← Quay lại trang sách

Ngọn Lửa Đôi Khi.

Cuộc chiến tranh cuối cùng kiểu Trung cổ xảy ra ở Ý năm 1943 và 1944. Những thị trấn đồn lũy trên những mũi đất quan trọng đã bị tranh giành từ thế kỷ thứ VIII, bây giờ những vị vua mới lại bất cẩn ném những đạo quân của họ đến đấy. Quanh những vách đá là những chiếc cáng qua lại, những vườn nho bị tàn phá, ở nơi ấy nếu bạn đào sâu bên dưới vết rãnh xe tăng, bạn sẽ tìm thấy rìu và giáo. Monterchi, Cortona, Urbino, Arezzo, Sansepolcro, Anghiari. Rồi dọc theo bờ biển.

Lũ mèo ngủ trong những tháp pháo hướng về phía nam. Người Anh và Mỹ và Ấn Độ và Úc và Canada tiến lên phía bắc, những vết đạn pháo bùng nổ rồi tan vào không gian. Khi những đạo quân tập trung ở Sansepolcro, thị trấn với biểu tượng là cây nỏ, một số binh sĩ tìm được nỏ và ban đêm lẳng lặng bắn chúng qua những bức tường của thành phố chưa chiếm được. Thống chế Kesselring của đội quân Đức đang rút lui đã cẩn trọng cân nhắc ý kiến đổ dầu sôi từ các lỗ châu mai xuống.

Những học giả về thời Trung cổ bị lôi ra khỏi các trường đại học ở Oxford và được đưa bằng phi cơ đến Umbria. Tuổi trung bình của họ là sáu mươi. Họ trú cùng quân lính, và trong những buổi họp với Bộ Tư lệnh Chiến lược họ cứ quên mất phi cơ đã được phát minh rồi. Họ nói đến các thị trấn bằng nghệ thuật tại nơi ấy. Monterchi có bức tranh tường Madonna del Parto[32] của Piero della Francesca, nằm trong một giáo đường nhỏ bên cạnh nghĩa trang tỉnh. Khi cuối cùng tòa lâu đài xây vào thế kỷ XIII bị chiếm trong những cơn mưa xuân, quân lính trú dưới vòm cao của giáo đường và ngủ cạnh bục giảng kinh bằng đá chỗ Hercules giết con rắn chín đầu Hydra. Chỉ có nước độc. Nhiều người chết vì bệnh thương hàn và những bệnh sốt khác. Dùng ống nhòm quân đội ngước nhìn lên trong nhà thờ kiểu Gothic ở Arezzo, quân lính sẽ gặp những khuôn mặt người cùng thời với họ trong những bức tranh tường của Piero della Francesca. Hoàng hậu Sheba trò chuyện cùng Vua Solomon. Gần đấy một cành nhỏ của Cây Tri Thức Thiện Ác[33] được nhét vào trong miệng xác Adam.

Nhiều năm sau bà hoàng hậu này sẽ nhận ra rằng cây cầu bắc ngang Siloam[34] được làm bằng gỗ của gốc cây thánh này.

Trời mưa và lạnh liên miên, không có trật tự nào ngoài những tấm bản đồ nghệ thuật quan trọng bày tỏ sự phán xét, lòng sùng tín và đức hy sinh. Hết sông này đến sông khác, khi Binh đoàn Thứ tám đến bên sông, cây cầu qua sông đã bị phá hủy, và những đội công binh của họ leo xuống bờ sông trên những chiếc thang dây, trong lằn đạn địch, bơi hoặc lội bì bõm qua sông. Thức ăn và lều bị cuốn đi. Những người cột liền vào dụng cụ biến mất. Khi đã qua sông, họ cố sức leo lên khỏi mặt nước. Họ thọc bàn tay và cổ tay vào vách bùn dốc của bờ sông và bám vào đấy. Họ muốn bùn cứng lại và giữ họ không bị tuột.

