mồi. Vỗ tay cũng có lãnh đạo. Thế là pháo, pháo tay, một tràng, rồi thêm một tràng, nổ đôm đốp. Có kẻ vỗ, mặt cúi xuống. Có kẻ vỗ, vênh vang ta đây. Người vỗ, lắng nghe xem kẻ bên cạnh có vỗ thật hay chỉ vỗ hờ. Số không vỗ tay, cũng có, nhưng ít, đâu độ chục người, mặt căng ra, cố giữ điềm tĩnh.

Con rối 1: Những kẻ bỏ miền Bắc đi di cư, anh tả họ khóc và hỏi, họ có gì thất vọng? Nhưng câu trả lời, anh lờ đi. Anh lại viết

Trời vẫn quật mưa vào giông gió

Bắc Nam ơi đứt một chia lìa

Tôi cúi xuống quì xin mưa bão

Chớ đổ thêm lên đầu họ, khổ nhiều rồi

Họ xấu số, chớ hành thêm họ nữa...

Ai hành hạ họ? Mưa bão nào? Chế độ ta làm mưa làm bão, có phải anh định nói thế hay không?

Bị can ( cười nhạt): Không!

Con rối 2: Thì ngay sau đó, anh rên:

... không thấy phố không thấy nhà

chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ

Rồi anh kể người con gái đi xin việc:

Em đi trong mưa

Cúi đầu

Nghiêng vai

Người con gái mới mười chín tuổi

Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi

Bóng chung đè lên số phận từng người

Miền Bắc xã hội chủ nghĩa là nơi không có việc, lý do để người ta đi Nam? Ðó là cái bóng chung, có đúng thế không?

Bị can ( cười nhạt): Không!

Lời bào chữa 1: Cái kiểu trích đoạn rồi gán ghép ý đồ thì đến thơ Tố Hữu cũng có thể muốn qui chụp gì cũng được. Phải đọc toàn bài, phải nhìn tổng thể!

Ðám đông ( có cò mồi) ; Ồ, ồ... im đi!

Công tố viên ( gằn): Trần Dần có nhận mình lập lờ biểu tượng hai mặt không? Có hay không?

Bị can cười nhạt, đưa tay vuốt ria mép.

Công tố viên gằn, có hay không?

Cò mồi 3: A... a, vô chính phủ, muốn khiêu khích quần chúng hả?

Con rối 4: Lập trường giai cấp anh đâu?

Bị can rút túi lấy thuốc lá châm trong tiếng a, tiếng ồ như vỡ chợ.

Lời bào chữa 2: Không có vấn đề giai cấp ở đây! Cáo buộc như vậy là chụp mũ...

Ðám đông: Ô ô... ngoan cố!

Công tố viên (đứng dậy): Phản động!

Cò mồi 4 ( reo): Ðúng, đúng rồi! Phản động chống Ðảng!

Đám đông hùa theo: Phản động, đả đảo phản động!

Công tố viên ( lớn tiếng): Trần Dần, anh có chịu khuất phục quần chúng không?

Bị can chép miệng, thở khói thuốc thành hình chữ O:

- Tôi không làm cái nghề chịu khuất phục đó! Tôi làm thơ!

Ðám đông: A... a... ô... ô...

Dĩ nhiên, quần chúng lại thêm một thắng lợi. Bị can thế là có tội không chịu khuất phục. Đám luật sư bào chữa tay sờ lên gáy, lủi thủi ai về nhà nấy.

