24 - Đỉnh sóng réo
Cửa vừa mở, Huyền reo lên, gọi tên Nhân rồi ồm chầm lấy con. Nhìn mẹ, Nhân rưng rưng nước mắt. Huyền gầy gò, tóc đã bạc, khắc khổ tạc vào khuôn mặt cương nghị những nét đẽo của một định mệnh khắc nghiệt lạ lùng. Ðưa tay lên lau nước mắt, Huyền lại mím môi, phản xạ vô điều kiện của một đời sóng gió. Nhìn quanh, Nhân không thấy U già. Cũng không Dao Ánh. Chỉ bé Quỳnh từ bếp bước lên nhà trên.
Huyền bảo bé Quỳnh đi ngay lên chợ Tân Ðịnh báo tin cho Ánh. Dăm ba năm trở lại đây, Ánh tiếp tục bán thuốc tây. Phần Huyền, nàng khai bệnh rồi rút mình thu vào như loài nhím, tránh không quan hệ gì với bất cứ ai. Nhân hỏi, Huyền báo U già đã qua đời năm kia, chôn ở nghĩa trang Gò Vấp. Nàng ngậm ngùi, dặn Nhân đợi đến ngày rằm sắp tới sẽ cùng lên thắp hương cho U và cho chú Hoàng. Nhân ngạc nhiên nhưng lòng chớm một chút vui. Thế là mẹ đã giải được một nút thắt oan uổng xưa buộc đời mẹ vào đời chú.
Nhân lên phòng. Mẹ chàng vẫn để căn phòng hệt như xưa, giữ rịt ngày tháng trong một không gian đóng kín không mảy may thay đổi. Chàng chợt thấy mình trong gương. Chồm đến gần nhìn vào, chàng dần dần nhận ra mình và cảm thấy thương thân. Dăm nét nhăn đã kéo đuôi mắt chàng về chân tóc ở thái dương, hai bên mép nét hằn chạy xuống cằm ghi dấu vết của cả một thời vắng những nụ cười. Không, Nhân tự nhủ, không làm gì chống được thời gian. Và căn phòng của chàng dẫu không thay đổi cũng chẳng thể đánh lừa cái qui luật sinh tử vô thường. Huyền lên đứng sau lúc nào mà Nhân không hay. Cầm cho con một cốc nước, nàng đặt lên chiếc bàn xưa Nhân dùng làm bàn học, nhỏ nhẹ nói:
- Mợ thu xếp để con và Ánh ở phòng này. Bé Quỳnh xuống ngủ với bà. Phòng của Lương, nay mợ để bàn thờ...
Thật lạ, xưa nay mẹ có bao giờ đặt bàn thờ trong nhà đâu. Nhân nhìn, chưa kịp hỏi thì Huyền tiếp:
- Con đi thắp hương cho những người quá cố với mợ...
Theo chân mẹ, Nhân bước vào. Trên những cái kệ bắt vào tường, có ảnh bà ngoại, ảnh chú Hoàng, U già, mẹ của Ánh và một người đàn ông lạ. Ảnh màu vàng ố, là loại ảnh rất xưa được phóng lại, Nhân đoán là ảnh cha mình. Tin mẹ Ánh mất, chàng đã được báo gần ba năm, trước khi Ánh đi thăm nuôi mình ở trại Vĩnh Quang. Về Huế chôn cất cho mẹ, từ thuở đó Ánh không đặt chân trở lại. Còn chú Hoàng? Nhân nhớ đến khi chú qua đời, đến đưa ma chú mà mẹ cũng không đi. Mười hai năm liền, mẹ không nhìn mặt chú, coi như chú chết ngay từ lúc mẹ dọn nhà mang theo Nhân và Lương. Mẹ cấm cửa chú, chỉ để u già mang cơm nước cho chú từ ngày chú lâm bệnh. Tiếng thét của mẹ ‘’ Ðàn ông chi mà vậy’’ thuở Nhân còn thơ lại văng vẳng bên tai. Nhìn mẹ, Nhân hỏi, giọng dịu dàng. Huyền buồn bã kể đó là năm Huyền được báo cha chàng sống chứ chẳng phải đã chết như chú Hoàng nói. Mắt nhìn xa xăm, Huyền chậm rãi:
- Chú Hoàng đeo đuổi mợ từ năm 45, thời giành chính quyền. Bà cô chú lừa mợ đi Nam để chú đi theo. Sau khi biết không có Tổng Tuyển Cử năm 56, chú đợi thêm hai năm, nằng nặc đòi cưới mợ, bảo cha con đã chết rồi... Mợ tưởng thật, về với chú thì ba năm sau, ‘‘người ta’’ đến đưa cho mợ một bức thư của cha, nhưng là một bức thư giả mạo... Cũng năm đó, ‘‘người ta’’ bỏ cha con vào tù, tội danh không có gì rõ ràng. Con còn một người chú, tên Văn, hiện là linh mục Tín ở Hưng Nguyên. Gặp chú, mợ biết cha được thả quí cuối năm 72. Cái lý do ‘‘người ta’’ bắt cha con đi tù là cha không theo ‘‘họ’’, chống lại việc giải phóng miền Nam bằng quân sự. Cha chết, có lẽ chết vì tuyệt vọng không thấy được hòa bình khi Mỹ tái oanh tạc miền Bắc. Bà ngoại chôn cha, rồi vài tháng sau thì đến lượt bà...
Nhân ứa nước mắt. Với cha và bà ngoại, thậm chí đến cái bóng Nhân cũng không có. Nhưng mẹ mình và chú Hoàng. Cuộc đời cả hai bị xới tung lên, ngổn ngang, đổ vỡ là vì sao? Không cầm được lòng, Nhân nghẹn giọng:
- Sao mà ‘‘họ’’ ác thế! Ác thế để làm gì?
Huyền lẩm bẩm:
- Ðể làm gì? Trước hết, là nhằm triệt tiêu tất cả những người kháng chiến cũ ‘‘họ’’ biết là đã rõ thủ thuật của ‘‘họ’’ nên có khả năng đối kháng. Sau, như trường hợp mợ xung vào làm tình báo nội thành thì như lên lưng cọp, chót cưỡi nên không có cách nào xuống được. Nhưng đừng tưởng ‘‘họ’’ tin mình. Ðến như Tư Trọng, Thiếu tướng và là Thứ trưởng Bộ Công An cũng bị tạm đình chỉ công tác để điều tra. Ngày ra Bắc, mợ sợ, không dám thăm hỏi gì!
Huyền thở dài, mắt nhìn ra xa. Nhân lắc đầu, im lặng. Thình lình, Huyền nghẹn ngào:
- Chính mợ, mợ cũng từng ác, rất ác, ngay cả với chú Hoàng là người thực sự yêu thương mợ. Mợ qui cho chú là thủ phạm khiến mợ phải chia ly với cha con, mất Dân và xa bà ngoại. Cứ thế, mợ trút nỗi căm thù lên chú, năm này qua năm nọ...
Huyền bật khóc, họng tắc lại không nói thêm được. Lòng tràn thương xót, Nhân nhẹ nhàng nắm hai bàn tay mẹ. Từ trước đến nay, chàng chưa bao giờ thấy mẹ mình khóc như vậy. Nhân cảm thấy bất lực. Ngay cả vỗ về mẹ, chàng cũng không biết làm thế nào, chỉ thì thầm ‘’ Mợ cứ khóc, khóc cho hả mợ ạ!’’. Lát sau, Huyền nói như nói với chính mình:
- Cái ác song sinh với thù hận, đến từ sự thiếu hụt tâm linh vì không có niềm tin vào một thế giới khác ở bên kia cuộc sống này. Mợ đã xưng tội, và xin trở lại làm con chiên của Chúa Cứu Thế. Từ khi ấy, mợ không còn hờn oán căm hận gì nữa mà chỉ thấy lòng xót thương vô hạn cho mọi con người, tất cả, không trừ một ai.
Không phải tôn giáo, Nhân thầm nghĩ, là cách duy nhất khôi phục tâm linh để con người trở lại làm người. Nhân từ tốn kể cho mẹ nghe chuyện Dự gấu thương mẹ thay trâu kéo cầy hay cô công an đa tình yêu anh cải tạo, rồi nói với giọng lạc quan:
- Con người vẫn cứ là con người...Yêu thương là một khả năng tự nhiên, khôi phục được ngay ở trong cuộc sống này chứ chẳng cứ cần niềm tin vào một thế giới khác!
Chàng lờ đi không kể cho mẹ nghe chuyến Lương đến thăm mình ở trại Vĩnh Quang. Trong lòng, Nhân rất sợ biết đâu mai này Lương lại sẽ không trở thành loại nhân vật lạnh như kim khí kiểu ‘’thép đã tôi thế đấy’’, tên một cuốn tiểu thuyết Liên Xô mà Nhân đã có dịp đọc trong những ngày tù tội.