Anh công binh trẻ người Sikh áp má vào bùn và nghĩ đến khuôn mặt của Hoàng hậu Sheba, làn da của bà. Trong dòng sông này, không có nguồn an ủi nào cho anh ngoài nỗi thèm muốn của anh đối với bà, không hiểu vì sao đã khiến anh ấm áp. Anh sẽ kéo tấm mạng ra khỏi mái tóc bà. Anh sẽ đặt bàn tay phải vào giữa cổ bà và chiếc áo màu olive. Anh cũng mỏi mệt và buồn bã, như vị vua khôn ngoan và bà hoàng hậu tội lỗi anh đã nhìn thấy ở Arezzo hai tuần trước đấy.

Anh treo mình trên dòng nước, hai bàn tay bám cứng vào bờ sông bùn lầy. Tính cách, nghệ thuật tế nhị ấy, đã biến mất giữa họ trong những ngày đêm đó, chỉ còn tồn tại trong một cuốn sách hoặc trên một bức bích họa. Trong bức bích họa trên vòm giáo đường ấy, ai buồn hơn? Anh nghiêng về phía trước để ngơi nghỉ trên làn da nơi cần cổ mỏng mảnh của bà. Anh yêu đôi mắt nhìn xuống của bà. Người phụ nữ này, một ngày kia sẽ biết sự thiêng liêng của những cây cầu.

Ban đêm, trên giường trong doanh trại, hai cánh tay anh duỗi thẳng ra xa như hai đạo quân. Không có hứa hẹn nào về giải pháp hoặc chiến thắng ngoại trừ thỏa ước tạm thời giữa anh và bà hoàng vẽ trên bức tranh tường, người sẽ quên anh, không bao giờ thừa nhận sự hiện hữu của anh hoặc nhận biết anh, một người Sikh, lưng chừng trên một cái thang dây của lính công binh trong mưa, đang dựng một cây cầu tiền chế kiểu Bailey cho đạo quân phía sau anh. Nhưng anh nhớ bức tranh trong câu chuyện của họ. Một tháng sau, khi những tiểu đoàn đến bờ biển, sau khi họ sống sót qua tất cả và tiến vào thị trấn ven biển Cattolica, sau khi đội công binh đã dọn sạch mìn ở một đoạn bãi biển dài hai mươi mét để những người lính có thể trần truồng đi xuống biển, anh đến bên một nhà học giả về thời Trung cổ đã kết bạn với anh - chỉ qua một lần người ấy nói chuyện với anh và chia cho anh chút thịt hộp - và hứa sẽ cho ông thấy một thứ để đáp lại lòng tốt của ông.

Anh công binh ký nhận sử dụng một xe gắn máy Triumph, buộc một ngọn đèn khẩn cấp màu đỏ thẫm vào cánh tay, rồi họ đi ngược lại hướng cũ - trở lại và băng qua những thị trấn giờ đây là vô hại như Urbino và Anghiari, men theo con đường ngoằn ngoèo trên đỉnh dãy núi như cái xương sống dọc theo chiều dài nước Ý, ông già thu người ngồi đằng sau ôm chặt lấy anh, rồi đổ xuống triền núi phía tây đến Arezzo. Quảng trường ban đêm vắng vẻ không có quân lính, anh công binh đậu xe trước giáo đường. Anh đỡ nhà học giả về thời Trung cổ xuống, thu góp dụng cụ của anh và bước vào giáo đường. Bóng tối lạnh lẽo hơn. Sự trống vắng rộng lớn hơn, tiếng giày bốt của anh lấp đầy khoảng không gian. Một lần nữa anh ngửi thấy mùi gỗ và mùi đá lâu năm. Anh thắp ba ngọn pháo sáng. Anh quăng dây qua hàng cột phía trên gian giữa của giáo đường, rồi bắn một cái đinh tán luồn sẵn dây thừng vào một rầm gỗ cao. Vị giáo sư đại học ngắm anh với vẻ kinh ngạc, thỉnh thoảng ngước nhìn lên vùng bóng tối trên cao. Anh công binh trẻ đi vòng quanh ông, cột một sợi dây ngang thắt lưng và vai ông, lấy băng keo dán một cây pháo sáng nhỏ đã thắp sẵn vào ngực ông già.