Cùng thời điểm nhà thơ Việt Nam ương ngạch bị bắt bỏ tù thì nổ ra một tiếng sét long trời lở đất ở Mốt-xcơ-va. Trong Ðại Hội thứ XX của Ðảng Cộng Sản Liên Xô, Krút-Sốp đọc báo cáo mang cái tên Về tệ Sùng Bái Cá Nhân và những Hậu Quả của nó. Đại Hội hạ bệ Stalin và phục hồi danh dự cho những người phản kháng Stalinít, những khoa học gia, văn nghệ sĩ bị giết, bị kết án và trù dập dưới một chế độ nhà tù mọc khắp miền Tây Bá Lợi Á. Phải chăng, một luồng gió mới đang cất lên từ thành trì vững chắc nhất của khối Xã Hội Chủ Nghĩa? Stalin độc đoán. Stalin khát máu. Chuyên chính vô sản bị đánh tráo, trở thành công cụ áp bức xã hội. Nhưng người ta chỉ lướt qua cơ chế, lờ đi nguyên nhân sâu sa đưa đến cách tổ chức một xã hội độc tài toàn trị, tất cả qui về một cá nhân Stalin, tên cai tù vĩ đại trong lịch sử nhân loại.

Cứ cho là có một làn gió mới, nó vẫn mang cái lạnh buốt đầu đông Hà Nội, vùng ngoại vi xa lắc của trung tâm quyền lực Mốt-xcơ-va. Gió thốc qua những chấn song sắt. Gió lùa vào căn phòng bốn mét vuông trong có một cái giường gỗ mộc, trên đắp manh chiếu như đắp một cái xác người sắp bó để nhập quan. Dần châm điếu thuốc cuối cùng, ngơ ngẩn nhìn cụm khói tan ra mỏng mảnh rồi biến vào không trung lạnh tanh. A, cái giấc mơ. Mơ từ những ngày khói lửa đến một ngày hòa bình để viết, viết và viết. Hết chiến tranh mới có thời giờ hiểu chiến tranh. Trong chiến tranh chỉ đánh và đánh. Không đánh thì học và học. Hết kiểm điểm, đến đả thông. Rồi hội ý để họp. Họp tổ tam, tổ ban, tổ đảng. Rồi họp toàn ban tiểu đội, trung đội, sau họp đại đội. Chỉ họp thôi, là đã thiếu thời gian. Cho nên trong chiến tranh, thèm hòa bình vì thèm được nhìn một vì sao.Thèm nghĩ tới quê hương và mơ có một người yêu. Cho nên, thời chiến là một thời nông, cụt, sôi nổi, nhưng chẳng ai có thể lắng mình vào chiều sâu trong kích thước chính mình. Cho nên, thời chiến là điều kiện cần để người ta hiểu mà trân trọng thời bình, thời mang ước vọng mỗi người có thể tìm lại được mình, từ đó nhận ra những con người khác.

Dần mở tờ báo Văn Nghệ đầu tháng ba, liếc cái tít ‘’Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ ‘ Nhất định thắng’ của Trần Dần’’ do Hoài Thanh chấp bút. Thế này, người ta đã công khai kết tội tên làm thơ. Thơ phản động, tất nhà thơ phải phản động. Hệ luận là bẻ gãy ngòi bút của nó, tên phản bội cách mạng, tên đầu hàng giai cấp. Nhưng như vậy, bẻ bút đồng nghĩa người ta cướp giật cuộc đời nó. Trần Dần thầm nhủ, rồi nhìn hai tay, hai chân. Mắt hoa lên, hai tay cứ cụt dần. Rồi hai chân rút lại, rút đến đầu gối. Có thể nào một con người hóa thành ra con vật bốn chân? Một thứ gia cầm? Một con chó? Như thế, sống để làm gì?