Nghe tiếng cửa sắt kéo lạch xạch dưới nhà, Nhân nhổm dậy, biết là Ánh về. Chàng nhảy ba bước một, xuống đến tầng dưới khi Ánh vừa bước chân vào. Bỏ mặc chiếc xe đạp cho bé Quỳnh giữ, Ánh chạy ào đến, miệng gọi, tiếng líu ríu vấp vào nhau như tiếng chim. Nhân ôm chầm lấy Ánh, mặt úp vào mái tóc dài, tay vuốt ngấn cổ lấm tấm mồ hôi. Ánh ghì lấy Nhân như thể sợ Nhân lại biến đi. Nước mắt chảy dài trên má, cổ họng ậm ực kìm tiếng khóc, nàng lẩm nhẩm ‘’ Lạy trời, lạy trời...’’.
Huyền yên lặng đứng yên, vẫy bé Quỳnh rồi bảo:
- Bà cháu tôi vào bếp làm tí thức ăn. Chiều nay, ăn cơm không độn, tí nữa đi chợ xem có mua được thì làm bát canh Thiên Lý nhé...
Nắm tay Nhân, Ánh bước lên cầu thang, tay kia lau nước mắt, nghẹn giọng:
- Bữa ni mới được khóc, tưởng hết nước mắt rồi!
Nhân theo chân Ánh như đi trong một cơn mộng du. Lên đến cửa phòng, Nhân không nhịn được, xoay Ánh lại, hôn vào mặt, ngoạm vào môi như một kẻ chết đói sống lại vục mặt để ăn, để uống. Người run rẩy tựa lên cơn sốt, Nhân tưởng như ngày nào chàng ghé Huế, đi với Ánh lên lưng núi Tam Thai lộng gió, nhìn về Thành Nội chập chờn trong màu nắng nhạt nhòa. Chàng vòng một tay ôm riết lấy Ánh, tay kia đưa lên vuốt ve khuôn mặt Ánh căng ra đón đợi. Nhân đê mê, không kìm hãm, quần ướt dầm dề. Cái sức thanh xuân đầy nhựa sống tràn ra, hối hả bù cho những tháng năm tù ngục mùi ẩm ướt bốc lên từ nền đất lạnh đã đẩy mùi lông tóc đàn bà vào một góc nhập nhòa trong trí nhớ.
Ánh thì thào, mắt ngước nhìn Nhân, tròn và sâu, lấp lánh tựa những vì sao một đêm tối trời:
- Ðể em tắm cho anh!
Nhân bật cười, nhớ lại là chàng chưa tắm rửa gì bốn năm ngày qua, râu ria lởm chởm chẳng khác loài sơn nhân lạc vào phố thị. Ánh đi nấu nước sôi. Trên lầu, nước rô-bi-nê chảy vào bồn tắm, tóc tách nhỏ một giòng yếu ớt mãi vẫn chưa được lưng bồn. Ánh đổ nước, bắt Nhân ngâm người vào bồn. Như một đứa trẻ, Nhân để Ánh kỳ cọ, nâng niu, mơn trớn. Người doãi ra, những bắp thịt chùng xuống, chàng có cảm giác như bé lại, bé đến độ thành một chiếc bào thai, bốn bề được bảo bọc trước khi phải mở mắt vào đời. Thình lình, Ánh cởi toang áo. Nhân kéo Ánh, mặt áp vào bầu vú, mũi hít mùi ngây nồng từ da thịt đàn bà bốc lên hăng hăng kích thích. Hai người cuộn lấy nhau. Từ ngày nhận làm vợ Nhân, Ánh vẫn chưa được một lần gần gũi thân xác. Dẫu yêu Nhân từ ngày còn là một thiếu nữ, đối với Ánh, Nhân trừu tượng, chưa bao giờ là da là thịt. Ánh nửa thèm muốn, nửa sợ như sợ một cuộc đi chơi trên những nẻo đường nàng còn lạ lẫm. Nhân bế thốc Ánh lên, tay kéo chiếc quần Ánh xuống. Chàng đẩy cho Ánh dạng chân ra, úp mặt vào khoảng đất trời lẫn lộn, mắt nhắm nhưng vẫn thấy đủ bảy sắc cầu vồng trong thiên thể màu bích thạch, xanh và sâu, sâu đến vô cùng. Như phản xạ, Nhân bế đặt Ánh lên bụng mình. Chàng cảm thấy được bao bọc, ấm áp, trong chuyển động bập bềnh tự nhiên khiến người rướn lên trong tiếng Ánh thở hổn hển, thở mỗi lúc một gấp gáp cho đế đến khi Ánh buột miệng kêu:
- Trời ơi! Chết mất, chết thiệt...
Dưới bếp, bé Quỳnh nhớn nhác, hỏi: ‘’Bà ơi, mẹ cháu... có chuyện chi vậy? ’’. Quá khứ bỗng ập về. Huyền nhớ lần đầu mình trở thành đàn bà trong một căn nhà nửa đã sập vì pháo của chiến hạm Pháp bắn vào từ cảng Hải Phòng. Thật lạ, chuyện thân xác khi đó xảy ra rất tự nhiên, không toan tính, nghĩ ngợi. Và nhất là, dẫu có chết khi đó, Huyền cũng vẫn cảm thấy toại nguyện. Nàng hy vọng cho Ánh trưa nay cũng thế. Nhưng nàng thành khẩn mong cho Nhân không phải sống cái kiếp của Chính, người đàn ông nàng đã trao thân trong khi chiến trận lan ra như một đám cháy. Huyền cười, dịu dàng, vuốt tóc bé Quỳnh:
- Không có gì cả! Hai bà cháu đi chợ nhé.
Bữa cơm chiều có canh Thiên Lý. Bữa cơm xum họp không độn mì, êm ấm như trong một giấc mơ thần thoại. Nhân ngồi cạnh bé Quỳnh, hỏi chuyện học hành, gắp thức ăn cho và bảo Quỳnh gọi mình bằng cha. Huyền nói, giọng thúc giục:
- Con và Ánh nhớ ra làm thủ tục kết hôn, khai lại khai sinh cho Quỳnh, đừng chậm trễ!
Nhân hơi ngạc nhiên thấy mẹ vội vã, nhưng không hỏi gì. Huyền bảo bé Quỳnh, ‘‘Bé nay ngủ với bà, nghe không’’. Nó gật đầu, hơi tủi thân, biết rồi đây nó sẽ phải chia xẻ mẹ nó cho Nhân.
Buổi tối, thành phố lại cúp điện. Nhân thì thào vào tai Ánh:
- Thế mà lại hay! Ta đi ngủ sớm.
Ðêm trăng sáng lụa là nửa hở nửa che ân ái ở thế gian dưới này chập chờn trong ánh đèn đêm. Ánh và Nhân bước ra sân thượng. Ðứng cạnh hòn non bộ nay xanh rêu vì không ai chăm sóc, Nhân nhìn sang nhà ga xe lửa. Những toa tầu xếp dọc đường rầy nhô cao như chiến hào một thời dọa dẫm. Chênh chếch, mái nhà thờ Huyện Sĩ nghễu nghện, cây thánh giá vẫn vụt lên trời cố giữ cho bằng được sự có mặt của một cái gì khác với cuộc sống nghiệt ngã thách đố trên mặt trái đất. Gió lành lạnh. Mây ở đâu đến che ánh trăng, nhìn tựa như dát bạc vào bầu trời mênh mông. Kéo sát Ánh vào người, Nhân thì thào, như ngày gặp Ánh ở trại cải tạo ‘’... anh yêu em, anh yêu em ‘’. Gục vào vai Nhân, Ánh bỗng tin vào hạnh phúc là điều có thể cho một ngày sẽ đến. Hai người dìu nhau vào, nằm cạnh nhau, để ánh trăng lọt qua chấn song làm đèn cho đêm tân hôn sau sáu năm thành vợ chồng. Họ không ngủ. Yêu nhau xong, họ thiêm thiếp nằm ôm nhau, tỉnh ra họ lại ghì lấy nhau, lại yêu nhau, cứ thế cho đến khi trời sáng.
Bước vào con đường quen thuộc dọc bến Vân Ðồn, Dũng thấy chân nặng chình chịch. Nỗi lo âu khiến chàng gần như tê liệt. Con đường vẫn thế, nhà cửa xơ xác hơn đôi chút và cái xe của ông già mì Quảng vẫn ở ngã ba rẽ vào hẻm nhà chàng. Nhìn xuống rạch, thuyền cắm san sát, loáng thoáng bóng người. Dưới nắng, mùi kinh rạch bốc lên, gió thốc vào mũi đến lợm giọng. Trên lộ, nay chỉ có xe đạp. Như những con thoi, xe ngược xuôi, lấn nhau cướp đường. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc Honđa, vừa phóng vừa bấm còi inh ỏi.
