← Quay lại trang sách

Cái giếng nước Phố cũ miên man

Chả hiểu sao trong khuôn viên ngôi biệt thự ở giữa lòng Hà Nội được xây từ thời thuộc địa lại hiện hữu một cái giếng thơi! Không phải là giếng giả mang tính trang trí như ta vẫn thấy đâu đó trong những biệt thự mới bây giờ, mà là một cái giếng thật sự. Nó được đào từ bao giờ, không ai biết. Sau này khi lớn lên tôi thường tự hỏi: Phải chăng đây là dấu tích của một thời xa lắm, khi mảnh đất này còn là một xóm, một làng của Hà Nội cũ chưa xuất hiện các ông Tây thực dân đến và xây cất lên cái khu phố toàn biệt thự này? Và vị kiến trúc sư lãng mạn nào đó đã “có lòng” với nó, muốn lưu giữ nó lại như một di vật lịch sử khi thiết kế ngôi biệt thự. Như trường hợp cái cột ống khói vẫn hiên ngang trước khách sạn 5 sao Horison hiện nay, là dấu tích nhà máy gạch Đại La từ thời Pháp.

Nằm khiêm tốn ở một góc sân, bên bức tường rào đầy rêu phủ, cái giếng cách với nhà bếp bằng một sân nước nhỏ, nơi luôn đưa ra mùi thoang thoảng, chua chua từ thùng nước gạo - thứ mà nhờ nó, các gia đình ở đây thường nhận được những cái chổi lúa thơm phức mùi rơm do các chị nông dân ngoại thành mang tới đổi. Cái giếng nước, mảnh sân, nhà bếp như ba thành phần của một cơ thể không tách rời nhau được, tạo nên một “tổng thể” nhỏ mang đầy tính xã hội và con người. Bên thành giếng, một cây nhãn già xum xuê tỏa bóng giữa trưa nắng. Đây là nơi giao tiếp của cả người lớn và trẻ con. Nơi mỗi sớm sớm chiều chiều các gia đình cùng ngồi giặt giũ, vo gạo, nhặt rau, mổ cá, làm gà, rửa bát… và họ chia sẻ cùng nhau những câu chuyện tâm tình hay nói về giá gạo, giá rau ngoài chợ. Những tiếng cười rúc rích, tiếng gọi ơi ới và cả những lời thì thầm bí mật của mấy cô cậu lên mười. Bên thành giếng đó, “một chiều cuối năm khi thành phố lên đèn, anh thẹn thùng vội vã nắm tay em” (thơ NTĐ), có một lần tôi đã ghi như thế trong cuốn sổ nhỏ thời niên thiếu của mình.

Vào những ngày hè oi ả, cái giếng là cứu tinh cho cả khu tập thể khi những giọt nước máy chầm chậm nhỏ ra như giọt cà phê.

Lòng giếng thật sâu, nước giếng thật trong và vô cùng mát. Người lớn thường thả xuống những bình bia hơi ngâm dưới giếng những ngày nóng nực. Có một cái bơm tay rất cũ, được sản xuất từ đầu thế kỷ 20, vẫn còn nguyên hàng chữ Pháp. Trông nó sù sì, gân guốc theo kiểu dáng của những vật dụng cơ khí cổ thời mới được phát minh. Trẻ con dăm bảy đứa, đen đủi, gầy gò, thay nhau đánh đu lên cánh tay đòn, đứa bơm, đứa tắm.

Trong sự tĩnh lặng với hình khối vuông vức của tòa nhà và các bức tường, cái giếng tròn như một giọt nước lung linh rơi xuống phá tan đi không khí nóng nực của trưa hè oi ả.

Năm tháng trôi qua, cuộc sống nhiều thay đổi. Lớn lên sống ở xa, mỗi lần về lại ngôi nhà cũ là một lần tôi nghe lòng se lại. Lũ trẻ con xưa đã thành người lớn, các cụ già người còn người mất. Kẻ ra đi, người ở lại, những đứa bé được sinh ra, sân vườn xưa đã hẹp đi nhiều. Thay vào đó là những căn hộ bê tông mới, khép kín và lạnh lùng với những lối đi chật hẹp lúc nào cũng lênh láng nước. Chẳng còn đâu không khí cởi mở ấm áp tình người của thời có cái sân nước chua chua mùi nước gạo năm nào. Niềm an ủi duy nhất còn sót lại của tôi - cái giếng nước - vẫn còn kia, nhưng trông buồn và cô đơn lắm. Nó đầy vẻ tư lự như một cụ già ngồi trầm ngâm lặng lẽ nhìn vật đổi sao dời. Bây giờ mỗi gia đình đã có một “giếng nước” nhỏ nhoi của riêng mình, là những cái hố vuông mỗi cạnh chừng ba tấc, được đào ngay trước đồng hồ nước để người ta trữ nước máy rỉ ra từ đường ống rồi bơm lên vật chứa trên nóc nhà. Chẳng hiểu sao, nước giếng bây giờ vẫn trong nhưng không còn như xưa nữa. Những chiếc lá rơi đầy lòng giếng, thoáng tanh tanh mùi bùn.