Ðừng đặt câu hỏi đó! Thôi, Dần tự nhủ, hãy tập trung suy nghĩ về chuyện thời chiến - thời bình. Phải, thời chiến cũng có những rèn luyện. Biết chia xẻ với đồng đội. Hiểu rằng sinh mệnh mình không chỉ tùy mình mà còn phụ thuộc những kẻ đang cùng một chiến tuyến trước kẻ thù. Sự đoàn kết đó là điều kiện sống còn trước một kẻ thù chung. Toan tính ích kỷ, riêng tư, có đấy nhưng nhạt đi vì cái bản năng sinh tồn cộng thể. Con người như cá thể mờ dần, trở nên dễ bảo, dễ dạy. Và tin vào lãnh đạo, vào chỉ huy, như tin vào định mệnh, vào Thượng Ðế. Quân ngũ là cái xã hội thời chiến thu nhỏ. Trước cái chết ai cũng như ai, vì thế khi sống thì nên sống thế nào? Một xã hội ăn, bình quân. Ngủ, bình quân. Mệnh lệnh là mệnh lệnh. Quân kỷ là tất yếu. Và sẵn sàng hy sinh, như những Thánh tử vì đạo. Có người tự nguyện mang thân mình ra nằm cản bánh xe kéo pháo tuột dốc ở Ðiện Biên. Có kẻ lao vào chặn lỗ châu mai, đạn xé ngực mình để đồng đội xung phong. Trong lúc đạn bay bom nổ, họ đột nhiên thành anh hùng. Bản năng sống còn của giống nòi đã khiến họ không sợ cái chết tư riêng. Nhưng khi trận mạc xong, họ mới lại biết sợ. Và không chết, thì thào bảo nhau thế là số mệnh. Có ông thần chiến tranh, cho sống và bắt chết. Những kẻ còn sống tôn vinh người không may chết đi làm anh hùng liệt sĩ. Ðể giữ khả năng có những anh hùng liệt sĩ khác, nếu chiến tranh tiếp tục, và cứ thế...

Nhưng tại sao, Dần thầm hỏi. Đọc lại ‘’Người người lớp lớp’’ do chính mình viết, Dần thấy nó xa lạ như người dưng. Tại sao nay mình không còn cảm được bất cứ một cái gì? Có lẽ vì cuốn tiểu thuyết ba trăm trang kia không chuyên chở hết sự thật. Có lẽ nó một chiều, nó tuyên dương. Nó đúng chính sách. Vì vậy, nó hạn hẹp? Vì vậy, nó là cái bào thai bị sẩy, là đống thịt máu còn bầy nhầy chưa kịp mang hình dạng một con người? Lần bị quân kỷ, trong ba tháng kiểm thảo, Dần được gợi ý là chỉ nên tiếp tục viết về đề tài chiến tranh. Trong chiến tranh, có khói súng trên chiến trường. Nhưng đồng thời, Dần nghĩ, cũng có khói cơm chiều bốc lên sau những mái tranh, hẹn một bữa cơm gia đình với con thơ vợ trẻ. Trong chiến tranh, có những chiến sĩ, người bần cố, người con cái địa chủ. Kẻ là công nhân, kẻ con tư sản. Người đi buôn và kẻ bị buôn. Người anh hùng, kẻ nhút nhát. Có chiến sĩ cố nông xông vào lửa đạn quên mình. Cũng có chiến sĩ cố nông chui sau xó bếp, rắp ranh túi áo giá cơm. Có chiến sĩ không phải cố nông nhưng cũng xông vào lửa đạn quên mình. Và cũng có những kẻ không phải cố nông rắp ranh dinh tê, thập thò lẩn trốn. Dần tự nhủ, còn tiếp tục viết, tôi sẽ kể chuyện người anh hùng bỗng một hôm đâm ra hèn nhát. Và kẻ hôm qua hèn nhát trở thành anh hùng. Người bắn địch, và kẻ tự bắn mình bị thương để xin về hậu tuyến... Nghĩa là tôi sẽ nói về những con người có thật. Những chiến sĩ tự giác, gian khổ hy sinh vì quê hương đất nước. Nhưng tôi cũng sẽ nói về những chiến sĩ xông lên chỉ vì sự lôi cuốn của một tập thể cuồng nộ hò hét. Sau cơn say sưa, họ nghĩ lại, thấy chính mình và mới sợ, rồi kín đáo chắp tay cám ơn Trời Phật.

Vâng, tôi sẽ viết về chiến tranh nhưng với với mục đích để nói tới hòa bình.