Anh để ông lại bên bao lơn ban Thánh Thể, ồn ào leo lên thang đến tầng trên, chỗ đầu kia của sợi thừng. Nắm chặt nó, anh bước ra ngoài ban công vào bóng tối, cùng lúc ông già được đưa lên cao, thật nhanh, cho đến khi anh công binh chạm đất thì ông đang đong đưa chầm chậm trên không trung, cách những bức tường vẽ khoảng một mét, cây pháo sáng tỏa ra một vầng sáng chung quanh ông. Vẫn giữ sợi thừng, anh công binh bước đến phía trước cho đến khi ông già đu sang bên phải và lơ lửng trước mặt bức Cuộc chạy trốn của Hoàng đế Maxentius[35].

Năm phút sau anh đỡ ông già xuống. Anh thắp một cây pháo sáng cho mình và đu người lên vòm cao trong màu xanh thẳm của bầu trời giả tạo. Anh vẫn còn nhớ những ngôi sao vàng trong bầu trời từ lúc anh dùng ống nhòm để ngắm nó. Nhìn xuống, anh thấy nhà học giả về thời Trung cổ ngồi trên một băng ghế, mệt nhoài. Bây giờ anh nhận thức được chiều sâu, chứ không phải chiều cao, của giáo đường này. Cảm giác mềm mại của nó. Sự trống rỗng và bóng tối của một miệng giếng. Cây pháo sáng trong tay anh phun tia lửa như một cây đũa thần. Anh kéo mình lên ngang mặt bà, bà Hoàng Hậu U Buồn của anh, bàn tay màu nâu của anh vươn ra, bé nhỏ trên cần cổ khổng lồ.

Người lính Sikh dựng lều ở cuối vườn, chỗ Hana nghĩ rằng trước kia có trồng cây oải hương. Nàng đã tìm thấy những chiếc lá khô trong khoảng đất ấy, vò lá giữa những ngón tay và nhận diện mùi cây. Thỉnh thoảng sau một cơn mưa, nàng nhận ra mùi thơm của nó.

Thoạt tiên anh không muốn vào nhà. Anh bước qua nhà khi anh đi làm phận sự này hay phận sự khác liên quan đến chuyện gỡ mìn. Lúc nào anh cũng lịch sự. Khẽ gật đầu. Hana thấy anh tắm bên một chậu nước mưa, được trang trọng đặt trên một chiếc đồng hồ mặt trời. Vòi nước trong vườn, lúc trước dùng cho luống hạt, giờ đây đã cạn khô. Nàng nhìn thấy tấm thân trần màu nâu của anh trong lúc anh tự tạt nước lên mình như một con chim quạt đôi cánh. Ban ngày nàng để ý nhiều nhất đến hai cánh tay anh trong chiếc áo sơ mi quân đội ngắn tay và khẩu súng trường luôn luôn ở bên anh, mặc dù bây giờ những trận đánh dường như đã chấm dứt đối với họ.

Anh có những tư thế cầm súng khác nhau - súng xuôi bên hông, súng nâng lên vai, hai khuỷu tay anh hơi gập lại. Anh sẽ quay người, đột nhiên nhận ra nàng đang ngắm anh. Anh đã sống sót qua những nỗi sợ hãi của mình, sẽ đi vòng qua bất cứ vật gì khả nghi, nhận lấy cái nhìn của nàng trong khung cảnh này như thể xác nhận anh có thể đối phó với tất cả.

Anh biết tự túc, đấy là điều nhẹ nhõm đối với nàng, với tất cả mọi người trong nhà, dù Caravaggio càu nhàu rằng anh công binh không ngừng âm ư những bài hát Tây phương anh tự học trong ba năm vừa rồi của cuộc chiến. Người lính công binh kia, người đã đến cùng anh trong mưa bão, tên gọi Hardy, trú ở nơi khác, gần thị trấn hơn, dù nàng đã thấy họ làm việc chung, vào vườn với những cây đũa thần là dụng cụ gỡ mìn.

Con chó vẫn theo Caravaggio. Người lính trẻ chạy nhảy với nó dọc lối đi nhưng không chịu cho nó chút thức ăn nào, cho rằng nó phải tự mình sinh tồn. Nếu anh tìm thấy thức ăn thì anh ăn một mình. Sự nhã nhặn của anh có giới hạn. Có những đêm anh ngủ trên gờ ban công nhìn xuống thung lũng, chỉ bò vào lều nếu trời mưa.

