← Quay lại trang sách

Chương 7 “Giải Phóng”

Chương 7

“giải phóng”

hiều người Việt đã cầm súng với niềm tin họ chiến đấu là để giải phóng miền Nam. Trong suốt nhiều thập niên, truyền thông nhà nước đã lặp đi lặp lại điều này như là chân lý. “Giải phóng” là cách nói để mô tả sự kiện kết thúc vào ngày 30-4-1975. “Giải phóng” là từ không chỉ được dùng bởi những người đi từ trong các chiến khu mà còn được nói như một phản xạ tự nhiên của không ít người dân. Có hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, nhưng hàng chục triệu người miền Nam vẫn chọn con đường ở lại, rồi chính họ sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ về “giải phóng”.

Sài Gòn thay đổi

Chiều 2-5, từ trường Petrus Ký, Ban Kinh tài Thành ủy đưa nhóm ông Võ Văn Kiệt sang “tiếp quản” nhà 222 và 224 đường Phan Thanh Giản321. Ngôi nhà này vốn là nơi ở của tùy viên quân sự Anh. Người giúp việc cho ông tùy viên lại cũng là một cơ sở bí mật của Cách mạng. Ông Võ Văn Kiệt tới, gia đình rất mừng, và từ hôm đó họ trở thành “cán bộ Thành ủy”.

Lại nói về người lái chiếc xe GMC chở “đại quân” vô Sài Gòn chiều 30-4. Khi đưa ông Kiệt tới trường Petrus Ký, Tư Thạch kêu anh lái xe quay lại đón những anh em đi sau. Xong việc, Tư Thạch cho anh về. Tới chiều ông Kiệt hỏi: “Hai chú tài xế chiều nay đâu?”. Anh em nói: “Ảnh về rồi”. Ông Kiệt kêu: “Có hỏi tên tuổi, nhà cửa người ta không?”. Không ai hỏi cả.

Trong ngày hôm đó, biết bao người đã “xuống đường”, rất nhiều người trong số họ đã làm một việc gì đó rồi trở thành “cán bộ”, lớp cán bộ về sau được gọi là “Cách mạng 30-4”; rất nhiều người khác, sau khi “phục vụ cách mạng”, đã trở về nhà và đã vô danh như thế.

Chiều 2-5-1975, khi tình hình đã tạm ổn định, ông Kiệt kêu Chín Anh về Bình Thạnh kiếm gia đình ông Sáu Hoa. Gia đình ông Sáu Hoa là một cơ sở nuôi giấu “Việt Cộng” trong nội thành từ đầu thập niên 1950. Giữa năm 1956, ông Lê Duẩn được ông Nguyễn Văn Linh đón lên Sài Gòn và đưa về giấu trong nhà ông Sáu Hoa gần ba tháng. Năm 1963, từ Củ Chi, ông Võ Văn Kiệt cũng vào Sài Gòn trên một chuyến xe do Sáu Hoa lái ra đón. Cùng với nữ giao liên Sáu Trung, từ đó, theo yêu cầu của ông Kiệt, Sáu Hoa sẽ còn đưa ông Kiệt đi lại công khai nhiều lần. Khi từ Trung ương Cục xuống Khu IX nhận chức bí thư khu ủy, ông Kiệt đã dùng xe của Sáu Hoa đi công khai từ Châu Đốc xuống Rạch Giá. Ông Kiệt cũng đã từng ở lại căn nhà 99/9 Nơ Trang Lơng, Bình Thạnh của Sáu Hoa. Từ đây, một người cháu của ông, Chín Anh, sẽ theo ông Kiệt ra “Khu”.

Chiều 1-5-1975, Chín Anh về Bình Thạnh. Chiếc U-oat322 đi tới đâu, người dân nghiêng ngó, xầm xì tới đó, và khi nó quẹo vô hẻm 99/9, bà con ngỡ ngàng. Mấy đứa con nhà Sáu Hoa kêu to: “Việt cộng! Việt cộng!”. Có lẽ bọn trẻ cũng không biết đó là tiếng kêu mừng hay sợ. Cho đến lúc này, vợ chồng ông Sáu Hoa vẫn hết sức dè dặt, cái dè dặt của người hoạt động trong lòng đối phương quá nhiều năm và đã gặp quá nhiều bất trắc. Lúc đó, vẫn chưa có ai trong xóm biết rõ Sáu Hoa là “Cộng”, kể cả mấy người con của ông. Nhưng lũ trẻ nhanh chóng nhận ra một trong mấy ông đi xe là Chín Anh. Bấy giờ thì chúng mừng rỡ thật.

Chưa kịp ngồi xuống, Chín Anh nói: “Chú Sáu Dân cho gọi bác lên gặp ổng gấp”. “Ảnh ở đâu?”, Sáu Hoa lập cập hỏi. “Thì bác thay đồ lẹ lên, sáng giờ ổng nhắc bác hoài”, Chín Anh giục. Sáu Hoa khoác vội áo, ra xe. Tới nơi, ông Kiệt chạy ra tận cửa, hai người ôm lấy nhau: “Mạnh hả? Hết chết rồi hả?”. Hai ngày sau, ông Kiệt về nhà Sáu Hoa ăn bữa cơm đoàn tụ. Ông ôm từng đứa con của vợ chồng Sáu Hoa, lòng lặng đi. Tính mạng của những thiếu niên này đã từng bị đe doạ ngay chính trong ngôi nhà đó, trong suốt những năm ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh và ông Kiệt sống bí mật ở đây. Ông Kiệt bước tới, bước lui, lên gác, nhìn căn phòng, sờ những đồ vật quen thuộc, những thứ đã từng che cho ông sống.

Năm 1957, trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy sang Phnom Penh và quyết định điều ông Võ Văn Kiệt về Sài Gòn thay ông Linh làm bí thư Khu ủy. Sài Gòn cuối năm 1958, khi ông Kiệt đặt chân trở lại, không còn bình yên. Chính quyền Ngô Đình Diệm đánh tróc từng cơ sở của những người cộng sản. Những cấp ủy viên mà ông Kiệt nhận bàn giao từ Phnom Penh lần lượt bị giết hoặc vô tù. Ông Kiệt đành phải tiếp cận Sài Gòn qua ngả Gia Định. Ông nhận thấy nếu có Gia Định thì Sài Gòn sẽ “tiến thoái” dễ hơn. Ông đề nghị sáp nhập Gia Định vào Khu ủy Sài Gòn và được Trung ương chấp thuận.