Cán bộ Quân huấn đặt vấn đề. Viết như thế để làm gì? Cho ai? Viết về Sự Thật! Nhưng sự thật vì sự thật sao? Không có chủ nghĩa sự thật. Cuộc sống không chỉ ‘’là’’, nó là cái ‘’phải’’ là và nó trở thành vậy như một sự tất yếu. Văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa mang một sự thật, và đó là cái Cách Mạng vươn tới bồi đắp cho một tương lai của tất cả những người cùng khổ.

Đấy, quan điểm chính thống đấy, anh trả lời thế nào? Dần gom trí nhớ. Bản kiểm thảo như hiện ra trước mắt:

‘’...Tôi hiểu rằng không có gì đẹp hơn, không có gì cao cả hơn, không có gì Cộng Sản hơn là: Sự Thật không tô điểm. Sự Thật trần truồng. Và cũng không có gì yếu ớt hơn, phi Cộng Sản hơn là Sự Thật tô điểm, Sự Thật mặc áo hồng, áo xanh, áo hoa. Tôi nói rằng, dù áo hoa có thích hợp, dù sự tô điểm đó là tô theo phương hướng thực của cuộc sống thực, thì cái áo đó và sự tô điểm đó vẫn cứ không đáng tán thành... Màu da của cuộc đời trần truồng, đó là tất cả cái bộ áo của trần gian... Chính vì vậy mà tôi muốn viết về chiến tranh telle qu’elle est. Mười cây số máu, xương phơi đầy đường. Người đáng sống thì chết. Kẻ đáng chết thì sống mãi. Tôi tưởng rằng, nếu mà nói giáo dục, thì không gì giáo dục hơn là Sự Thật. Chiến tranh cởi truồng có thể giáo dục chiến tranh, lại giáo dục cả hòa bình...’’

Đọc xong bản kiểm thảo, cán bộ quân huấn vứt toạch lên bàn, lẩm bẩm nói dỗi:

- Thôi thì đồng chí đừng viết về chiến tranh!

Ðược, và thế là có bài thơ ‘’Nhất định thắng’’ viết cho thời bình. Ít lâu sau, đích thân Trần Ðộ gặp Dần. Giọng nhỏ nhẹ, Ðộ nói:

- Quân đội chấp nhận đơn xin giải ngũ của anh. Tôi cũng được đọc cái ‘’ thu hoạch’’ mới nhất anh vừa viết.

- ...

- Trả anh về với dân sự, quân đội sẽ không còn trách nhiệm gì với anh, nghĩa là không bảo vệ được anh và ngược lại anh cũng không còn trách nhiệm gì với quân đội. Anh Nguyễn Chí Thanh bảo, đưa anh qua cho anh Tố Hữu quản lý...

- ...

- Chuyện này là tình riêng, tôi nói nếu anh cho phép......Anh cẩn thận. Xã hội dân sự chỉ mới manh nha trong một hòa bình non trẻ, anh ạ! Phải cẩn thận. Bút sa, gà chết!

Nói xong, Ðộ trao trả Dần bản thảo bài thơ ‘’ Nhất định thắng’’.

Dần xoay mặt về phía ánh sáng hắt từ chấn song, vẽ lên mặt đá những cái vạch tù ngục. Mở tay nải, Dần nhìn. Dăm bao thuốc, tí đường, một lưỡi dao cạo mới. Khuê mang vào Hỏa Lò hôm qua, đứng nhìn nhau được mười phút. Khuê xoa bụng, giọng có nước mắt, nhưng giả vui ‘’...con so nó đạp khỏe lắm! Ðêm nó đạp đến phải thức dậy, ngồi lên...’’. Dần thèm xáp lại gần, để tay lên xem con nó đạp. Nhưng giữa hai người, có một khoảng cách và hai chấn song làm bằng sắt. A, giá mà con đạp đổ được cả hai chấn song, bố sẽ ra ôm lấy mẹ, lấy con! Tội nghiệp. Mẹ lại lủi thủi đi ra. Chắc lại khóc. Thôi thì con an ủi mẹ cho bố. Không ai chết vì một bài thơ đâu. Dần thò ngón tay trỏ, chấm vài hạt đường để vào lưỡi. Cái ngọt thấm vào, có chút lai láng đầm ấm của tình yêu, rồi pha vị đắng, đắng dần, mỗi lúc một đắng. Một hạt đường rơi. Lát sau, dăm con kiến đen bò tới. Chúng nó bắt đầu khuân hạt đường, hệt như dân công quanh vòng đai Ðiện Biên Phủ. Thình lình, dăm con kiến vàng ra chặn đường. Chiến tranh giữa hai loài kiến bắt đầu. Dần thò tay ra gạt kiến ra như can ngăn. Đấy, hoà bình còn non trẻ, nhưng cũng là hoà bình. Tay Dần chạm vào lưỡi dao cạo. Thôi thì viết về hoà bình. Một hoà bình sâu sắc gấp mười gấp trăm chiến tranh. Với những con người không còn chiến tuyến và kẻ thù.