Phần anh, anh chứng kiến Caravaggio lang thang trong đêm. Hai lần anh công binh đi theo xa xa phía sau Caravaggio.

Nhưng hai ngày sau Caravaggio chặn anh lại và nói, Đừng theo tôi nữa. Anh bắt đầu chối, nhưng người đàn ông lớn tuổi hơn đặt bàn tay ngang khuôn mặt nói dối của anh và khiến anh im lặng. Như thế người lính biết Caravaggio đã nhận ra anh hai đêm trước. Dù sao đi nữa, chuyện theo dõi chỉ là tàn tích của một thói quen người ta dạy cho anh trong cuộc chiến. Cũng như ngay cả bây giờ anh thèm giơ súng nhắm bắn chính xác một mục tiêu nào đó. Nhiều lần anh nhắm cái mũi của một pho tượng hay một trong những con chim ưng màu nâu chao liệng trên bầu trời thung lũng.

Anh vẫn còn rất trẻ. Anh ăn ngấu nghiến, dọn dẹp vội vàng, tự cho phép mình nửa giờ để ăn trưa.

Nàng đã ngắm anh trong khi anh làm việc, cẩn trọng và không đổi như một con mèo, trong vườn cây ăn trái và khu vườn um tùm phía sau nhà. Nàng để ý làn da cổ tay anh màu nâu sậm hơn, đeo cái vòng rộng đôi khi reo leng keng khi anh uống một tách trà trước mặt nàng.

Anh không bao giờ nói về sự nguy hiểm đến cùng việc tìm kiếm của anh. Thỉnh thoảng một tiếng nổ khiến nàng và Caravaggio vội vã ra khỏi nhà, tim nàng căng thẳng vì tiếng nổ xa xa. Nàng chạy ra ngoài, hoặc chạy đến bên một cửa sổ, thấy Caravaggio trong một góc nhìn của nàng, và họ sẽ thấy anh công binh chậm rãi vẫy tay về phía căn nhà, thậm chí không quay lại từ hàng hiên trồng rau thơm.

Một lần, Caravaggio vào thư viện và thấy anh công binh trên trần nhà, chỗ bức trompe l’oeil - chỉ có Caravaggio mới ngước nhìn lên bốn góc trần nhà khi bước vào để xem có ai trong phòng hay không - và người lính trẻ, mắt vẫn chăm chú, giơ tay ra và búng ngón tay, khiến Caravaggio dừng lại, lời cảnh cáo nên rời phòng vì an toàn trong khi anh gỡ rồi cắt sợi ngòi nổ anh đã lần theo đến góc phòng ấy, ẩn trên tấm màn cửa.

Lúc nào anh cũng hát nho nhỏ hoặc huýt sáo. “Ai đang huýt sáo đấy?”, một đêm bệnh nhân người Anh hỏi, chưa gặp hoặc thậm chí chưa nhìn thấy người mới đến. Lúc nào anh cũng ca hát một mình khi anh nằm trên gờ ban công nhìn lên những đám mây đang biến dạng.

Khi anh bước vào tòa villa có vẻ trống vắng, anh lại ồn ào. Anh là người duy nhất trong số họ còn mặc quân phục. Áo quần chỉnh tề, khóa dây nịt chùi sáng loáng, anh công binh hiện ra từ lều của mình, khăn xếp trên đầu anh gấp lớp cân đối, giày bốt sạch sẽ nện trên sàn gỗ hoặc đá của căn nhà. Đang giải quyết một vấn đề, anh có thể phá ra cười ngay đấy. Dường như anh yêu thân thể mình, thể chất của mình, một cách vô thức, khi anh cúi xuống nhặt một lát bánh mì, khi những khớp ngón tay anh phớt qua mặt cỏ, thậm chí khi anh lơ đãng xoay tròn khẩu súng trường như một cái chùy lớn trong lúc anh bước trên lối đi viền cây bách để gặp những người lính công binh khác trong làng.