Sau ngày 30-4-1975, trước nhu cầu sắp xếp cho hàng loạt bí thư khu ủy, tỉnh ủy từ trong rừng ra, việc định lại địa giới hành chánh đã có nhiều bàn cãi. Theo ông Nguyễn Thành Thơ323: “Ngày 3-5-1975, anh Mai Chí Thọ mời tôi tới truyền đạt chủ trương tách T4324: tôi làm bí thư Sài Gòn; anh Mai Chí Thọ làm bí thư tỉnh Gia Định. Rồi anh Mai Chí Thọ kêu tôi bàn giao hết”. Sau khi “bàn giao gần hết cho ông Mai Chí Thọ”, ngày 5-6-1975, ông Thơ lại nhận được thư mời tới số 7 Thống Nhất325, nghe ông Võ Văn Kiệt phổ biến chính thức: “Trung ương Cục không tán thành tách Sài Gòn-Gia Định, vậy anh là phó bí thư Thành ủy, công việc cũ không thay đổi, nay mai sẽ giao việc mới cho anh”.

Trong thời kỳ quân quản, ông Võ Văn Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt, đồng thời được giới thiệu là bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Ngày 20-1-1976, Chủ tịch Hội đồng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát ký Quyết định 03, thay thế Ủy ban Quân quản bằng Ủy ban Nhân dân Cách mạng, chức chủ tịch được giao cho ông Võ Văn Kiệt; chức bí thư Thành ủy được giao cho ông Nguyễn Văn Linh; ông Mai Chí Thọ lãnh chức phó chủ tịch Ủy ban kiêm giám đốc Công an Thành phố.

Trong buổi lễ bàn giao tổ chức vào sáng 21-1-1976 tại Dinh Độc Lập, Thượng tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Chúng ta đã nắm chắc tình hình trong tay, chế độ cách mạng đã được bảo đảm vững chắc, trật tự trị an ngày càng ổn định. Thành quả ấy đạt được nhờ… nhân dân đã thực sự tham gia xây dựng chính quyền của mình”326.

Tháng 12-1976, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; ông Nguyễn Văn Linh là ủy viên chính thức, được điều về Trung ương, chức bí thư Thành ủy giao lại cho ông Kiệt. Từ trước đó, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là chính ông đã thúc đẩy việc lấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt cho Sài Gòn-Gia Định.

Mấy câu thơ: “Ai đi Nam Bộ / Tiền Giang, Hậu Giang / Ai về Thành phố Hồ Chí Minh / Rực rỡ tên Vàng…”327, mà Tố Hữu viết tháng 8-1954, khi Hồ Chí Minh còn nắm quyền, được coi là “sáng kiến thành văn” đầu tiên về việc đặt tên mới cho Sài Gòn. Có lẽ vì Tố Hữu khi ấy không chỉ là một nhà thơ “anh cả” mà còn là trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, nên ý kiến của ông gần như được mặc nhiên thừa nhận. Lịch sử cũng không ghi nhận bất cứ một phản ứng nào từ Hồ Chí Minh. Các văn nghệ sỹ cách mạng cũng coi đó là “vinh dự” của Sài Gòn.

Trong tuần lễ trước ngày 30-4-1975, nhạc sỹ Cao Việt Bách đã đặt tên cho một bài hát của mình là Tiếng Hát Từ Thành Phố Mang Tên Bác. Bản Thông cáo ngày 3- 5-1975 về việc thành lập Ủy ban Quân quản cũng nói: “Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Ngày 6-5-1975, tờ Sài Gòn Giải Phóng ra đời. Sau đó, tờ Tin Sáng, tờ báo của những người thuộc “lực lượng thứ ba” của Sài Gòn trước 30-4-1975, trên nhiều chuyên mục cũng cho chạy những hàng tít lớn: Thành phố Hồ Chí Minh…

Tuy nhiên, tại kỳ họp đầu tiên của quốc hội thống nhất, khai mạc tại thủ đô Hà Nội ngày 25-6-1976, ông Trường Chinh đã không hoàn toàn đồng ý với cách đặt vấn đề của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt đề nghị Bộ Chính trị để Quốc hội “công nhận Sài Gòn mang tên Thành phố Hồ Chí Minh”, ông Trường Chinh nói: “Quốc hội không phải công nhận mà là xem xét việc đặt tên cho thành phố, vì chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền này”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: Đến giờ giải lao, ông vào phòng dành riêng cho chủ tịch đoàn ở phía sau Hội trường Ba Đình, nơi có mặt Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, phản đối: “Tại sao Quốc hội lại còn phải đặt tên cho Thành phố trong khi chỉ là thừa nhận một sự thật lịch sử?”. Ông Trường Chinh dứt khoát: “Lịch sử phải có văn bản, chưa có văn bản nào nói Sài Gòn đã được đổi tên”. Ông Kiệt nói:

“Lịch sử có nhiều điều không có văn bản”. Ông Trường Chinh ôn tồn: “Thường người ta lấy tên lãnh tụ đặt cho thủ đô”. Ông Võ Văn Kiệt cãi: “Thưa anh, tên của Lênin có phải đặt cho thủ đô đâu!”. Ông Trường Chinh vẫn kiên định: “Quốc hội vẫn phải là cơ quan quyết định việc này”. Ông Kiệt không thể thuyết phục ông Trường Chinh, đành đề nghị: “Nếu như các anh đưa ra Quốc hội quyết định thì các anh phải giải trình đầy đủ quá trình Thành phố mang tên Bác”. Trước Quốc hội, ông Trường Chinh chỉ nói rất ngắn gọn về việc đổi tên Sài Gòn.

Nhiều năm sau, ông Võ Văn Kiệt mới hiểu ông Trường Chinh lưỡng lự không chỉ vì vấn đề thủ tục. Ông Kiệt nói: “Anh Trường Chinh muốn giữ tên Sài Gòn, một cái tên đã được biết đến suốt gần 300 năm”. Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm, Hồ Chí Minh đã được cả hệ thống chính trị suy tôn làm “Cha Già Dân Tộc”, nên khi có người muốn lấy tên ông đặt cho Sài Gòn thì không ai dám đứng ra ngăn cản. Quốc hội đã dễ dàng biểu quyết việc đổi tên Sài Gòn; cũng như, vào lúc 8:20 sáng ngày 2-7-1976, đã dễ dàng đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Trước đó, tháng 8-1975, một loạt đường phố ở Sài Gòn cũng đã được Tuyên huấn Thành ủy cho đổi tên. Tên của các liệt sỹ cách mạng đã được dùng để thay cho tên của những vua chúa, danh nhân thời “đế quốc phong kiến”: Lý Tự Trọng thay thế Gia Long, Võ Thị Sáu thay thế Hiền Vương, Lý Chính Thắng thay cho cụ Tam Nguyên Yên Đỗ,… Các sự kiện mà những người cộng sản đã ghi vào lịch sử cũng được sử dụng để đổi mới các tên đường như Cách Mạng Tháng Tám, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đồng Khởi… Người dân Sài Gòn tức cảnh: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý / Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”. Những thay đổi của miền Nam, của Sài Gòn, không chỉ ở trên những tên đường, tên phố.