Nhưng ai cho mày viết nữa? Ai cho một thằng phản động viết, hả Trần Dần? Cảm giác một tên khổng lồ giằng cướp giấy bút khiến Dần lồng lên như một con thú phát dại, tay giơ lưỡi dao cạo lên đe dọa bóng tối đang chực đổ xuống đánh úp đời mình.

Sinh hạ xong con bé Kha được ba ngày, Khuê vào ngay Hỏa Lò. Nàng lấy làm lạ là đã nhờ Thúy, vợ Lê Ðạt, tìm cách nhắn Dần mà bặt vô âm tín. Bình thường, Dần thế nào mà chẳng nhắn ra cho vài chữ. Ở Hỏa Lò, cán bộ bảo, không có người nào tên Trần Dần. Khuê điếng người, vật nài. Sau, người ta nói anh ấy đi rồi. Ði đâu? Nhà thương. Nhà thương nào? Chúng tôi không biết!

Khuê đến thẳng Hội Nhà Văn trên phố Trần Hưng Ðạo. Cán bộ trực lạnh nhạt, đánh một câu, không biết Trần Dần là ai. Khuê ấm ức, tay chùi nước mắt. Thế thì xin ông cho gặp ông Lê Ðạt. Cán bộ trực thõng: đi vắng! Thật may cho Khuê, lúc ấy Phùng Cung đang dắt xe đạp đi vào cổng. Khuê níu lấy, oà lên khóc. Nhà thương? Phùng Cung gặng. Nhưng nhà thương nào? Phải tìm, tìm ngay. Trưa hôm đó, cả đám Hoàng Cầm, Lê Ðạt, Phùng Quán, Tử Phác... nhốn nháo đi hỏi tứ phương. Ðủ loại bệnh viện, dân y cũng như quân y. Ðến chiều, Hoàng Cầm gặp Khuê:

- Chị đi với tôi. Anh ấy ở viện 303.

Khuê ôm con, tất tả bước theo Cầm, gọi xích lô. Bé Kha khóc oe oe, đạp tung tấm chăn len mỏng đắp bụng. Cầm đạp xe bên cạnh, không nói gì. Ðến bệnh viện, Cầm đưa hai mẹ con Khuê đi dọc một hành lang thông thống. Gió thành luồng, thổi như cướp hơi thở, rít lên đay nghiến. Ðến cửa, căn buồng đã có bốn người trong đám năm nhà thơ của cái Giai Phẩm Mùa Xuân quái ác kia đều ở đấy. Họ lách ra để Khuê nhảy xổ vào cạnh giường Dần nằm, cổ băng bó, máu vẫn hoen ra lớp băng trắng quấn quanh.

- Ối anh ơi là anh ơi! Anh làm gì thế! Ðịnh bỏ mẹ con em mà đi à?

Ngước mắt nhìn Khuê, Dần cố nhếch miệng, hỏi:

- Con đâu?

Khuê đưa bé Kha vào tay. Dần ôm lấy.

- Con gái anh đấy!