Mỗi lần trở về, tôi lặng lẽ đến bên thành giếng, gục đầu vào nó, lòng nặng trĩu một nỗi buồn. Từ trong sâu thẳm của lòng giếng, tôi nghe như có tiếng thì thầm. Những lúc này, tôi tin rằng các vật thể tưởng chừng vô tri vô giác song chúng còn có một cái hồn mà con người có khả năng cảm nhận được. Nó là sự gợi nhớ, là cảm xúc được tạo ra từ mỗi vật thể, dù thật bình thường nhưng chứa dựng biết bao nỗi niềm trong đó.

Hà Nội, tháng 1-2001

Phố cũ miên man

Đã gọi là phố, thường phải có vỉa hè có trồng cây, nếu không thì ra là hẻm, là ngõ. Vậy mà trong lòng Hà Nội lại có một con phố, rất nhỏ thôi, không vỉa hè không cây cối, dài chừng trăm mét với độ mươi nóc nhà, mái ngói cũ kỹ, lô xô…

Nằm lọt tỏm, nối liền hai con đường lớn là Trần Hưng Đạo và Hàm Long, phố rất ít người biết đến nếu chỉ nhắc đến cái tên Nguyễn Chế Nghĩa của nó. Thường cứ phải lấy tên một trong hai con phố lớn ở hai đầu làm mốc chỉ. Và ôm trọn trong lòng nó là cả một di sản kiến trúc biệt thự cũ, mang đậm dấu ấn những thập niên đầu thế kỷ 20.

.

Vào những năm nào đó rất xa, ở đây chỉ là những ngôi nhà kín cổng cao tường, là “phố Tây”, nơi chỉ có những ông chủ Tây và một vài gia đình thuộc giới thượng lưu bản xứ. Bây giờ, qua bao biến đổi của thời cuộc, thời gian và sự lấn lướt của con người, tất cả đã quá đủ để tạo cho nó không chỉ một khuôn mặt đầy vẻ xộc xệch, già nua và khắc khổ mà còn cả một cuộc mổ xẻ, chia cắt từ bên trong. Nhưng đôi lúc có lẽ cũng không nên chỉ cảm nhận cái vẻ đẹp trong sự nguyên dạng của nó, để rồi tâm trạng bị rơi vào hụt hẫng, nuối tiếc cho một báu vật ngà ngọc đang hằng ngày biến dạng. Cũng chả nên coi nó như một thứ “di sản đang chết dần”, mà nên nhìn và cảm nhận nó như một vật thể có số phận, có đời sống, có “quá trình lịch sử” đầy diễn tiến.

Bên dưới những mái ngói sẫm màu rêu phủ kia là những mảng tường vôi bong vỡ, là cái cổng sắt chỉ còn một cánh hoen gỉ, uể oải tựa vào cái trụ gạch cũ kỹ, già nua. Trên mấy ban công nhà, hũ, chậu, lằng nhằng những giàn cây, tạm bợ, cẩu thả nhưng đầy ngẫu hứng. Nhưng ở đó cứ lấp lánh một cái thần, một nét duyên, cái mà ta chỉ có thể cảm nhận bằng tấm lòng chứ không phải theo các tiêu chỉ chuẩn mực của mỹ học.

Kiến trúc ở đây khiến ta liên tưởng đến giai điệu mượt mà, êm ả của những bản nhạc trữ tình vào thập niên 1930, với sự hòa âm tuyệt hảo của tỷ lệ, đường nét, hình khối. Rồi nhìn những gì còn lại có cái gì đó man mác... khiến ta không khỏi chạnh lòng. Cho dù đã có một quán nước chè, hay một hàng bún mọc trổ cửa chui ra từ một bức tường rào nhưng cũng chưa tức mắt cho bằng, đã len vào giữa các khoảng không chuẩn mực là một vài khuôn mặt nhà cửa mới như những nốt nhạc bị phô, lạc điệu. Nó lừng lững, nó sạch sẽ, nó tinh tươm đến nỗi trông bơ vơ, vô cảm thế nào…