Kinh tế mới

Đầu năm 1977, cậu bé Thái Cẩm Hoàng328 thấy nhà mình thường xuyên có khách. Ông tổ trưởng tổ dân phố cùng vài cán bộ ngày nào cũng tới vận động gia đình đi kinh tế mới. Ông nói với mẹ Hoàng: “Chị phải đi thì chồng chị mới được về sớm”. Cha Hoàng, Đại úy Thái Tú Bình, đại đội trưởng đại đội chiến tranh chính trị thuộc tiểu khu Quảng Nam, giờ ấy đang là tù cải tạo. Ông Bình bị bắt ngay sau ngày 29-3-1975, ngày Đà Nẵng được “giải phóng”.

Cuối tháng 3-1975, Hoàng – năm ấy lên bảy – theo mẹ di tản vào Sài Gòn. Ở bãi biển Đà Nẵng, Hoàng đã phải bước trên những xác chết để lên tàu. Kết thúc chiến tranh, Chính quyền Sài Gòn yêu cầu người dân trở về quê cũ, Thái Cẩm Hoàng và các em được mẹ đưa trở lại Hội An, mở một tiệm chạp-pô. Buôn bán khó khăn nhưng trong thời gian đó, mẹ Hoàng còn phải bỏ tiệm đi đắp đập Phú Ninh hơn ba tháng. Hoàng kể: “Một hôm, vừa đói, vừa nhớ mẹ quá, tôi đi bộ từ Hội An lên Đà Nẵng tìm đến nhà dì. Cả nhà hoảng hốt đi tìm. Khi trở về, ông chú đánh cho một trận. Đánh xong, ông ôm tôi vào lòng, khóc”.

Mẹ Hoàng hình dung được điều gì chờ đợi gia đình ở khu kinh tế mới. Nhưng đấy không phải là lựa chọn của những người vợ lính. Hàng xóm chạy qua chạy lại, những người có cùng hoàn cảnh chỉ biết nhìn nhau gạt nước mắt. Biết không thể “chống chính quyền cách mạng”, trước thời điểm rời Hội An, mẹ Hoàng nhờ bà nội qua sống cùng, hy vọng giữ lại được căn nhà. Bà nội tuổi cao, chính quyền không thể buộc bà đi kinh tế mới.

Ngày đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối đuôi nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con rất vui vì sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm thì hết đường. Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu thì tiến vào tới đó. Chập tối, đoàn xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn nghìn con người giữa rừng.

Hoàng nhớ lại: “Hôm sau, các gia đình được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ con đều phải đi chặt cây làm nhà”. Mấy ngày tiếp đó, một đoàn xe tải khác đến, Chính quyền cấp cho dân kinh tế mới khẩu phần lương thực đủ ăn trong ba tháng. Hoàng kể: “Khi biết đoàn người mới đến dựng nhà là dân miền Nam, đồng bào ở buôn Chư Cà Ti, huyện Krongpak, Daklak, đã chủ động sang giúp. Đó là một khu vực đêm đêm Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người Thượng và dân kinh tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông Ana, cách đấy hàng cây số”.

Chính sách được thi hành ở mỗi địa phương thường có những điểm khác nhau. Không phải ở đâu vợ con những người đang ở trong các trại cải tạo cũng phải đi kinh tế mới. Nhiều địa phương coi đưa dân ra khỏi thành phố là để phân bố lại lao động và giải tỏa những áp lực xã hội nảy sinh sau ngày 30-4-1975. Ông Nguyễn Văn Ly, tên thường gọi là Tư Kết, năm 1975 là thư ký riêng của ông Mai Chí Thọ329, kể: “Mỗi đêm, vào khoảng mười một giờ, tôi lại cập nhật các báo cáo nhanh của công an và Bộ Tư lệnh Thành. Không có báo cáo nào là không nói về tình hình người tự tử. Thỉnh thoảng, anh trai của ông Mai Chí Thọ là Tướng Đinh Đức

Thiện qua thành phố, ghé chơi. Thấy tôi loay hoay với mấy bản báo cáo, ông hỏi, ‘Tình hình sao?’. Tôi kể cho ông tình trạng nhiều người cảm thấy bế tắc dẫn đến nạn tự tử ở Sài Gòn. Ông Đinh Đức Thiện nói: vậy là bỏ mẹ rồi, phải đưa đi kinh tế mới mới có công ăn việc làm cho người ta, chứ không còn chết nữa”. Không chỉ Tướng Đinh Đức Thiện nghĩ “kinh tế mới” có thể giải tỏa những bế tắc cho người dân miền Nam. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 24, họp từ ngày 13-8-1975, xác định: “Cấp bách nhất hiện nay là sắp xếp công ăn việc làm cho ba triệu người. Đây là một công việc khó khăn, nhưng ta có thuận lợi lớn là có thể mở thêm ngay vài triệu hecta canh tác đất tốt, dễ làm, nhiều vùng lại không xa Sài Gòn lắm. Hướng sắp xếp là giảm bớt dân các thành thị, đưa 1,5 triệu đến hai triệu người về nông thôn, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp”.

Chỉ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 24 không lâu, ngày 14-9-1975, trong một cuộc làm việc với khoảng bảy mươi kiến trúc sư tại hội trường Đại học Kiến Trúc Sài Gòn, Giám đốc Sở Kiến trúc và Quản lý Nhà đất Huỳnh Kim Trương nói rằng Thành phố sẽ đưa khoảng 1,5 triệu dân “về quê lập nghiệp”. Báo Tin Sáng ngày 16-9-1975 dẫn lời ông Trương: “Từ đây cho tới cuối năm 1975 chúng ta còn phải giảm bớt ba trăm ngàn dân ra khỏi Thành phố Hồ Chí Minh để đưa họ về các vùng lân cận tham gia vào công tác sản xuất. Và đến hết năm 1976 sẽ có thêm một triệu hai trăm ngàn dân về quê làm ăn theo đúng chương trình đã được ấn định”.

Ông Trương cho biết: “Khoảng 600 kiến trúc sư và sinh viên sắp tốt nghiệp kiến trúc sẽ nắm giữ vai trò thiết kế các khu chỉnh trang, cũng như các loại nhà ở cho dân chúng. Ưu tiên này nhằm phục vụ cho các giới đồng bào lao động, những gia đình cách mạng, từ lâu đã hy sinh nhiều nhưng cho đến nay vẫn còn ăn nhờ ở đậu”330. Ông nhấn mạnh: “Công việc của chúng ta hiện này chỉ là một cách trả ơn, trả nghĩa cho những người đó”.