Căn nhà Dũng đã ở trong tầm mắt. Cửa ra vào nay sơn lại, màu xanh đậm, cửa sổ ở bên khép kín. Xế trưa, chắc là trẻ con đi học cả. Dũng thầm tính, hai thằng con trai bây giờ đứa mười một, đứa lên tám. Hình ảnh chúng là bức ảnh Dũng nhận được cách đây bốn năm. Hẳn chúng nay lớn hơn, nhưng Dũng sẽ nhận ra. Dũng ngần ngại một lúc, không suy tính gì được, đầu rối bù lên. Ba năm không thư từ của vợ, chàng thầm nhủ, có hai khả năng. Một là nàng mang con vượt biên, nhưng chắc thế là đã bỏ mình trong sóng gió. Còn hai, là nàng không chờ đợi nữa, đã gán phận mình vào một người đàn ông khác. Dũng phân vân, cuối cùng chàng hy vọng khả năng thứ hai. Dù gì, cái gia đình dẫu tan tác nhưng sống vẫn hơn chết.
Dũng mon men lại gần ông già bán mì Quảng, đợi xem ông có nhận ra mình không. Ông hấp háy nhìn, hỏi ‘’ Nị ăn một tô?’’. Dũng gật. Lẳng lặng gắp mì, Dũng cố nuốt, chỉ mong ông già nhận ra người ngày xưa ông gọi bằng ‘‘thầy ba ca sĩ’’. Nhưng không. Ông lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế xếp, mắt nhìn ra rạch. Dũng cất tiếng, dè dặt ‘’... ông bán mì ở xóm này lâu chưa?’’. Ông già không quay lại, đáp ‘’ Lâu chứ, ngổ pán ở đây mười lăm năm rồi’’. Dũng đánh bạo ‘’ Nị có biết thầy ba ca sĩ không? Ngổ là bạn, biết nhà trong xóm nhưng không biết là nhà nào’’. Ông già chỉ tay ‘’ Kia kìa, căn thứ ba đó.Nhưng cổ biểu thầy ba chết rồi’’. Dũng hỏi ‘‘Cổ là ai?’’. Khịt mũi, ông già lẩm bẩm ‘‘Thì vợ thầy ba đó. Giờ cổ có chồng mới rồi a ’’.
Dũng quanh quẩn một lát, không biết làm gì, lững thững đi về phía cầu Chương Dương rồi lang thang vào Chợ Cũ. Nắng sắp tàn, chợ về chiều buồn như cảnh những cuộc đời chực khép lại. Ðợi đến tối mịt, Dũng quay lại nhà mình. Rón rén như một tên ăn trộm, Dũng nhô lên nhìn qua cửa sổ, tai nghe tiếng chuyện trò bên trong. Niềm ao ước độc nhất của Dũng là nhìn thấy hai đứa con. Nhưng Dũng chỉ thấy vợ mình nhấp nhổm, chửa vượt bụng, nặng nề đi lại. Thình lình, có tiếng chó sủa. A, đó là con chó mười năm trước Dũng nhặt ở Cầu Kho về. Khi đó, con chó gày nhom, ghẻ lở đến không một ai muốn đem thịt. Dũng tắm rửa cho nó, nuôi cho ăn, đặt tên ‘’chó con’’ để nó bầu bạn với đứa con đầu lòng Dũng trìu mến gọi là ‘’chó lớn’’. Có tiếng suỵt chó, rồi tiếng chân đi ra ngoài. Dũng thót bụng, lủi vào bóng tối như phản ứng tự động của những sinh vật yếu đuối bị xua đuổi. Một người đàn ông hé cửa, nhìn ra, rồi lại khép cửa lại. Con chó ư ử kêu, thỉnh thoảng lại sủa lên, đầu đập nhẹ vào cánh cửa như muốn ra ngoài.
Dũng mò đến chợ Xóm Chiếu gần nhà. Sau giờ giới nghiêm, không còn một bóng người ngoài đám phường đội có nhiệm vụ an ninh thỉnh thoảng đi ngang, thuốc lá bập đỏ và chuyện trò chửi tục luôn miệng. Tìm một cái sạp hàng, Dũng chui xuống dưới, tay nải kê xuống dưới đầu làm gối, cố chợp mắt. Mùi hôi thối tanh tưởi thoảng lại. Buồn nôn, Dũng bụm mũi, chờ cho đến sáng. Khi nghe tiếng chân đi, Dũng choàng dậy. Ra đến đầu hẻm, ông già mì Quảng đang đẩy xe tới, chén bát kêu lách cách đánh nhịp. Dũng tìm một gốc cây, ngồi đó chàng nhìn thấy cửa nhà mình. Dựa vào thân cây, Dũng căng mắt đợi. Ðường phố đã có người qua kẻ lại. Dũng thu mình, chỉ sợ những người hàng xóm ngày xưa có thể nhận ra mình. Cửa nhà chàng mở, con chó chạy ra, lủi vào cái ngách bên cạnh. Rồi một người mặc đồng phục công an giắt chiếc Honda ra. Theo sau, hai đứa trẻ. Và cuối cùng là vợ chàng, tay móc xích sắt chung quanh cửa rồi bấm chiếc khóa đồng. Hai đứa trẻ, cổ quàng khăn đỏ, tay cắp cặp đi dọc con rạch. Vợ chàng ngồi lên yên sau Honda, vòng tay ôm bụng anh công an. Tất cả vụt hiện, vụt biến.
Dũng chạy theo hai đứa con. Chúng vừa đi, vừa chỉ trỏ, không biết đang nói gì với nhau. Bắt gần kịp, Dũng mới tự hỏi, đuổi theo làm gì? Lẽo đẽo theo sau, Dũng cứ thế bước cho đến khi hai đứa trẻ gần đến cổng tường có cái tên dài thườn thượt: Trường cấp I Nguyễn Tất Thành. Dũng hốt hoảng kêu, ‘’ Ðợi, đợi một chút...’’. Hai đứa trẻ quay lại. Dũng đến gần, luống cuống không biết nói gì. Thằng bé lớn nhìn Dũng, hỏi:
- Chuyện chi vậy chú?
- A... không có chi! Chỉ muốn hỏi thăm mấy... cháu một chút!
Gọi con bằng cháu, Dũng thấy ruột xót như sát muối. Nhìn chúng ngước lên nhìn chờ đợi, Dũng nói đại:
- Trụ sở Công an phường ở chỗ nào?
Thằng nhỏ mau miệng:
- Phường thì cháu hổng biết, nhưng công an quận tư thì hổng xa. Ba cháu công tác ở đó, cháu rành mà. Chú đi đường này, qua ngã tư quẹo trái, gần nhà Lưu Niệm Bác Hồ là tới.
Bàng hoàng nghe con gọi mình là chú, Dũng thực sự thấy mình mất hết. Ba nó, nay là ông công an quận IV, nào đâu có là chàng. Chàng đã chết. Vợ chàng nói vậy, đến cả ông già mì Quảng cũng biết. Ngơ ngẩn, chàng đi ngược lối cũ, nước mắt ràn rụa ứa ra, biết là đã lỡ làng hết cả rồi, chẳng còn có gì để cứu vãn.
Quay lại gốc cây, Dũng ngồi dựa mình vào, mắt nhắm lại. Một lát, chợt chàng thấy tay mình âm ấm, tai nghe tiếng hinh hích như khóc. Mở mắt ra, ‘‘chó con’’ đang liếm tay, đầu chúi vào lòng Dũng. Mắt nó kéo màng không còn thấy gì, nhưng khứu giác vẫn khiến cho nó nhận ra chủ cũ. Dũng ôm nó, tay vuốt lưng, lông rụng ra từng mảng. Chàng bùi ngùi, hỏi nhỏ ‘’ Mày chưa chết hả, ‘‘chó con’’...’’, và chưa bao giờ tủi thân mình như lúc này. Ông già mì Quảng ngồi chứng kiến từ đầu chí cuối cảnh con chó ra nhận chủ. Lẳng lặng, ông bỏ hai vắt mì vào tô, chan nước, bưng lại cho Dũng, nhỏ nhẹ ‘’ Thầy ba ăn đi, ngổ mời nè’’. Thì ra ông ta cũng đã nhận ra Dũng. Cầm lấy tô mì, Dũng hỏi. Ông đáp ‘’ Ngổ bữa qua thấy nị giống giống thầy ba, nhưng hổng chắc. Nhưng ngổ nói đúng đó, thầy ba chết rồi, nị hà!’’.