Trong long mỗi ngôi biệt thự, sự sinh sôi, lớn lên, phình ra, sự quá tải của từng gia đình đã phá vỡ nhiều cấu trúc vốn có. Giống như một nắm sỏi được rắc xuống tự nhiên, “xóm nhà gạch” ra đời. Mạch giao thông công cộng không còn dừng ở cổng nữa mà chạy tiếp, ngoằn ngoèo, len lỏi vào mãi tận bên trong từng căn hộ. Những “xóm phố trong nhà” được hình thành với đầy đủ đường đi, hang rào, cổng ngõ… chung và riêng. Mỗi sớm, mỗi trưa bà đội thúng bánh mì, chị gánh hàng hoa, anh lông gà, lông vịt… tự do len lỏi vào tận bên trong cái xóm nhà gạch ấy để rao mời, thanh thản như thể đang đi trên con đường làng quê mình vậy. Cái cánh cổng xiêu vẹo kia như chỉ còn là ước lệ, là dấu vết một thời. Càng đi sâu vào “lòng phố”, không gian càng biến hóa. Nó cứ bị chia nhỏ, nhỏ dần cho tới lúc cánh cửa sổ hai nhà đối diện có thể chạm vào nhau được. Những người hàng xóm có thể thì thầm với nhau qua từng ô cửa mà chẳng cần qua lại. Sống ở đây luôn có cảm giác như trong một không gian cô đọng, một tiếng động nhỏ dù ở xa nhưng nghe lại rất gần. Ta có thể phân biệt được từng tiếng mở khóa lách cách của mỗi người, hay nghe thấy tiếng một chiếc thìa rơi xuống sàn bên nhà hàng xóm. Mỗi sớm thức dậy cứ muốn nấn ná mãi trên giường để nghe tiếng thùng nước va nhau, tiếng lào xào nói chuyện vọng lên từ cái máy nước công cộng.

Lại nhớ lúc chiến tranh bom đạn năm nào, cả khu phố rung lên, những cánh cửa kính rơi loảng xoảng. Phố như không người, chỉ thấy đó đây trên những sân thượng lố nhố mấy cái đầu mũ sắt và những nòng súng tóe lửa. Thời đó, chỉ lác đác vài gia đình trụ lại, phố cũng đã mở lòng đón thêm những gia đình từ các khu trọng điểm bị đánh phá sơ tán đến. Mọi người trong phố đều biết tên

nhau, biết nghề nghiệp, tính cách của nhau, gọi nhau ơi ới, vay mì, vay gạo. Con phố như cô tiểu thư đài các năm nào nay đang phải gồng lên, phải đối mặt với cuộc đời có phần pha tạp, lam lũ. Trong từng xóm nhỏ đã hình thành một “nếp sống đô thị” riêng, dân tứ phương đổ về, mang theo các sắc màu đa văn hóa, có lúc thật ấm áp, chân tình, nhưng nhiều khi rất lạnh lùng, đầy ác cảm. Có gì đó thật hiền lành, mà cũng hung dữ. Những vẻ “thuần khiết” xưa kia, chất tiểu tư sản hay dân nghèo thành thị không còn nữa. Thay vào đó là những cách ứng xử vừa trí thức vừa dân dã, nửa tỉnh, nửa quê… trong quan hệ với nhau và trong thái độ cư xử đối với chính cái ‘’ di sản ‘’ mà họ đang cư ngụ. Nó phản ánh rõ cá tính, nếp nghĩ

và nền tảng văn hóa của mỗi cư dân.

Tuy có những lúc người ta than phiền về một điều gì đó đang tan vỡ, nhưng xem ra, cái tiếng rao ời ơi, cái ngạt ngào hương cốm từ những gánh hang phảng phất trong lòng ngõ xóm ấy lại như một sự cứu vãn, một niềm an ủi còn lại. Chưa hẳn là mọi cảm xúc tươi sáng đã bị bóp chết, trước sự bực mình khi đá phải một thau nước giữa lối đi, sự chật chội, tranh giành chiếm lấn từng tấc đất, từng mét hàng rào, hoặc vì sự dèm pha, dòm ngó lẫn nhau.

Cũ mới lẫn lộn, chả muốn thách thức ai, nhưng nó cứ nhởn nhơ, tùy hứng, bỏ ngoài tai những lời than phiền, lo ngại của các bậc trí giả. Như một bức tranh đầy màu sắc, cái “cấu trúc xóm nhà gạch” ấy cứ tồn tại, cứ sống hiển nhiên, với một không khí “rộn rã làng quê ”, xóm trên nhà dưới đầy sinh động. Nói như kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: “Nó không thể khiến ta thờ ơ, nó gợi, nó cuốn ta vào cuộc nói chuyện tay đôi”.

Hà Nội, hè năm Nhâm Ngọ 2002