Từ những ngày cuối tháng 8-1975, chính quyền cho xe chở hàng chục nghìn dân về quê. Tính đến đầu tháng 10-1975, có hơn 15.000 dân được đưa đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Người thì lên Bình Phước, Tân Phú, Tây Ninh; người thì xuống Sóc Trăng, Kiến Tường, Vĩnh Long. Chỉ riêng tháng 10-1975, đã có “hơn 100.000 đồng bào Thành phố lên đường xây dựng vùng kinh tế mới. Tính cả gần năm tháng sau giải phóng, đã có gần 240.000 người phấn khởi trở về quê cũ làm ăn”331. Ngày 28- 10-1975, hội nghị mở rộng của Thường vụ Thành ủy chính thức thông qua chủ trương “đẩy mạnh cuộc vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân nhằm đưa 1,5 triệu người không có công ăn việc làm đi xây dựng các vùng kinh tế mới”.

Trước đó, theo “Bản Báo cáo về Thực trạng và Khả năng Kinh tế miền Nam” được ông Nguyễn Văn Nam, một quan chức của Ủy ban liên lạc công thương đọc tại “Nhà hát Tây”332 ngày 4-8-1975: “Phân bố lại lực lượng lao động trong cả nước là yêu cầu khách quan cần thiết của đất nước”. Bản Báo cáo cho rằng: “Nền kinh tế do Mỹ để lại chỉ là một sự phồn vinh giả tạo. Kẻ thụ hưởng chỉ là các tầng lớp tư sản quan liêu còn đại đa số quần chúng vẫn sống một cuộc đời cơ cực, không có ngày mai”333.

Không phải mọi người dân đi kinh tế mới đều bị ép buộc. Theo ông Nguyễn Thành Thơ: “Anh Phạm Văn Xô phụ trách vấn đề kinh tế mới, anh Kiệt giao cho tôi phục vụ anh Hai Xô. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với từng địa phương để nắm các đối tượng phải đi kinh tế mới. Tôi thấy nhiều người dân ở trong những căn nhà chật chội, cạnh ao tù, nghèo đói. Chúng tôi vận động thì họ vui vẻ đi”. Ngay cả ông Tư Kết, đang là thư ký riêng của một nhân vật quyền bính như ông Mai Chí Thọ, cũng tin tưởng vào chính sách này nên đã cùng với anh trai khuyên mẹ, một “bà má phong trào”, bán căn nhà của bà ở Bùi Viện, Quận 1 để đi kinh tế mới. Các quận đoàn lúc ấy đã cử đoàn viên thanh niên, tiên phong phát hoang, mở đường, làm nhà, lập các làng mới trước khi đưa bà con lên.

Theo ông Nguyễn Thành Thơ, nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay buôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn. Ông Nguyễn Thành Thơ thừa nhận, ăn hết tiền, hết gạo do Nhà nước cấp, nhiều người dân lục tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không còn, do đã bán đi trước đó hoặc do bị coi là nhà “vắng chủ” đã bị “Cách mạng 30-4” nhảy vào “chốt” mất.

Không phải khu kinh tế mới nào cũng cho dân quay trở về thành phố một cách dễ dàng. Mỗi khi người dân trong vùng kinh tế mới Krongpak, Daklak, muốn về thăm quê đều phải cắt rừng đi từ nửa đêm. Mỗi gia đình chỉ đi mỗi lần một hai người để tránh bị chính quyền để ý. Có rất ít người nghĩ tới việc bám trụ lại, nhưng những người vợ lính vẫn lo sợ, nếu trốn, chồng mình sẽ không sớm được về. Gần một năm sau, khi tình hình có vẻ yên yên, mẹ của Thái Cẩm Hoàng mới lén gửi Hoàng về Hội An đi học. Nhưng ngay trong năm kế tiếp, khi về thăm lại Hội An lần đầu tiên, mẹ Hoàng đưa hai đứa em về và mang Hoàng lên để chính quyền trên khu kinh tế mới khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, bà mới dám gửi Hoàng về lại.

Tháng 4-1979, ông Thái Tú Bình được tha. Ông viết thư nhắn vợ bỏ khu kinh tế mới về, dự định sẽ đưa cả nhà vượt biên theo Phương án II. Bức thư ông Bình gửi vợ ở khu kinh tế mới mà cứ như đang ở trong chiến khu: “Con ở trên đó ráng xây dựng kinh tế mới, để chồng con sớm được về. Trong xóm có ông Giới đã được về rồi con ạ”. Mẹ Hoàng nhận thơ, rơi nước mắt vì nhận ra nét chữ chồng mình. Giới cũng là tên ông Thái Tú Bình mà chỉ người trong nhà mới biết. Bốn tháng sau mẹ Hoàng mới bế được cậu em út về gặp cha sau khi tìm cách gửi một đứa con, một đứa cháu về trước. Khi ấy, Phương án II đã bị cắt.

Một lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đã quay trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn còn hơn 700.000 người dân đã từng sống ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 không có cơ hội quay lại Sài Gòn sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế mới334. Từ 1976- 1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước được đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới335.

Đốt sách

Năm 1953, khi từ Việt Bắc trở về, ông Võ Văn Kiệt được phân công trở lại Bạc Liêu làm phó bí thư Tỉnh ủy, bí thư là ông Ung Văn Khiêm. Cũng trong những ngày đó, ông Kiệt đã cùng với các đồng chí của mình xây dựng một “xã hội lý tưởng” trong “vùng giải phóng”: Cách mạng cấp hàng trăm nghìn héc-ta đất cho nông dân, xoá bỏ chế độ tô tức của địa chủ, phát triển các mặt chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục. Ông Kiệt nhớ lại: “An ninh tuyệt vời, nhà không phải khóa, vườn không phải rào; vệ sinh từ nhà ở đến xóm ấp đều sạch sẽ; dân chúng hát những bài ca cách mạng, xem văn công cách mạng”.

Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, vào năm 1975, ông cũng mong muốn xây dựng ở Sài Gòn “một xã hội lành mạnh” như ông đã từng làm ở Bạc Liêu. Như nhiều địa phương lúc bấy giờ, một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền quân quản Sài Gòn ra tay là “chiến dịch quét sạch những tàn dư văn hoá phản động và đồi truỵ”. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản đã đứng ra thực hiện chiến dịch này.

Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễu hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay…”336.