Dũng bị gậy đi tìm nhà Sư huynh, cũng ở Khánh Hội. ‘‘Chó con’’ vẫn cứ kêu hinh hích đi theo, Dũng phải đuổi mãi nó mới ngừng chân. Nhìn theo cho đến khi Dũng khuất bóng, nó ư ử rên rồi lủi thủi lê bước về. Khi bấm chuông, hai đứa con Sư huynh ùa ra mở cửa. Lát sau, Sư huynh lên. Chỉ nhìn Dũng, Sư huynh đã đoán được hết, nói ngay:
- Ðã bảo cung Thê cậu không đẹp lắm. Nhưng cung Nô và cung Di thì tốt, tốt lắm. Năm Hợi của cậu thì muốn gì được nấy, chẳng có chi phải lo cả!
Trong trại, bạn tù đều hiểu xem Tử Vi là một cách Sư huynh dùng để giữ tinh thần cho mọi người. Nhưng thật lạ, chuyện đồi trẩu trụi lá và tù được phóng thích là lời tiên tri đã kiểm nghiệm. Dũng vừa ngồi xuống chiếc ghế Sư huynh kéo thì không còn chịu thêm được, ôm mặt khóc òa lên, vừa khóc vừa kêu ‘‘Giời ơi, sao hành nhau thế hả giời!’’.
Giáp Tết lần thứ tám từ ngày Giải Phóng, Ánh mua một cành mai mang về, vui vẻ bảo ‘’Trông cho nó ra năm mới’’. Thật ra, ba năm vừa rồi, đúng như Nhà Nước nói đi lập lại, phải thắt lưng buộc bụng. Cải tạo công thương nghiệp, đổi tiền rồi vượt biên ‘’bán’’ chính thức nhằm lấy vàng bỏ vào ngân quĩ không vực được một chính quyền lao đao không biết làm gì để thực sự tiến lên xã hội chủ nghĩa. Những anh hùng thời này là những cán bộ ‘‘phá rào’’. Ở đồng bằng sông Cửu Long, họ tiếp tục nới rộng khoán sản phẩm trong nông nghiệp, đề nghị kinh tế năm thành phần, chấp nhận kinh tế tư nhân là một, nhưng chưa dám đề cập đến quyền tư hữu. Nhưng chính quyền Trung Ương tiếp tục ngăn sông cấm chợ. Dân chúng Sài Gòn vẫn ăn độn, khi bo bo, khi mì hột. Nghị quyết ‘‘giá - lương - tiền’’ không ra đâu vào đâu, chẳng giải quyết gì, chỉ gây thêm rối. Cán bộ cao cấp kêu ‘’ Cái khó bó cái khôn. Nhưng đừng quên tiềm lực của đất nước là tài nguyên với rừng vàng, biển bạc. Con người thì thông mình, cần cù...’’. Tương lai tít tắp xa ngời ánh hoang tưởng những lời hứa suông của một thời cứ mãi mãi trước mặt.
Nhân nâng cành mai, loay hoay cắm vào chiếc bình cao cổ, loáng thoáng nghe tiếng đập cửa. Ánh ra, lát sau vào bếp, giọng tinh quái:
- Có cái cô nào đang hỏi anh ngoài kia!
Bước chân lên nhà trên, Nhân bỡ ngỡ một lát rồi nhận ra Mai. Bỏ trang phục công an, nàng nay mặc áo hoa, mang quần bò, mặt đánh chút phấn, môi thoa son đỏ chót, nhìn chẳng thể đoán đây là cô cán bộ mới vài tháng trước còn ở bệnh xá một trại tù heo hút.
- Chào cán bộ, Nhân nói, giọng máy móc.
- Trời, cán bộ chi mà cán bộ. Em đi phép vào miền Nam ăn Tết với gia đình, đến thăm anh...
- ...và hỏi xem nay Dũng ở đâu, phải không? Nhân ngắt, giọng hóm hỉnh.
Nhìn Mai gật đầu, Nhân hồi tưởng đến người bạn tù không may mắn. Dũng về Sài Gòn, trình diện với công an phường, và trở thành kẻ vô gia cư vì vợ Dũng khai chồng chết để tái hôn. Chuyện rối như bòng bong, công an phường bảo ‘‘Chúng tôi chẳng biết là anh đi cải tạo về hay anh chết rồi sống lại, nhưng chắc chắn không để anh vào hộ khẩu ở địa chỉ nhà anh vì nay nhà có chủ mới rồi’’. Dũng biết đám công an bao che cho nhau, nhờ Sư huynh gặp vợ cũ mình, điều đình xin ba cây vàng đổi căn nhà để lấy tiền đi vượt biên. Năm 83, giá đi bán chính thức đã xuống, không còn cao như giá những năm đầu, từ mười sáu, xuống mười hai, rồi mười, rồi tám, rồi sáu cây một đầu người... Thật oái oăm, anh chồng mới - Ðại úy công công an quận IV - cho tay chân rình, ập vào bắt Dũng và kết tội ‘‘tống tiền’’ khi Dũng chỉ mới chạm tay vào vàng, miệng đã định cám ơn vợ. Giải pháp công an đề nghị rất gọn, ‘‘...tha tội tống tiền’’, nhưng Dũng phải làm giấy xin đi kinh tế mới, nếu không sẽ truy tố cả Sư huynh, người đứng làm trung gian, ắt là đồng lõa.
Mai ngập ngừng, gặng:
- Anh cho em địa chỉ, em tới thăm anh ấy!
Kể sơ qua những khó khăn của Dũng, Nhân ghi vào một mảnh giấy địa chỉ ở Trảng Bon, Tây Ninh. Mai cám ơn Nhân, gửi lời chào Ánh rồi tất tả đi ngay. Nhân nhìn Ánh, giọng buồn buồn:
- Cô công an đa tình anh kể cho Ánh nghe đấy! Cô ta là con cán bộ tập kết. Vào Nam ăn Tết với gia đình nhưng chắc sẽ đi tìm Dũng!
- Tình là dây oan mà! Ánh cười, mắt tinh nghịch.
Ðúng lúc đó, Huyền đi chợ về. Nghe câu Ánh nói, Huyền lẳng lặng quay đi giấu nỗi xúc động bất ngờ ập đến. Đưa tay xách giỏ cho Huyền, Ánh giả giọng làm vui, khoe:
- Mợ ạ! Tết năm nay cả nhà đoàn tụ. Con mua một cành mai đấy...
Huyền gượng cười:
- Chỉ thiếu Lương! Chợt nhớ ra, Huyền bùi ngùi, và thiếu cả Dân và Thắm, rõ thật khổ!
Mồng 3, Nhân đạp xe đến chúc Tết Sư huynh. Từ ngày về Sài Gòn, Sư huynh lại đi đá gà giải khuây sau khi làm đủ thứ giấy tờ, kể cả đơn xin đoàn tụ gia đình với hai đứa con đã di tản qua Canada ngay từ năm 75. Sư huynh nói như đinh đóng cột ‘‘gia đình mình sẽ đi năm sau! Tiểu hạn của hai vợ chồng đều vào cung Di. Lá số mình có Thai - Tọa, còn lá số vợ thì giáp Quang - giáp Quí. Tam Thai - Bát Toại là ngồi vừa thư thả vừa vững vàng, thế thì chỉ có đi bằng máy bay mới vậy!’’
Nhân đang dựa xe đạp vào tường, Sư huynh mở cửa bước ra. Vẫn cứ với nụ cười lạc quan, Sư huynh bảo ‘‘Ðem vào trong nhà, bây giờ xểnh một cái là ăn cắp’’ rồi tự tay giắt xe, miệng vui vẻ hỏi thăm. Nhân kể Mai đến hỏi địa chỉ của Dũng, đùa ‘‘...chắc hai anh chị đang hòa hợp hòa giải tới nơi tới chốn, bác ạ’’. Sư huynh bật cười, hỏi Nhân gần đây có gặp Thưởng không. Trong số bạn tù, có lẽ trường hợp Thưởng là bi thảm ngoài sức tưởng tượng của mọi người.