Anh có vẻ tạm hài lòng với nhóm người ít ỏi trong tòa villa, là một vì sao không cố định nằm ngoài rìa hệ thống hành tinh của họ. Đối với anh, thời gian này như kỳ nghỉ lễ sau cuộc chiến đầy đất bùn và sông và cầu. Anh chỉ vào nhà khi được mời, một người khách ngần ngại, cũng như buổi tối đầu tiên lúc anh theo tiếng dương cầm ngập ngừng của Hana, đi trên lối đi viền cây bách rồi bước vào thư viện.

Anh đã đến tòa villa trong đêm mưa bão ấy không phải vì tò mò về tiếng đàn, mà vì mối nguy hiểm đối với người chơi đàn. Đội quân đang rút lui thường để lại mìn bút chì bên trong nhạc cụ. Những người chủ trở về, mở cây đàn dương cầm và mất bàn tay. Người ta sẽ đẩy quả lắc của một cái đồng hồ lớn, và một trái bom thủy tinh sẽ làm nổ tung nửa bức tường và bất cứ ai gần bên.

Anh theo tiếng dương cầm, cùng Hardy chạy lên đồi, trèo qua bức tường đá vào tòa villa. Khi nào tiếng đàn chưa ngưng thì người chơi đàn sẽ chưa nghiêng về phía trước và kéo dải kim loại mỏng ra cho máy nhịp bắt đầu. Đa số bom bút chì được giấu ở đấy - chỗ dễ hàn sợi dây kim loại mỏng thẳng đứng nhất. Những trái bom được gắn vào vòi nước, vào gáy sách, chúng được đục vào cây ăn trái để một trái táo rơi xuống cành cây thấp hơn sẽ làm nổ thân cây, cũng như một bàn tay ghì lấy cành cây sẽ làm bom nổ. Anh không thể nhìn một căn phòng hoặc một cánh đồng mà không thấy những chỗ có thể có vũ khí.

Anh đã dừng lại bên hai cánh cửa kiểu Pháp, tựa đầu vào khung cửa, rồi lẻn vào phòng, và ngoại trừ những lúc có ánh chớp, anh ở trong bóng tối. Một cô gái đứng đấy, như đang đợi anh, nhìn xuống những phím đàn cô đang gõ. Mắt anh nhìn căn phòng trước khi nhìn cô, quét ngang căn phòng như một tia radar. Máy nhịp đang kêu tích tắc, rồi đong đưa với vẻ vô hại. Không có mối nguy hiểm nào, không có sợi dây kim loại bé xíu nào. Anh đứng đấy trong bộ quân phục ướt đẫm, cô gái thoạt tiên không biết anh đã vào phòng.

Bên cạnh lều của anh, ăng ten của một cái radio tinh thể treo trên cây. Ban đêm, nếu nàng nhìn về hướng ấy bằng ống nhòm của Caravaggio, nàng có thể thấy màu xanh lân tinh ở mặt số radio, bất ngờ bị che khuất bởi thân hình của anh công binh nếu anh di chuyển ngang tầm nhìn. Anh đeo cái radio nhỏ ấy suốt ngày, chỉ gắn một loa của headphone vào đầu, loa kia buông thõng dưới cằm, như thế anh có thể nghe những âm thanh của thế giới bên ngoài, những âm thanh có thể là quan trọng đối với anh. Anh sẽ vào nhà để chuyển lại bất cứ tin tức nào anh nghe thấy và anh nghĩ có thể là đáng chú ý đối với họ. Một buổi chiều anh thông báo nhạc trưởng Glenn Miller đã qua đời, máy bay của ông bị rớt đâu đó giữa Pháp và Anh.

Anh di chuyển giữa họ như thế. Nàng thấy anh xa xa trong một khu vườn không còn tồn tại với máy dò mìn, hoặc nếu anh đã tìm ra cái gì, gỡ nút thắt những dây điện và ngòi nổ ai đó đã để lại cho anh như một lá thư rùng rợn.

Anh rửa tay luôn. Thoạt tiên Caravaggio nghĩ rằng anh quá kỹ tính. “Làm thế nào cậu sống qua được cuộc chiến?”, Caravaggio cười lớn.