Người dân đã đổ xô ra hai bên đường xem rất đông. “Bản hiệu triệu” mà “đoàn diễu hành” đã dùng loa phóng thanh phát oang oang, có đoạn: “Mỹ đã cút, ngụy đã nhào, Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng… Tuy vậy, còn rất nhiều khó khăn phải khắc phục. Dù đế quốc Mỹ đã nhục nhã rút lui, bọn Ngụy quyền và tay sai đã tan rã, nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, chúng đã để lại một xã hội băng hoại, sa đoạ, đầy rẫy người ăn xin, cao bồi, gái điếm, nghiện ngập; một nền kinh tế ăn bám, thiếu sản xuất; một nền văn hoá nô dịch, mất gốc, đồi truỵ, phản động. Cùng với sự xâm lăng bằng súng đạn, xâm lăng kinh tế, chúng nó đã cho xâm nhập hàng loạt sách báo, phim ảnh dâm ô, cổ động chủ nghĩa khoái lạc vật chất, xô đẩy thanh niên vào hố sâu tội lỗi. Bọn tay sai bán nước, trí thức vong bản đã đầu độc quần chúng, thanh niên, học sinh sinh viên bằng những tư tưởng phản động, ru ngủ, bưng bít lịch sử, chống lại Cách mạng. Đứng trước những tàn dư do Mỹ Thiệu để lại, đứng trước yêu cầu của Cách mạng nhằm tạo dựng một nền sống mới, một con người mới từ suy nghĩ tới hành động, nhiệm vụ của đồng bào và thanh niên ta hiện nay là tẩy xoá tận gốc rễ nền văn hoá nô dịch mất gốc, đồi trụy, phản động để thay thế vào đó một nền văn hoá dân tộc, cách mạng và lành mạnh… ”337.

Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”338.

Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận, ngay từ ngày 28-5-1975, Quân quản đã cảnh báo thanh niên, sinh viên học sinh: “Chúng ta không bao giờ chủ trương đốt sách”, và nói rõ “Chiến dịch chỉ thu hồi các sách báo mang nội dung đồi trụy, đầu độc tinh thần thanh thiếu niên, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến dành độc lập tự do của dân tộc”. Tuy nhiên, trong một không khí hết sức cách mạng được lãnh đạo bởi người mới từ trong rừng ra, sự “nhầm lẫn”, sự “quá tay” là không tránh khỏi. Các đội “thanh niên xung kích” nhiều khi đã không cần phân biệt những sách y học có vẽ cơ thể người với những tranh ảnh khỏa thân khiêu dâm, không phân biệt sách triết học với sách chống cộng. Nhiều trí thức đã tìm gặp ông Kiệt để phản ánh tình hình, nhưng, như ông Kiệt nhìn nhận: “Cả tôi và chính quyền đã phải mất khá lâu mới nhận ra những sai lầm đó”339.

Điều khó khăn theo ông Dương Đình Thảo, giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, là làm sao để xác định như thế nào là một văn hoá phẩm xấu. Một cơ quan tuyển chọn đánh giá văn hóa phẩm sau đó đã được ông Võ Văn Kiệt cho thành lập. Tuy nhiên, trước khi có những đánh giá cẩn trọng, các nhà báo cách mạng đã thỏa sức đưa ra các tiêu chí của mình.

Tư Cua, một cây viết “cà rỡn” trên mục Sài Gòn Đó Đây của báo Sài Gòn Giải Phóng đã mượn chuyên mục của mình để “tuyên ngôn” nhiều giá trị văn hóa đậm màu quân quản: “Một đồng bào và cũng là độc giả của báo Sài Gòn Giải Phóng đến toà soạn than thở: Trên một chuyến xe buýt Sài Gòn – Lăng Cha Cả, ngày 29-5, chiếc xe mang số EG 6198, đồng bào rất bực mình vì phải nghe chủ xe mở băng nhạc gồm những bản nhạc rã rời, rên rỉ, dã dượi như người mất hồn: “Khi biết em mang kiếp cầm ca / Đêm đêm phòng trà / Mang tiếng hát cho mọi người”. Độc giả này than phiền rằng giữa lúc mọi người đang phấn khởi xây dựng một xã hội mới mà ông chủ xe buýt lại cho đồng bào nghe những thứ mà hồi Mỹ-Ngụy chúng nó dùng để ru ngủ tuổi trẻ, như thế có phải là trật đường rầy không?… Thời buổi này làm chi còn có cái “kiếp cầm ca”, còn đâu có “đêm đêm phòng trà”, làm chi có chuyện “chỉ còn anh thôi, chỉ còn em thôi”… Bây giờ là lúc ta có tất cả, còn tất cả, chớ đâu có cái lạc lõng bơ vơ, sờ soạng “chỉ còn anh, chỉ còn em” như thế”340.

Tư Cua còn định nghĩa về “sách xấu”: “Nghe nói, trong đám sách ngổn ngang đó, có những tác giả nay đã phủ nhận quê hương, xa lìa dân tộc, chuồn ra ngoại quốc, làm nô lệ đi xin cơm, xin áo ở xứ người! Họ biết không nhỉ! Nghe nói, trong số đám sách ngổn ngang đó, có những cuốn sách đã ru ngủ họ trong suốt hai mươi mốt năm dài chiến tranh và mất nước, ngược lại đã đánh thức những “con heo” trong lòng họ dậy và đã biến cả Sài Gòn thành một “ổ điếm khổng lồ”341.

Ngà y 30-10-1975, trên báo Sài Gòn Giải Phóng, chính quyền công bố một danh sách năm mươi sáu tác giả có tác phẩm bị liệt vào hàng “phản động, dâm ô, đầu đôc̣ ”, bi ̣cấ m lưu hà nh, trong đó có Hoà ng Ngoc̣Liên, Hà Huyề n Chi, Phan Nghi,̣ Võ Hữ u Haṇ h, Nguyên Vu,̃ Lê Xuyên, Nhã Ca, Văn Quang, Chu Tử , Doãn Quố c Sı,̃ Thanh Tâm Tuyề n, Mai Thả o, Dương Nghiễm Mậu.… Nhưng, ngay khi những cuốn sách đầu tiên bắt đầu được đốt ngoài đường bởi Thành đoàn, cũng như nhiều chủ nhà sách khác, chủ nhà xuất bản Cảo Thơm, ông bà Hồ Hải Trần Thế Nam342, đã họp với cộng sự của ông là gia đình ông bà Nguyễn Đức Phong, bàn việc xử lý kho sách lưu trữ của Cảo Thơm.

Trước năm 1954, ông Hồ Hải đã từng có một tiệm sách ở Bờ Hồ. Khi rời Hà Nội di cư vào Sài Gòn, ông cho xuất bản Vang Bóng Một Thời, tập sách được coi là đẹp nhất thời bấy giờ. Chính quyền Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm lúc đầu cấm vì tác giả của nó, nhà văn Nguyễn Tuân, đang sống ở Hà Nội, nhưng bộ máy kiểm duyệt sau đó đã chấp nhận. Cuối thập niên 1960, ông Trần Thế Nam cùng với ông Nguyễn Đức Phong thành lập nhà xuất bản Cảo Thơm. Do ông Phong đang là công chức nên ông Trần Thế Nam đứng tên.

Ngay sau khi quân Giải phóng vào Sài Gòn, cũng như các cơ sở in ấn khác, nhà in số 326/20 Võ Di Nguy343 của Cảo Thơm bị chính quyền Quân quản quản lý. Số sách vở để bên nhà 326/18 bắt đầu được phân ra: Những tập sách khảo cứu của Nguyễn Hiến Lê, sách Lịch sử Triết học Đông phương của Giản Chi, thơ Nguyễn Nhược Pháp, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân… thì được chia nhỏ, giao cho người già, trẻ em mang đi giấu hoặc gửi ở nhà người quen344. Những sách “thị trường” khác thì Cảo Thơm huy động toàn bộ nhân lực trong hai gia đình, xé ra rồi âm thầm bán cho các bà đồng nát345.