Nhà cao cửa rộng hiến cho Cách Mạng, mẹ vợ, vợ Thưởng và hai đứa con đi kinh tế mới theo lời khuyên của ông Thứ Trưởng khiến Thưởng gần như phát điên trong trại Vĩnh Quang. Khi đó, Thưởng thư cho vợ, bảo khi nào chưa về lại Sài Gòn lo cho hai đứa con được học hành thì đừng liên lạc gì nữa. Vài tháng sau, Thưởng nhận được thư báo thằng con lớn chết. Không ăn không ngủ ba ngày ba đêm, Thưởng bó gối, mắt mở trừng trừng, chẳng nói năng gì. Sau giờ lao động, Sư huynh và Nhân rón rén đến ngồi gần, chia xẻ nỗi đớn đau của Thưởng trong im lặng. Thưởng như ngọn nến bập bùng trước gió, đến ngày thứ tư thì quị. Bạn tù có gạo nấu cháo đổ cho Thưởng. Sư huynh nói những lời chí tình về sự sống. Cha Thuận cũng đến bên cạnh Thưởng, tay lần tràng, miệng rì rầm đọc kinh. Nhân làm phận sự bác sĩ, nhưng chẳng có thứ thuốc nào chữa được tuyệt vọng, thứ bệnh nan y chỉ Thượng Ðế mới có cách cứu giải. Dũng vốn bộc tệch bộc toạc, vuốt tóc Thưởng, thốt ‘’ Anh phải sống cho thằng bé con chứ!’’. Câu nói đó đã vực Thưởng dậy.
Về Sài Gòn, Thưởng lần đến Ngã Năm Bình Hòa, nơi mẹ vợ Thưởng sang được một căn nhà vách đất sau khi rời khu Kinh Tế mới ở Bảo Lộc. Ðưa thằng bé ra Hà Nội sống với ông ngoại để hy vọng tránh được việc bắt thanh niên đi nghĩa vụ, hai mẹ con quay lại miền Nam, buôn bán lặt vặt ở chợ Bà Chiểu độ nhật. Ðùng một cái, tin như sét đánh, thằng bé em trốn qua Lào, bị bắn chết khi vượt biên. Ông Thứ Trưởng nhận xác cháu, chôn cất xong thì xin từ nhiệm.Vợ Thưởng treo cổ, mắt trợn trừng, hốc mắt máu đổ ra lòe loẹt không đông lại được. Từ đó mẹ vợ Thưởng phát điên, cứ thấy đàn ông đi qua là bà quì xuống vái, miệng kêu ‘‘Lạy mấy ông, chừ tha cho tôi’’. Bà không nhận được con rể khi Thưởng về, thấy Thưởng như thấy người dưng, quì xuống lạy và kêu ‘’...chừ tha cho tôi! Chừ tha cho tôi!’’. Biết vợ và thằng con còn lại đã chết, Thưởng chẳng tha thiết gì đến sống, nhưng lại không đành bỏ bà mẹ vợ điên dại. Muốn đi sang Pháp, đối với Thưởng không khó. Chàng vẫn còn quốc tịch Pháp và gia đình ở Paris giục thế nào Thưởng cũng không đến Lãnh Sự Quán Pháp để xin đoàn tụ. Thưởng - kẻ đã một thời kinh điển đầy mình, luận án cao học chủ đề là ‘’ Phủ định của phủ định: tiến hóa trong quá trình biện chứng Mác-xít’’- đang thập thò ở ngưỡng cửa vô sản. Hiện nay, sắm được một chiếc bơm xe đạp, một mỏ lết, hai cái kìm, một cái búa... Thưởng ngồi vá xăm lốp ở đầu đường.
Nghe Sư huynh hỏi, Nhân đáp hai tháng nay không gặp Thưởng. Sư huynh rủ, ‘‘Hai anh em mình đến thăm anh ấy đi’’. Đến nhà, Thưởng không có đó. Bà mẹ vợ Thưởng chỉ còn da bọc xương, tóc trắng xác xơ, quì xuống, miệng móm mém thều thào ‘’...lạy mấy ông chừ tha cho tôi’’. Sư huynh chép miệng, kéo Nhân đến nơi Thưởng thường ngồi vá xe. Vẫn cái thế ngồi chân co đầu gối lên, Thưởng nhìn bạn, mắt lạnh lẽo vô cảm. Sư huynh chúc Tết:
- Này năm mới, tớ chúc cậu tỉnh ra nhé! Năm Dậu thường là năm lắm biến cố, không tỉnh thì... chỉ có toi!
Tưởng rằng vẫn ngậm miệng như thường lệ, nhưng Thưởng đáp, cũng bất ngờ không kém:
- Toi được, tôi toi ngay. Gia đình tôi đi sang Pháp, cho nên mẹ vợ chẳng khác gì mẹ đẻ... Thưởng cầm lấy búa gõ nhè nhẹ vào kìm như đánh nhịp. Lát sau Thưởng thẫn thờ tiếp – Chính tôi bảo cháu sang Lào. Nó chết, vì tôi. Rồi vợ tôi tự tử, cũng lại vì tôi. Mẹ vợ có mệnh hệ nào khi tôi toi thì hóa ra tôi sát nhân ba lần, mà toàn là giết những người thân... Thế thì tôi là cái giống gì?
Ba người bạn tù lại im lặng. Ngoài đường, ngày Tết nên vắng vẻ. Ðể phá cái không khí ngột ngạt, Nhân kể chuyện mình có đứa em tên Lương cũng đang ở Paris. Lương làm đơn bảo lãnh, nhưng hiện chỉ có tên mẹ Nhân và Nhân, chuyện kết hôn với Dao Ánh nhùng nhằng giấy tờ vẫn chưa xong. Nhân nói:
- Tôi chỉ muốn mẹ tôi đi. Phần tôi, ở lại cũng không sao. Bệnh viện Bình Dân đã cho tôi làm trợ y, trong khi chờ đợi ‘‘họ’’ thẩm định lại khả năng hành nghề bác sĩ...
Ðắn đo, Nhân nhìn Thưởng, tiếp:
- Khi đó, tôi có thể chẩn bệnh bà cụ mẹ vợ anh, và yêu cầu gửi cụ vào nhà thương Biên Hòa, nơi có thể chăm sóc cụ... Phần anh, theo tôi thì anh cứ liên lạc với Lãnh Sự Quán Pháp, đã đi ngay đâu mà ngại. Mình sửa soạn, và đến lúc có thể yên lòng đi thì đi...
Thưởng cười nhạt, ngắt:
- Ðể xem... Nhưng hỏi các anh, đến sống mà tôi còn không thiết thì đi để làm gì?
Sư huynh vỗ vào tay Thưởng, hỏi:
- Xưa trong trại cải tạo, cậu có nhớ đã nói gì với tôi không?
- ???
- Cậu bảo cậu phải sống để ra tù, cậu sẽ bỏ thời gian nghiên cứu và viết lại Mác-xít cho người Việt Nam, vì cậu thấy cái guồng máy quyền lực miền Bắc chẳng Mác-xít, mác xiếc gì cả. Cậu cho rằng guồng máy đó chỉ thuần toàn trị, kiểu theo cái bà tên... Hannedth... nói thì phải!
Bật lên cười, một ánh lửa bốc cháy trong khóe mắt. Nhưng chỉ tích tắc ánh lửa đó lại tắt ngúm. Thưởng buồn bã:
- Trước đây có Trần Ðức Thảo, một triết gia danh tiếng, đã thử làm cái điều ấy theo cách ông nhìn, và kết cục là người ta lấy còng kẹp miệng ông lại ba mươi năm, các anh ạ! Chữ và nghĩa không đổi đời ngay được. Ðương cự với sự ngu xuẩn dưới thế, đến Thượng Ðế cũng bất lực, đành vứt lên Thiên Ðường những viễn mơ...
Nắm tay Nhân và Sư huynh, Thưởng ngậm ngùi:
- Chúng ta tự mình đánh mất địa đàng, và dần dần đánh mất chính chúng ta. Họa hoằn, trong mong manh tôi thấy còn con người. Vì thế... xin cám ơn các anh có lòng đến với tôi. Ðiều này, sống hay chết, tôi cũng sẽ ghi nhớ!
Chiếc xe Jeep mang phù hiệu công an xịch lại đỗ đầu ngõ. Hai người nhảy xuống, một mặc thường phục, người kia vận quân phục mũ cát-két trên đầu. Họ gõ cửa, Huyền ra mở, reo:
- Dũng hả?
Thời gian vô gia cư, Dũng thỉnh thoảng về trú ở đây, có khi ở cả tuần. Thấy người đi kèm, Huyền thót bụng, lùi một bước. Trước thái độ Huyền, Dũng trấn an:
- Thưa bác, bạn cháu xưa đã đến nhà đây tìm địa chỉ cháu, bác đừng ngại.
Lúc đó, Nhân ở dưới nhà bước lên. Nhìn Mai trong trang phục công an, Nhân ngại ngùng. Mai chào rồi ngượng nghịu:
- Em ăn mặc thế này đi với anh Dũng mới an toàn, không bị hỏi giấy!