Dần nâng con bé lên, nhìn chằm chằm. Bé Kha giãy giụa, lại oe oe khóc, ưỡn người, chân choi choi đạp. Từ đôi mắt lúc nào cũng rừng rực lửa, nước mắt Dần ràn ra, từng giọt lăn qua những sợi râu cằm tua tủa. Bấy giờ, Dần áp bé Kha vào ngực, miệng bật một tiếng, nghẹn như có kẻ ấn tay vào chẹt cổ.

Bạn bè bỏ ra ngoài. Chỉ còn Khuê. Nàng ôm cả Dần lẫn con vào một vòng tay quá hẹp. Khuê cố kìm tiếng khóc, ấm ức nuốt nước bọt ừng ực. Giọng như vừa thoát một cơn mơ dữ, Dần thều thào:

- Anh xin lỗi em. Anh xin lỗi em...

Khuê nức lên:

- Anh đừng bao giờ bỏ mẹ con em như thế! Ðừng bao giờ nữa... Sống chết có nhau.

Dần xiết lấy Khuê, đầu gật, nhưng cái đau vết cắt mạch máu cổ khiến Dần nhăn mặt. Máu lại ứa ra. Dần nhếch mép. ‘’ A cái lưỡi dao cùn, không đứt được mà đau’’, câu thơ vận ngay vào kẻ viết ra nó.

Bạn bè đưa Khuê về. Lê Ðạt và Phùng Quán nán lại. Quán gằn:

- Anh đừng sợ không được viết. Chỉ sợ viết không hay mà thôi! Viết thì bút giấy tôi ai cướp giật đi, tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá!

Dần lại nhếch mép. Lê Ðạt kể lại Báo Cáo Krút-Sốp ở Ðại Hội XX của Ðảng Cộng Sản Liên Xô đã đưa đến một số biến động trong khối những nước xã hội chủ nghĩa. Quần chúng ở mọi nơi ngỡ ngàng. Những thảm kịch đã được che đậy nay trở thành câu chuyện đầu miệng. Không có gì Cách Mạng hơn Sự Thật, Dần thầm nhủ. Lê Ðạt sôi nổi:

- Ðang có một luồng gió mới! Ðể rồi xem. Chí ít, bây giờ gió xoay chiều, từ tả sang hữu, từ dối trá kìm kẹp sang sự thật và tự do. Bọn cầm cờ, khôn thì xoay theo rồi nương vào gió. Nếu không khôn, cũng sẽ phải nới dây, căng quá thì đứt. Mềm nắn rắn buông mà!

Dần lại cố nhếch mép cười. A, Lê Ðạt! Người lạc quan hồn nhiên, kẻ xưa đã từng là thư ký trợ lý cho Trường Chinh. Ðạt mẫn cảm, ý thức được cái mới, cái đẹp. Và rất nhanh bắt chiều những ngọn gió để hiểu phía cờ bay. Giọng chắc chắn, Ðạt tiếp:

- Ðợi, và đúng lúc thì ta lại tiếp tục. Vợ, con mày cần mày, bạn bè mày cần mày. Ðừng có ngứa tay mà lại cứa cổ nữa nhé!

Dần lại nhếch mép. Lần này Dần nói. Không phải với Lê Ðạt mà là với Phùng Quán:

- Cái ‘’ bút giấy cướp giật’’ và ‘’ viết văn lên đá’’ hay đấy, thành thơ thì được lắm! Làm đi...

Qua hè, Hà Nội vẫn chưa hết ngơ ngác với những trận gió đông, nhưng Bắc Kinh đã sang mùa. Mao vừa tung ra phong trào ‘’ trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng’’. Sự việc hạ bệ Stalin độc đoán khiến cán cân công lý lệch về phía có tự do. Và nhất là phía pháp luật công minh, không thể cứ nhân danh chuyên chính vô sản để khép tội bất cứ ai, rồi đẩy đi đày ở những trại tập trung cải tạo.