Cạo râu

Từ “văn hóa phẩm”, Cách mạng muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân. Tháng 10-1975, đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng” bắt đầu được triển khai. Ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về “tư cách tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đã đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”346.

Khi tường thuật một “phiên tòa quân sự”, trước khi nói rõ tội trạng của các bị cáo, báo chí đã dành nhiều dòng để bày tỏ thái độ của Chính quyền Cách mạng về lối sống: “Lúc ấy là 13 giờ15 ngày 23-12-1975. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía vành móng ngựa khi Thượng tá Chánh thẩm truyền đưa hai can phạm vào. Cả hai đều để tóc dài phủ gáy, đều rất trẻ nhưng vẻ mặt hiện rõ nét ăn chơi, trác táng.

Tên mặc áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, không cài nút cổ, là Đặng Vũ Trường, sinh viên năm thứ nhất. Tên mặc áo đen nâu phủ ngoài một chiếc áo sơ mi vàng sậm là Nguyễn Đắc Hy, quê quán ở An Cựu Đông, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Cả hai đều bị bắt quả tang vào lúc 17 giờ 30 ngày 21-12-1975, ngay sau khi chúng nổ sáu phát súng vào người anh Nghiêm Mạnh Chu để đoạt chiếc Honda-50 kiểu nữ”347.

Chuyện “hớt tóc ngắn, sửa quần ống loe” không chỉ do những phong trào tự phát của “Cách mạng 30-4”. Ngay từ ngày 3-5-1975, Ban Bí thư đã có Điện số 610: “Gửi: Trung ương Cục, anh Sáu, anh Bảy – Bộ Chính trị trao đổi ý kiến thấy rằng trong điều kiện ta thắng to và nhanh, gọn, thế ta mạnh, cho nên càng sớm ổn định mọi mặt càng tốt. Đối với quần chúng cơ bản phải giải thích chính sách, ổn định tư tưởng, làm cho họ tích cực hồ hởi tham gia bảo đảm trận tự an ninh… Đối với báo chí, nên có chủ trương rộng rãi, có cách lãnh đạo thích hợp, như vậy có lợi cho ta trên mặt trận dư luận rộng rãi. Đối với cách ăn mặc của dân, không nên dùng mệnh lệnh cấm đoán, làm phiền phức cho dân mà nên dùng giải thích thuyết phục, khuyên bảo để tránh những kiểu ăn mặc càn quấy, không để dân lầm lẫn rằng ta chống việc ăn mặc đẹp. (Lê Văn) Lương”.

Có những người dân Sài Gòn, khi thấy “quân Giải phóng” tràn về đã nhuộn đen quần áo của các thành viên trong gia đình. Trong những show diễn hiếm hoi sau ngày 30-4-1975, nhiều nghệ sỹ Sài Gòn lên sân khấu mà không dám trang điểm. Nhiều người nghĩ một cách chân thành, Cách mạng về là không còn son phấn và giày cao gót. Nhưng những thứ quần áo mà công điện của Ban Bí thư gọi là “lai căng” đó chỉ một thời gian ngắn sau lại trở thành sự thèm khát của những thanh niên “lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”.

Khi chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần, chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo “Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền Nam tập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được xuất ngũ hoặc về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đã cho “một số ý kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát sự ra vào vùng mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa mãn yêu cầu của cán bộ và nhân dân đi lại thăm viếng gia đình ở miền Nam, nhưng đồng thời để phòng bọn xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn buôn lậu đầu cơ; nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy định rõ ràng cho phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản thân họ, tránh tình trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”. Tuy nhiên, miền Bắc lúc đó đã phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện “văn hóa lai căng” không chỉ lây lan từ miền Nam348.

Ngay tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu tượng của chế độ làm thơ ta thán về sự bất bình thường của Chế độ: “Các-mác (Karl Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn biển năm châu / (Đến Việt Nam thì nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin (Lenin)349” . Lúc đầu ông Võ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài Gòn lại không ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một nhà lãnh

đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Võ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được thanh niên nói thật.

Báo Tuổi Trẻ liền cho mời thanh niên thuộc các thành phần khác nhau, những người đã bị cưỡng bức cắt tóc, cắt quần, đến phòng họp của báo. Trước đó, ông Võ Văn Kiệt và Thư ký Nguyễn Văn Huấn đã đến sớm, ngồi “buông rèm” phía sau lắng nghe.

Những bức xúc, dồn nén đã được các thanh niên Sài Gòn nói ra. Họ không biết một ông “Việt Cộng gộc” cũng đang “tâm trạng” lắm khi nghe họ nói. Theo ông Võ Như Lanh, khi những thanh niên này về hết, kéo rèm ra, thấy ông Võ Văn Kiệt ngồi lặng, mặt rất đăm chiêu. Khi ấy, chưa phải là ông Kiệt đã đồng ý hoàn toàn với những “đòi hỏi” của thanh niên, nhưng ông nhận ra ngay là các giá trị văn hóa không thể được ứng xử bằng những đám đông nồng nhiệt.

Không chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống, người dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đã có trước khi được những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở miền Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đã có thể sở hữu ô tô, còn xe máy hai bánh thì tới đầu thập niên 1970 đã trở thành phương tiện giao thông cá nhân phổ biến350.

Trước khi “được giải phóng”, xăng dầu phục vụ cho các loại xe có động cơ lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng, để thi hành Nghị định 18 của Chính phủ, ngày 12-9-1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định đã ra thông cáo về việc “cấm tồn trữ và bán xăng dầu trên thị trường tự do”. Cùng ngày, Tổng cục Vật tư ra thông báo yêu cầu đến hết ngày 18-9-1975, những ai đang tồn trữ xăng dầu đều phải khai báo và tự bảo quản cho đến ngày 19-9-1975, ngày nhà nước trưng mua toàn bộ xăng dầu. Sau ngày đó, “tư nhân mua bán, đổi chác hoặc tồn trữ xăng dầu bị coi là phạm pháp”351.

Bắt đầu ngày 29-12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đình, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấ y giớ i thiêụ của cơ quan hiêṇ đang công tá c, mang theo tiề n lệ phı́ mỗi phiế u 0,04 đồng” để đăng ký lấy phiếu cung cấp xăng”.