Nhìn chiếc xe đậu đầu ngõ, Nhân đoán có lẽ Mai là con của một vị quan chức ngành công an ở Bà Rịa, nhưng không tiện hỏi. Sau khi gặp Nhân, Mai đi thẳng lên Trảng Bon gặp Dũng. Về Bà Rịa mồng hai Tết, Mai mang xe công an lên đón Dũng về, thề là không sống nếu phải xa Dũng. Là con một, cha mẹ Mai nuông chiều quen, cuối cùng không muốn cũng phải chịu. Bạn bè nàng, phần lớn cũng dân tập kết và được đào tạo trong ngành công an, đã khuyên nàng nên rời miền Bắc. Nhưng gặp được Dũng, nàng mới biết Dũng nằng nặc đòi vượt biên. Nắm chặt lấy tay Dũng, Mai quyết liệt nói, sống chết phải có nhau. Sau đó, Mai nói với cha mẹ hiện đang công tác ở Tỉnh Ủy. Cha Mai bảo, tao từ mày! Mẹ Mai khóc, nhưng chỉ phản đối yếu ớt. Lần này về Sài Gòn, Dũng định thăm bè bạn lần chót, nay mai sẽ lên đường ra biển.
Khi chỉ còn Nhân tiếp chuyện, Dũng hỏi ngay:
- Gia đình cậu muốn đi, Mai và tôi sẽ lo. Ði thế này, là đi ‘‘bán’’ chính thức, không sợ bị bắt, không sợ tù tội!
Mai vội đỡ lời:
- Công an Bà Rịa họ lo giùm hết phần bãi bến. Chi phí cho thuyền, xăng nhớt... là hai cây một đầu người!
Nhân nghe Dũng và Mai nói, lòng không khỏi hoang mang. Ðây không phải là lần đầu Nhân nghĩ đến chuyện vượt biên. Hồ sơ bảo lãnh của Lương chưa đâu vào đâu, nhất là vì giấy tờ của Ánh và bé Quỳnh. Dẫu không nói ra miệng, trong lòng Nhân quyết là không bao giờ để Ánh và bé Quỳnh ở lại. Mặt khác, nếu không có Nhân, chẳng chắc mẹ sẽ chịu đi. Thương mẹ cả một đời vất vả, Nhân chỉ muốn làm sao cho mẹ được hưởng an bình trong những năm cuối đời, qua sống với Lương vừa lập gia đình tháng trước. Phần chàng, chàng không muốn nhờ vả gì em, nhất là khi nhớ lại lần Lương thăm mình ở Vĩnh Quang, lạnh lùng và nguyên tắc còn hơn cả đám quản giáo.
Ðêm hôm đó, Nhân trằn trọc đi ra đi vào. Bước lên sân thượng, Nhân nhìn trời mông lung, lòng ngổn ngang trăm mối. Ánh theo ra, dịu dàng hỏi. Nhân kể lại buổi thăm viếng của Dũng và Mai, cũng như nỗi băn khoăn đang rày vò mình. Ánh khẩn khoản:
- Vượt biên thì khi ra khơi, sóng gió thế nào không ai biết trước được. Em nghĩ mình không nên liều lĩnh. Bây chừ, mợ và anh cứ làm giấy đi diện bảo lãnh, hồ sơ có tên em và bé Quỳnh để bổ túc sau. Ði được, anh cứ đi trước. Ánh nuốt nước bọt, cố đùa - Em đã đợi anh sáu, bảy năm rồi, và còn có thể đợi thêm cả trăm năm nữa, sợ gì!
Nhân lắc đầu, chua chát kể lại lần mình gặp Lương trong trại cải tạo. Ánh thuật lại cho Huyền nghe thì Huyền chỉ bật cười. Chính là mẹ Lương, Huyền cũng từng khó chịu về cách ứng xử cứng ngắc của Lương. Lần cuối Lương về cách đây một năm, Huyền cùng Lương lên viếng mộ chú Hoàng. Cố nhưng không giấu được xúc động, Lương ứa nước mắt khi nhổ cỏ. Mím môi, Lương nói nhỏ ‘‘..con định xin cho cả gia đình đi qua Pháp đoàn tụ. Nay, con đủ sức lo cho tất cả mọi người! ‘’. Huyền ngạc nhiên, hỏi ‘‘ Con xin thế, thì những người nắm quyền ở đây làm sao tin con được nữa? Những dự định góp tay xây dựng lại đất nước của con sẽ hỏng cả thôi! Con đã nghỉ kỹ chưa? ‘’. Lương chỉ tay vào mộ cha, buồn rầu ‘‘ Lý lịch của con nằm dưới ba tấc đất đây, vì thế con chẳng bao giờ nghĩ là con sẽ lấy được niềm tin của họ! Vả lại, theo ‘‘họ’’ thì cho đến bây giờ, con chỉ có tâu, rồi trình, nhưng chưa thấy mình thực sự ích lợi thế nào...’’. Lương im lặng, lát sau nhắc ‘‘...khi anh Nhân được thả về thì chuyện đầu phải làm là giấy tờ kết hôn với chị Ánh, có thế con mới lo được ’’.
Huyền kể lại cho Dân nghe câu chuyện với Lương, ngậm ngùi bảo ‘‘... Lương thật vẫn là em con, và chỉ thế thôi là mợ cũng đã vui lắm rồi ‘’ rồi giục Nhân đi dò hỏi. Chần chừ thêm cả tuần, Nhân mới mang hồ sơ lên phòng Ngoại Vụ của thành phố nộp, lòng vẫn áy náy không yên. Huyền hiểu, gọi Nhân và Ánh đến, nói rành rẽ:
- Mợ chỉ đi Pháp khi có cả Dao Ánh và bé Quỳnh. Nộp đơn bảo lãnh cứ nộp, nhưng phải thúc đẩy giấy tờ đăng ký kết hôn cho nhanh, có mất tiền lót tay cũng cứ làm. Mợ giục Nhân từ lâu vì mợ biết Lương sẽ lo hồ sơ bảo lãnh cho tất cả mọi người.
Những tháng đầu năm 83, số người đi diện bảo lãnh vẫn khá thưa thớt. Dẫu sao, có hồ sơ là có thêm một hy vọng thoát khỏi chẳng phải chỉ nghèo khổ mà cả cái ngột ngạt của một xã hội chông chênh đáng sợ. Chìm đắm trong chiến tranh, xã hội đó đã quen được chi viện. Nhưng Trung Quốc bành trướng bây giờ là kẻ thù số một, Mỹ cấm vận và Liên Xô kiệt quệ không còn giúp đỡ được như xưa. Người dân miền Nam nay cũng quần đen áo bà ba, cũng xe đạp, chẻ củi đun bếp, nhưng chưa quên những phồn vinh giả tạo ngày nào. Mặt khác, có lẽ để tránh cái thói ‘‘nhàn cư vi bất thiện’’ với những người không công ăn việc làm, dân được gọi họp, họp và họp, nghe đi nghe lại những khẩu hiệu đến phát nhàm. Nhưng họ bắt đầu mất tin tưởng vào phép lạ của những thần thánh mới. Người có tiền chi trả để vượt biên đã đi hai ba năm qua. Những chuyến vét sau này, giá xuống nhưng bắt đầu thưa thớt. Cướp biển hãm hiếp. Rồi đến bờ nhưng lại bị xua đuổi và sợ phải tiếp tục lênh đênh tìm một nơi tị nạn, thuyền nhân đục thuyền cho đắm, có thể chết đuối ngay cả khi đã nhìn thấy đất liền. Ðó là những thông tin người còn ở trên bờ rỉ tai nhau, dần dà đẩy lùi giấc mơ đổi đời bằng cái vẩy tay huyền diệu của một bà tiên chỉ có trong cổ tích. Không, vượt biên gian nan lắm, nhất chín nhì bù, nói cách nói người miền Nam.
Trước khi lấy vợ, Lương hẹn đến Tết sẽ mang vợ về chào gia đình. Không hiểu sao, không thấy Lương về. Huyền viết thư cho con hỏi căn do. Ðợi mãi, Lương hồi âm, chỉ báo đơn xin nhập cảnh bị trục trặc. Thơ nhận được dăm ngày sau khi Nhân nộp hồ sơ xin đoàn tụ. Ðưa thơ cho Nhân đọc, Huyền buồn bã:
- Những trục trặc ở xã hội này muôn hình vạn dạng!
Nghĩ đến chuyện Lương đã từng gặp những người như ông Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Cơ Thạch... Huyền đoán chắc lại chuyện trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết. Một bên, những kẻ bảo thủ, là số đông. Bên kia, dăm người tiến bộ cởi mở. Ðại Hội V, bảo thủ thắng. Vậy thì giết ruồi là cách trâu bò cảnh báo nhau. Và Lương, có hơn gì một con ruồi trong vòng quay quyền lực. Huyền thở dài:
- Từ nay, chuyện bảo lãnh không phải là chuyện ta có thể chờ đợi gì nữa. Nhân cố xin hành nghề trở lại và phép mở phòng mạch...