Cải Cách Ruộng Ðất đợt năm chựng lại. Gió đã căng, dây nới ra. Mềm thì nắn, rắn phải buông. Khi cần, những kẻ nắm quyền lực nghĩ đến chuyện kéo cờ xuống trong tinh thần trường kỳ mai phục đợi thời cơ. Mềm đã nắn rồi, nắn khiến tiếng ca thán khắp nơi nổi lên. Cán bộ bị đánh trong chỉnh đốn gửi đơn về khiếu nại. Ðấu tranh cho giai cấp nông dân mà nông dân nổi loạn thì sao? Rắn, phải buông thôi! Nguyễn Hữu Ðang bảo, nhưng người buông thì ta nắm lấy cái cán cờ ta có thể nắm được. Lê Ðạt, thường trực báo Văn Nghệ, đồng ý. Báo phải hoàn toàn do tư nhân. Lo từ giấy in, mực in. Trần Thiếu Bảo chủ nhà in Minh Ðức đứng ra đảm nhiệm. Khi làm công tác nội thành trước Tổng Khởi Nghĩa, Ðang có nhiều quan hệ với đủ giới. Việc phải chạy, chạy được, không khó. Bông hoa Giai Phẩm Mùa Xuân nở lại vào đầu hè, mang phấn son tươi tắn sau một lần gió dập mưa sa, tỏa ra hương bí ẩn của thứ quả cấm đến tay. Người ta chuyền tay nhau Giai Phẩm Mùa Xuân xưa bị cấm đoán thu hồi. Nay, dân Thủ Đô đọc cho nhau nghe, ‘’... tôi vẫn đi, không thấy phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ’’.

Bắt đầu có những cuộc học tập về vấn đề dân chủ. Người ta đổi giọng, phê phán văn nghệ giáo điều, văn nghệ công thức. Nguyễn Hữu Ðang đọc một bài tham luận về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Bài tham luận nẩy lửa. Lửa lém vào những con chữ khiến chúng nhảy múa, không co ro như khi còn gió mùa đông ùa vào các trang giấy. Sinh viên đại học rục rịch. Người thèm thở quyên góp cả tiền mang đến nhà in tạo điều kiện cho trăm nhà đua tiếng. Tháng sáu, biến động ở Ba Lan, nơi gió xoay chiều hữu khuynh. Những người nắm quyền lực ở Hà Nội tức tốc tuyên bố hoàn thành Cải Cách Ruộng Ðất. Nhưng nhận có sai, nên sẽ sửa sai. Hội Nghị X của Trung Ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam sẽ kiểm điểm những sai lầm của Cải Cách Ruộng Ðất.

Từ một bụng mẹ, đứa em Giai Phẩm Mùa Xuân mang tên Giai Phẩm Mùa Thu số một ra đời, với cái tát choáng mặt của bài ‘’ Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ’’ ký tên Phan Khôi. Nguyễn Hữu Ðang tập hợp được không chỉ văn nghệ sĩ mà còn những trí thức khoa bảng. Ngày 15 tháng 9, Nhân Văn số một ra đời. Phan Khôi là chủ nhiệm với một ban biên tập gồm Ðang, Trần Duy, Lê Ðạt, Hoàng Cầm. Cầm viết ‘’ Con người Trần Dần’’, đòi tiến đến việc xét xử lại một vụ án Văn Học. Nguyễn Sáng, họa sĩ, vẽ một Trần Dần có vết sẹo ở cổ. Lê Ðạt bồi vào ‘’ Nhân câu chuyện những người tự tử’’. Ngày 2 tháng 10, ban thường vụ Hội Văn Nghệ Việt Nam ra thông cáo thừa nhận sai lầm trong việc phê bình ‘’ Nhất định thắng’’ của Trần Dần. Một tuần sau, Giai Phẩm Mùa Xuân tái bản. Rồi tuần sau đó, Giai Phẩm Mùa Thu số hai mở mắt chào bình minh một buổi sang mùa.

Cải Cách Ruộng Ðất khiến nông dân ca thán, làng mạc khắp nơi âm ỉ thứ lửa chỉ một que diêm bật lên là thành đám cháy. Cán bộ ở cơ sở bị bắt bị giết trong Chỉnh Ðốn Tổ Chức kêu oan đ?