Chính sách tập trung quản lý các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu vào tay nhà nước đã làm cho tình trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó vì không có nhiên liệu hoặc không có phụ tùng thay thế. Ban liên lạc công thương đã phải “hướng dẫn một số nhà tư sả n công nghiêp̣ á p duṇ g nhiề u sá ng kiế n có giá tri ̣trong sả n xuấ t, phuc̣ vụ đờ i số ng nhân dân”. Sá ng kiến sá ng chú ý nhấ t là viêc̣ “chế taọ thà nh công” môṭ loaị chấ t lợp vớ i giá thà nh hạ được đăṭ tên là ca-rô-đa (viế t tắ t tên nhữ ng nguyên liêụ , vâṭ liêụ cấ u taọ ra nó là cao su, rơm, đấ t) của môṭ số nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh chế biế n cao su và nhựa dẻ o. Hợp chấ t nà y có đăc̣ tıń h mề m, không tắ t lử a, không hút nó ng, rấ t tiêṇ duṇ g trong viêc̣ lợp nhà , là m măṭ bàn, măṭ giườ ng352.

Đích thân Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt cũng phải lăn lộn ở những cơ sở chế biến than quả bàng353. Các xưở ng đúc gang thì tìm tòi chế tạo những lò nấ u than quả bà ng bằ ng đấ t có vỏ bằ ng gang. Còn các nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh nông lâm cơ thì đã “cả i tiế n thà nh công” xe ô tô chaỵ bằ ng than là củi: “Bộ phâṇ lò hơi của xe ô tô chaỵ than củi có thể sử duṇ g cho cá c loaị má y bơm nướ c, má y tà u, má y điêṇ : Lâm trườ ng La Ngà , hãng kem Pé c-lông đang sử duṇ g loaị xe cả i tiế n này”354.

Cùng với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm nhiên liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. Hình ảnh hành khách được các lơ xe đón tận nơi, nâng từng túi hành lý, đỡ lên những chiếc xe máy lạnh của các hãng xe đò tư nhân Liên Hiệp, Hiệp Thành, Đông Á, Đại Nam, Phi Long, Tiến Lực từng “chạy suốt” ra Bắc, chỉ mấy tháng sau ngày 30-4-1975 đã nhanh chóng biến mất. Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu sự hành hạ của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo trì. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.

Thêm nữa, không phải cứ có tiền là có thể đi lại. Từ ngày 4-1-1977, việc “đi lại của nhân dân và cán bộ” đều phải có giấy tờ. Đi lại trong phạm vi thành phố và các tỉnh thành phố đều phải xin phép, phải đưa giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và giấy căn cước hoặc giấy chứng nhận cải tạo nếu có, đến công an phường, xã trình bày lý do xin đi sẽ được xét cấp. Người đi đến các vùng bờ biển thì phải mất nhiều ngày và không chắc được cấp giấy đi đường vì chính quyền chống dân vượt biên355. Trong khi đó, trên các diễn đàn, chính quyền tiếp tục ngợi ca “những giá trị mới” mà người dân đang “được hưởng”.

“Cách mạng là đảo lộn”

Tại Sài Gòn, kể từ sau 30-4, ông Trần Bạch Đằng, với danh nghĩa là Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng, thường xuyên nói chuyện tại Câu lạc bộ Thanh niên Thành phố. Quan điểm của Trần Bạch Đằng lúc ấy đóng một vai trò quan trọng trong việc “định hướng thẩm mỹ Cách mạng” cho người dân miền Nam.

Trong một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không nên có chủ trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ở nước ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng và thiếu niên, thì vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu diễn tập thể lại là hình thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.

Theo ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và bọn tay sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh thần” và “cổ vũ cho cái đẹp hình thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”. Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của chủ nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho cùng, chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của người nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó thì phải suốt đời mất nước, suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát giương cái đẹp của lao động đối với thanh niên, định lại chân lý, định lại giá trị của con người”357. Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần thiết”358.

Cùng thời gian đó, chính quyền cho phát hành tại Miền Nam một loạt sách báo cách mạng như: Học Tập Và Làm Theo Gương bác Hồ Vĩ Đại; Sống Như Anh (viết về liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi); Chuyện kể về Lý Tự Trọng, một người cộng sản chết trẻ với câu nói được cho là của anh và được Đoàn sử dụng như là một tuyên ngôn: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không còn con đường nào khác”. Đặc biệt, cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cộng sản – Thép Đã Tôi Thế Đấy – bắt đầu được đưa đến miền Nam. Đây là cuốn tiểu thuyết từng được dịch ra bảy mươi thứ tiếng do nhà văn Nga Nikolai Alexeevich Ostrovsky viết trong thời kỳ Stalin. Nhân vật chính của cuốn sách là Pavel Korchagin, được coi là “hóa thân” của Ostrovsky.

Phương châm sống của Pavel đã được chép lại trong hàng triệu cuốn sổ tay: “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Thời gian đó, không ít thanh niên ngoài đời và thanh niên là nhân vật của những tác phẩm văn học mới, mỗi khi thấy “dao động”, lại ghi vào Nhật Ký: “Đồng chí Pavel ơi! ”359.

Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài Gòn. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đã tập trung ở Sài Gòn chuẩn bị cho những chương trình biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Phòng Không Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài Gòn với các vở diễn như: Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa… Sài Gòn cũng không còn “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền; không còn “Chuyện Một Chiếc Cầu Gãy” với Hoàng Oanh; không còn “Đêm Đông” với Bạch Yến; không còn “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không còn được “Ngậm Ngùi” với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không còn được hát Phạm Duy, Phạm Đình Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu được bước lên sân khấu.

“Vua vọng cổ” Út Trà Ôn tự kiểm điểm với Cách mạng: “Tôi chỉ có một khuyết điểm không sửa được là có 5 bà vợ; còn đối với Cách mạng thì tôi trong sạch”360. Chỉ một thời gian ngắn sau, Út Trà Ôn liên tục “lên sóng” với bài vọng cổ có tên “Đài Hoa Dâng Bác”. Nhờ những mối quan hệ đặc biệt, nữ nghệ sỹ Bạch Tuyết, người từng tham gia ký tên lên trái bom mà các phi công Sài Gòn mang ném ra miền Bắc, cũng bắt đầu được diễn trở lại. Những người không thực sự được nâng đỡ thì chỉ có thể bước lên các sân khấu nhỏ. “Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lập đoàn gồm Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đình, ngủ chợ, mong được hát nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói”361.

Ở các rạp chiếu bóng, những phim cũ cũng biến mất, nhường chỗ cho những phim của Liên Xô, Trung Quốc như: Bạch Mao Nữ, Cát Đỏ, Những Người Báo Thù Không Bao Giờ Bị Bắt… Lúc đầu, người dân Sài Gòn chưa quen những loại phim này, các rạp kêu rất dữ vì có những suất chiếu chỉ có 14-15 người xem. Người dân cũng đã phản ứng trước một số chương trình biểu diễn của các đoàn văn công miền Bắc. Theo Điện đề ngày 17-6-1975 của Ban Bí Thư, do “ông Lành” (Tố Hữu) ký gửi “anh Tư Ánh” (Trần Bạch Đằng): “Về việc các đoàn văn công biểu diễn gần đây bị quấy rối nhiều như điện anh đã báo, đề nghị các anh kiểm tra kỹ tình hình cùng cấp ủy địa phương có biện pháp tích cực ngăn chặn những hoạt động mất trật tự, phải giáo dục quần chúng”.