Nhân gật đầu. Ánh lặng người đi, tay ôm lấy con, mắt ươn ướt chực khóc. Ngay sáng hôm sau, Ánh xách giỏ đi. Nhân hỏi, nghe Ánh đáp, giọng quyết liệt:
- Em đi Bà Rịa!
Ðêm đã khuya, nhưng cả ba vẫn ngồi, không ai lên tiếng. Ánh nê-ông chiếu vào bức tường vôi xanh nhạt hắt ngược lên da mặt người sắc nhợt nhạt của những kẻ dầm mình chết trôi. Bất chợt, Huyền nhìn Nhân, giọng cả quyết:
- Khi tương lai ở đằng sau, sống nay mà mai lại chỉ là quá khứ, với mợ thì còn hiểu được nhưng với hai con và bé Quỳnh thì không, vô lý lắm. Mợ cho là Ánh tính đúng, và dẫu gì, Chúa cũng an bài cho mỗi người một số phận. Chép miệng, Huyền tiếp - Mợ cũng đi với các con, sống chết có nhau. Sóng gió có dập vùi, thì đấy là ý Chúa... Các con đừng sợ!
Nhìn lên, Nhân biết một khi mẹ quyết định gì thì rất khó lay chuyển. Thương mẹ đã một đời vất vả, Nhân trầm ngâm:
- Nếu để sống ở đây với nghề nghiệp của con, con chắc sẽ sống được. Ai thế nào, mình cũng sẽ thế ấy...
Huyền ngắt:
- ...tức là có cái ăn, không chết đói và chỉ có thế thôi! Còn bé Quỳnh... và mợ cũng mong hai con cho mợ những đứa cháu khác. Chúng thì sẽ ra sao? Chẳng lẽ tất cả mơ ước cho chúng nó chỉ đơn giản là chúng nó không chết đói? Thời gian mợ ra Bắc, về quê và vào Hưng Nguyên quê cha con, mợ thấy kiểu lý lịch như nhà mình thì tương lai của các cháu mịt mùng lắm. Ðời mợ, thôi thì cứ như xong. Nhưng còn đời các con và các cháu sau này, mợ không đành lòng... Phần mợ, vượt biên mợ cũng đi!
Ánh không nói gì, nhìn Huyền với ánh mắt biết ơn. Huyền đứng dậy, dặn:
- Ánh trả lời cho họ, nhà mình đi như thế là bốn người. Nếu chỉ nội tháng này thì sửa soạn ngay, đến lúc đi được là đi liền. Và đi thì tất cả nhà lúc nào cũng phải có nhau.
Ðợi Huyền ra khỏi buồng, Ánh nắm tay Nhân, oà lên tức tưởi. Áp mặt Ánh vào ngực, Nhân vuốt tóc, nghe Ánh nghẹn ngào:
- Mợ nói thế, chắc đã nghĩ kỹ rồi. Và thế là vì con vì cháu, em không muốn phụ lòng mợ...
Xiết chặt lấy Ánh, Nhân thầm nhủ, sóng gió có đến thế nào đi chăng nữa chàng cũng không thể sống lấy một mình. Nhân lẩm nhẩm, nhắc lời mẹ, tự hỏi sống với tương lai ở đằng sau, có phải là sống không?
Cuối tháng tư, vượt biển vào vụ mùa. Biển ít giông gió, nước theo luồng đẩy cho những con tầu dạt xuống quần đảo Nam Dương. Nếu thuận gió thuận nước, bốn năm ngày là đến bến đến bờ. Cẩn thận, đồ ăn nước uống phải dè chừng cho mười, mười lăm ngày. Rồi xăng, nhớt. Phụ tùng máy. Chân vịt dự phòng nếu hư hại. La bàn và hải đồ. Tất cả, do chủ tầu và tài công lo. Chuyện mua bến mua bãi và đưa người từ bãi đến tầu, Nhân đích thân xuống Bà Rịa gặp Mai và Dũng để tìm hiểu. Mai khẳng định, tầu ba ‘‘lốc’’, có cả một đầu máy dự phòng và số người vượt biển chỉ có bảy mươi hai người, gia đình tài công đi kèm nên không sợ bị lừa.
- Còn bãi, mua rồi anh à! Toàn tụi bạn em nó bán, chắc ăn. Phần anh Nhân, Mai tiếp, anh chuẩn bị thuốc men nhưng gọn nhẹ thôi!
- Ðối phó với cướp biển, cũng phải tính đến. Nhân băn khoăn - vậy mình làm thế nào?
- Dì Tư em là chủ tầu đã có kế hoạch đối phó. Ba đứa con dì xưa một là du kích, một là bộ đội Giải Phóng và một đi Biệt động quân Cộng Hòa. Tụi nó lo phần bảo vệ!
Chồng tiền cho Mai, Nhân hỏi kỹ điểm hẹn và cách đi từ Sài Gòn ra Bà Rịa. Dũng bảo gia đình ông chú Dũng năm người cũng đi, hiện đứa con út đang ở Bà Rịa, khi biết ngày giờ lên đường, nó sẽ về báo. Ðể Nhân yên tâm, Mai nhắc, đến Bà Rịa là không có vấn đề gì với công an biên phòng ở đây, nhưng từ Sài Gòn ra thì phải cảnh giác.
Ánh bắt Nhân đưa lên thăm Sư huynh. Chỉ nhìn nét mặt lo âu của Ánh, Sư huynh đã đoán ra, đùa:
- Muốn bói, thì cô phải đặt quả mới linh!
Nghe Nhân kể về Sư huynh nói gì trúng nấy như ‘‘thánh cho ăn lộc’’, Ánh bám vào tử vi như bám vào một cái phao an toàn. Nàng đi xem ông Minh Lộc, một thầy bói mù nhà gần Phở 79. Rồi nàng đến bà Ðồng khu Vườn Chuối chuyên bói bài tây. Lần này, nàng muốn kiểm nghiệm với kẻ đã tiên tri chuyện đồi trẩu ở Vĩnh Quang trọc đầu để báo ngày về của tù cải tạo. Ánh bóp tay, miệng ngượng ngập, lí nhí:
- Em nhờ bác xem hộ cho, và chỉ hỏi một chuyện!
Sư huynh hỏi ngày sinh tháng đẻ của Ánh, bấm tay tính toán, rồi phán:
- Chắc giờ sai. Cứ theo giờ cô cho, mệnh là Thiên Phủ, phải béo tốt đẫy đà chứ đâu có mảnh mai thế này!
Nhân cười, miệng đùa nhưng có chút chua chát:
- Ăn độn lấy đâu ra mà béo với tốt. Cứ như bác dạy thì người Việt mình bây giờ chẳng mấy ai có sao Thiên Phủ thủ mệnh đâu.
Sư huynh rung đùi, lại lẩm nhẩm bấm tay như bắt quyết. Lát sau, Sư huynh chậm rãi:
- Lấy giờ Dậu tức là lùi lại mười phút, thì mệnh cô là Thái Âm, bộ sao chủ là Cơ Nguyệt Ðồng Lương, đúng với nhân dạng. Bây giờ tôi xem tiểu hạn của cả hai lá số, giờ Dậu và giờ Tuất nhé...
Trầm ngâm, Sư huynh nhắm mắt, tay lại bắt như bắt quyết. Lát sau, Sư huynh nghiêm trang:
- Cả hai lá số, đều đi bình yên, nhưng phải trước tháng sáu. Nếu chậm, thì không nên đi!
Dao Ánh reo:
- Ông Minh Lộc cũng nói thế bác ạ!
Sư huynh cười tủm:
- Không thấy nhân dạng cô, ông ấy xem số lấy giờ Tuất. Nhưng sai lệch năm, mười phút khi ghi giờ sinh là thường. Còn lá số của Nhân, tôi vẫn nhớ, cung Phúc Ðức tốt, mệnh lại Tử Phủ Vũ Tướng, chính phụ có đủ tứ Đức. Thế thì đi đâu cũng lọt...
Nhân lại cười:
- Kể cả đi vào tù với bác!
Sư huynh im lặng. Bất chợt Sư huynh thốt lên, giọng than vãn:
- Cải tạo công thương nghiệp thì hôi của, đổi tiền hai bận là ăn cướp, rồi vượt biên ‘‘bán chính thức’’ thì lột vàng. Họp hành công việc, lúc nào cũng hỏi lý lịch... Thôi, ai đi cứ đi. Ở lại, vô vọng và vô ích. Mươi mười lăm năm nữa, nếu cái đất nước này biết làm sao để ‘‘châu về hợp phố’’ thì hãy về! Với lại, chuyện cậu Lương không được nhập cảnh thì là phức tạp đấy! Ði diện bảo lãnh như vậy đi được lúc nào, chỉ có Trời biết...