Chính quyền cũng nhận thấy không thể buộc người dân miền Nam phải “cai” những nhu cầu tinh thần đã gắn bó với họ hàng thập kỷ. Tuy nhiên, theo giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Sài Gòn sau 1975, ông Dương Đình Thảo: Khi cho các nghệ sỹ diễn lại các vở cải lương ăn khách ở miền Nam như Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu, lập tức có phản ứng: “Thành phố đang vui vẻ đi lên thế này sao cho diễn những tuồng rên rỉ ấy”. Nhưng khi các nghệ sỹ Sài Gòn cố gắng diễn những vở “tráng ca”, không chỉ “dư luận” mà ở bên hành lang Quốc Hội nhiều vị khá quan trọng đã than phiền, “Thành ủy TP HCM để cho ‘nghệ sỹ Ngụy’ đóng cả Hai Bà Trưng”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà còn là nhận thức ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lãnh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà Định; đóng Lenin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”362.

Dưới góc độ con người, những văn nghệ sỹ đến từ miền Bắc cũng có nhiều tâm trạng. Năm 1976, nhà thơ ba mươi sáu tuổi Vũ Quần Phương363 khi từ miền Bắc vào thấy “Cô ca sĩ Sài gòn hát bài hát Trường Sơn”, đã viết:

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

Bài hát viết từ rừng le, rừng khộp

Năm ấy Sài Gòn lô nhô cao ốc

Em chưa biết gì về rừng khộp, rừng le

Anh lên xe trời đổ cơn mưa

Mưa chưa ướt vai em khi ấy

Rau hết rồi, măng rừng anh hái

Hái măng rừng chưa có em đi

Trường Sơn đông gánh gạo rừng khuya

Cô gái ấy gánh đi, chứ em chưa biết gánh

Thuở cô ấy ở rừng em ngồi phòng máy lạnh

Cô gái ấy không về và em hát hôm nay.

Đêm Sài Gòn đỏ rực cờ bay

Trước sân khấu, tôi ngồi nghe em hát

Em tô đỏ môi son, em kẻ xanh mi mắt

Cô gái ấy ở rừng không có gương soi

Bài hát như bàn tay còn ấm mồ hôi

Em đang vịn và đi từng hồi, từng nhịp

Những vui buồn đã xa, hôm nay em mới biết

Cô gái ấy rất hiền sẽ dắt tiếp em đi.

Ông Vũ Quần Phương thừa nhận, bài thơ này đã được hình thành ngay từ những ngày đầu ông tới Sài Gòn, tháng 5-1975. Hôm ấy, tại Sài Gòn, có một cuộc gặp mặt giới văn nghệ của cả hai miền. Ông Phương, phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam, được cử đi đón nghệ sỹ Kim Cương. Nữ sỹ Kim Cương khi ấy cũng tỏ ra giản dị, thay vì đi xe hơi riêng đã chấp nhận ngồi sau xe Honda do ông Phương chạy. Ông Phương nói với nữ sỹ: “Chị ngồi cẩn thận bởi tôi lái xe máy chưa quen”. Nghệ sỹ Kim Cương đùa: “Anh yên tâm, nếu tôi có bị gì mai anh xách chiếc xe ‘làm Kim Cương té’ này ra chợ trời bán là được giá lắm”. Ông Phương hiểu sức mạnh công chúng trong thông điệp như đùa đó của Kim Cương.

Đêm ấy, cho dù các nghệ sỹ Sài Gòn đã cố gắng ăn mặc giản dị, họ vẫn “sáng rực” hơn so với những người từ miền Bắc vào hoặc từ trong rừng ra. Nhà thơ Vũ Quần Phương nói: “Khi nghe cô ca sỹ hát bài ‘Mắc võng trên rừng Trường Sơn’, tôi nhớ tới Phạm Tiến Duật, tác giả lời thơ của bài hát đó. Khi ấy Duật đang bị kiểm điểm không biết số phận thế nào vì bài thơ Vòng Trắng. Nhưng bài thơ chỉ bật ra khi năm 1976, trong chuyến đầu tiên sau giải phóng, các văn nghệ sỹ Việt Nam được đi Liên Xô, người ta đã để ca sỹ Trường Sơn Tô Lan Phương ở lại lấy chỗ cho một ca sỹ miền Nam. Tôi hiểu cử chỉ chính trị của các nhà lãnh đạo nhưng vẫn không khỏi chạnh lòng cho những người đã hy sinh tuổi trẻ của mình. Tuy nhiên, khi viết cái kết của bài thơ, tôi vẫn theo chuẩn mực giáo dục lúc bấy giờ, ai sớm muộn gì rồi cũng phải đi theo con đường cách mạng”. Khi ấy, không chỉ có ông Vũ Quần Phương nghĩ con đường “trở thành người tốt” cho các cô gái Sài Gòn là phải được dẫn dắt bởi các “cô gái Trường Sơn”.

Lòng người

Nhanh chóng “xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động” ở miền Nam là một nỗ lực mà những người Cách mạng tin là nhân đạo. Nhưng “đôi khi, con đường đi tới địa ngục lại được đắp bởi những ý định tốt”364. Đã mất hàng chục năm sống trong rừng hoặc sống trong một xã hội khép kín, bưng bít nhưng “Cách mạng” lại quá nồng nhiệt, nôn nóng giáo dục cho những người được học hành từ những xã hội cởi mở hơn, tiếp cận với thế giới đa dạng hơn. Niềm tin và sự nhiệt tình ấy lại được hỗ trợ một cách đắc lực bởi quyền lực tuyệt đối của cả một bộ máy. Cách mạng càng hăng say, càng để lại nhiều tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho những người dân “trong vùng giải phóng”.

Cái khí thế quần chúng nhìn thấy trên đường phố và được tường thuật trên báo chí nhà nước trong những ngày ấy không phải là những gì đang diễn ra trong lòng người dân Sài Gòn, người dân miền Nam. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc, khi ấy, đang dạy học ở trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Năm học 1976-1977, trong lớp bà có một học sinh, khi ấy đang học lớp 10, đã khắc mấy câu thơ lên bàn học:

Không muốn ngồi yên để đợi trông

Thích làm Từ Hải giữa muôn lòng.

Cộng lại những gì trong quá khứ,

Sản khoái trong lòng thoả ước mong

Theo bà thì không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả chữ “sảng” thành chữ “sản” mà học sinh ấy có ý định ghép bốn từ đầu ở các câu lại thành cụm từ: không thích cộ