Nhân và Ánh về đến nhà khi bé Quỳnh tan học. Cơm chiều dọn lên, nhưng Huyền chỉ chấm đũa, không ăn uống gì. Ðợi bé Quỳnh lên buồng, Huyền mới chậm rãi:
- Mợ đã thay các con lên nghĩa trang thắp hương cho U già và chú Hoàng. Còn chút tiền và vàng, mợ sẽ đổi ra tiền ‘‘đô’’, bỏ bao plát-tích rồi may liền vào giải áo, giải quần cho cả nhà. Năm nay, bé Quỳnh đã lớn. Mợ muốn Nhân mua thuốc ngừa thai, để Ánh và Quỳnh uống ngay. Phải ngừa những chuyện xấu nhất với bọn cướp biển và sửa soạn tinh thần đối phó với mọi tình huống!
Nghe mẹ nói, Nhân nổi gai ốc và cảm thấy tủi nhục vô cùng. Không dám nhìn Ánh, Nhân khẽ gật đầu. Huyền tiếp:
- Mình đi tìm sự sống trong cái chết. Vì vậy, sống... phải sống với bất cứ giá nào! Các con có hiểu mợ không?
Chia thành từng đám nhỏ, người xuống đủ thì ‘‘taxi’’ - một chiếc ghe đuôi tôm - mới chống ra giữa rạch Bến Nghé, nhắm hướng sông Sài Gòn lướt đi không gây ra tiếng động. Chỉ có gia đình ông chú của Dũng và gia đình Nhân. Họ ngậm tăm, lẳng lặng nhìn nhau, ánh mắt không giấu được lo âu. ‘‘Tài xế’’ thì thào:
- Ðến chỗ an toàn mới nổ máy. Bà con cô bác yên tâm, tui làm ‘‘taxi’’ hai năm rồi, chưa bị bắt lần nào!
Không ai trả lời. Thời gian như sợi cao su kéo dài, căng chỉ chực đứt. Trên trời, chim đêm thỉnh thoảng vỗ cánh bay ngang. Trước mặt, tối hù. Ghe không đèn đóm, cứ trôi về phía trước. ‘‘Tài xế’’ trong mắt nhìn, chèo hờm trong tay, lầm lì, chốc chốc nhìn ra sau. Chừng vài ba giờ len lỏi trong một vùng kinh lạch, ghe nổ máy. Lúc đó ‘‘tài xế’’ mới vui vẻ:
- Rồi, bây giờ thoải mái được rồi, bà con...
Ánh thở phào, cài cúc áo bé Quỳnh bị tuột ra, hỏi Huyền:
- Mợ có lạnh không? Gió sông khá lớn...
Huyền lắc đầu. Gia đình ông chú Dũng lao xao nói với nhau. Bà cô, chạc tuổi Huyền, răng nhuộm đen đánh vào nhau lập cập, kêu suỵt suỵt. Ông chú hỏi ‘‘tài xế’’:
- Chừng bao lâu nữa mới tới, chú?
- Chắc thêm một ngày à! Ra tới Phước Trung, phải tới chiều! Có nhiều khúc miệt Cần Giờ phải chống ghe chứ không dám chạy máy, nếu không thì sớm được một buổi!
Thật lạ, từ khi bước chân xuống ghe, Nhân lại hết sợ. Giống hệt ở chiến trường, sợ là lúc chờ đợi, chứ khi đã nghe tiếng súng thì lại tỉnh ra. Mọi sự lúc ấy như không, vì có lẽ dẫu muốn khác đi cũng chẳng được. Trước khi đi hai bữa, Ánh đánh tiếng là cùng Nhân và bé Quỳnh ra Huế, để nếu phải về vì đi hụt cũng không gây ra thắc mắc với tổ dân phố. Phần Huyền, nàng khai đi Lâm Ðồng thăm bà con ngoài Bắc vào vùng kinh tế mới. Nhà khóa trái cửa bên ngoài, giữ một dấu hiệu bình thường không để ai nghi hoặc gì.
Quả nhiên, chiều ngày hôm sau ghe cập bến. ‘‘Tài xế’’ neo ghe, nhảy lên bờ chuyện trò với hai người dân địa phương. Dường như họ đã quen công việc này, một người bỏ đi, người kia xuống ghe, vừa chống ghe vừa nói:
- Chút xíu nữa bà con cô bác lên bộ nghỉ, tối nay mới ra tầu.
Vòng vèo trên những con kinh, ghe ngừng cho mọi người lên một khoảnh vườn trồng măng cụt. Nhân đỡ cho Huyền lên trước. Ánh và bé Quỳnh theo sau, tất cả hầu như đã mệt sau gần một đêm một ngày ngồi bó gối trên chiếc ghe đuôi tôm dài không hơn năm mét. Tài xế dặn:
- Bà con ăn gì cho chắc bụng đi! Tui đợi tầu đi mới về. Nếu kẹt mà không đi được, tui đưa bà con trở lại Sài Gòn, khỏi phải lo!
Khoảng chập choạng tối, một chiếc ghe khác ghé vào. Trên ghe, có Dũng và Mai cùng với hơn một chục người. Dũng hớn hở chào Huyền và Ánh, kéo Nhân ra, thầm thì:
- Cú này đi chót lọn. Có mấy đứa cháu một ông Tỉnh Ủy thì chẳng có công an nào dám bắt! Nhưng giữ kín, lộ ra là chúng nó không đi định cư được!
Nhân nghe, đoán ông Tỉnh Ủy đó chính là cha của Mai, hỏi đối phó với cướp biển định làm thế nào? Dũng đáp:
- Có một trung liên, một súng phóng lựu đạn, hai khẩu AK... Chúng nó kêu đánh Mỹ còn thắng nữa là mấy thằng cướp cạn! Cậu yên tâm.
Mai ra chuyện trò với Ánh và Huyền, chẳng có vẻ gì là sợ hãi. A, Nhân thầm nhủ, cái thế hệ mới ngày nào xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ! Nay vượt biên, họ cũng lì lợm không kém với giấc mơ sang Mỹ làm giầu. Cũng cái nước Mỹ mà họ đã học căm thù thừ tấm bé bỗng thành thiên đường? Hay chẳng qua đó chỉ là nơi ít ra là đỡ tồi tệ hơn quê hương mà họ đã giải phóng để rồi nhận ra thế nào là địa ngục?
Trời tối xuống nhanh như chùm chăn. Gió lay lá cây, tiếng xào xạc như vướng vít lời đay nghiến của những giấc mộng dở dang. Mặt trăng kéo một hình lưỡi liềm chém vào những cụm mây bay ngang, nhát chém ánh lên tóe lửa. Có tiếng chân rậm rịch. Lục đục, đám người sửa soạn xuống ghe ra tầu đợi ở mé khơi. Tự dưng, Nhân bỗng thấy xót xa lạ lùng. Chàng có cảm tưởng như ai đó vừa cứa dao vào lòng mình. Trong bóng tối, Ánh nắm lấy tay bé Quỳnh, long lanh nước mắt. Nhân ngoảnh lại. Huyền đứng cạnh Dũng, xua tay ý bảo Nhân cứ lên ghe, rồi bước theo toán người đi về phía chiếc ghe bên cạnh. Xuống ghe, Ánh và Nhân vẫy Huyền xuống. Mái tóc bạc trắng ánh lên như cước, Huyền cười, tay vẫy lại.
Hai chiếc ghe bơi về phía con tầu bỏ neo cách bờ chừng trăm thước. Chỉ có tiếng khuấy nước, đều đặn, nặng nề. Mặt nước như dát thủy ngân, chập chờn xoay thành vòng, bọt nổi lên rồi vỡ ra lách tách. Ghe cặp vào thành tầu. Thang bỏ xuống, người ở dưới trèo lên, lổm ngổm như những bóng ma vạch mồ chui lên dương thế. Chủ tầu đếm người. Không biết thế nào dư ra mười sáu. Có những kẻ đi ‘‘chui’’. Chắc họ cũng là những kẻ thân thích ruột rà của những người đã trả tiền ‘‘vé’’ cho chuyến vượt biên.
Máy tầu nổ, tiếng động cơ rú lên. Neo đã nhổ. Nhân nhướng mắt quay ngược quay xuôi tìm mẹ. Một lúc sau, Nhân thấy Dũng ở cuối tầu. Nhân bước từng bước một lại gần, hỏi ‘’ Mẹ tôi đâu?’’. Dũng lắc đầu, tay đưa cho Nhân một cái phong bì. Nhân chợt hiểu. Không n?