“Tôi lớn lên ở Ấn Độ, chú ạ. Người ta rửa tay luôn. Trước khi ăn. Thói quen thôi. Tôi sinh ra ở Punjab.”

“Tôi từ châu Mỹ Thượng”, nàng nói.

Anh ngủ nửa người trong lều nửa người ngoài lều. Nàng thấy hai tay anh tháo headphone và thả chúng xuống đùi.

Rồi Hana đặt ống nhòm xuống và quay đi.

Họ ở bên dưới một mái vòm lớn. Người trung sĩ thắp một cây pháo sáng, và anh công binh nằm trên sàn nhà, ngước nhìn lên qua ống nhắm của cây súng trường, nhìn những khuôn mặt màu đất son như thể anh đang tìm một người anh em trong đám đông. Điểm nhắm rung rung trên những nhân vật trong Thánh Kinh, ánh sáng nhuộm đẫm những bộ lễ phục nhiều màu sắc và da thịt đã thẫm màu sau hàng trăm năm tẩm khói dầu đèn và nến. Bây giờ là hơi khói màu vàng này. Họ biết làm thế là thái quá trong chốn tôn nghiêm này, thế nên những người lính sẽ bị đuổi ra ngoài, sẽ bị ghi nhớ vì đã lạm dụng sự cho phép họ nhận được để vào xem Đại Sảnh. Họ đã đến đây sau khi lội bì bõm lên những bãi đổ bộ và trải qua một ngàn cuộc giao tranh của những trận đánh nho nhỏ và trận giội bom ở Monte Cassino, rồi bước đi trong sự lễ độ thinh lặng băng qua Raphael Stanze[36] cho đến khi, cuối cùng, họ có mặt ở đây, mười bảy người đã đổ bộ lên Sicily và chiến đấu dọc theo cổ chân của nước Ý để có mặt ở đây - nơi họ được vào chỉ là một căn phòng lớn hầu như tối tăm. Như thể chỉ có mặt ở đấy là đã đủ.

Một người trong số họ nói, “Khỉ thật. Có lẽ thêm chút ánh sáng, Trung sĩ Shand?”. Anh trung sĩ tháo chốt pháo sáng rồi giơ thẳng tay lên, dòng thác ánh sáng tuôn ra ngoài nắm tay của anh, và đứng như thế trong suốt thời gian pháo sáng cháy. Những người còn lại đứng nhìn lên những hình dáng và khuôn mặt chật kín trên trần hiện ra trong làn ánh sáng. Nhưng người lính công binh trẻ đã nằm ngửa, nhắm bằng cây súng trường, mắt anh gần như chạm vào chòm râu của Noah và Abraham và những ác quỷ khác nhau cho đến khi anh gặp khuôn mặt cao quý khiến anh lặng yên, khuôn mặt như một ngọn giáo, khôn ngoan, nghiệt ngã.

Những người lính gác đang la hét ở lối vào, anh có thể nghe thấy những bước chân chạy, cây pháo chỉ còn sáng ba mươi giây nữa. Anh lăn sang và đưa cho ông cha tuyên úy cây súng trường. “Người kia kìa. Ai thế? Hướng ba giờ tây bắc, ai thế? Nhanh lên, pháo sáng sắp tắt.”

Ông cha tuyên úy ôm cây súng trường, quét nó đến góc phòng, và cây pháo sáng tắt.

Ông trả lại cây súng cho người Sikh trẻ tuổi.

“Anh biết là tất cả chúng ta sẽ gặp nhiều rắc rối vì đã dùng vũ khí trong giáo đường Sistine. Đáng lẽ tôi không nên đến đây. Nhưng tôi cũng phải cám ơn Trung sĩ Shand đã anh dũng làm thế. Tôi chắc chúng ta cũng chưa gây ra thiệt hại gì.”

“Ông có nhìn thấy không? Khuôn mặt đấy. Ai thế?” “À đúng, đấy là một khuôn mặt cao quý.”

“Ông đã nhìn thấy.”

“Vâng. Isaiah.”

Khi Binh đoàn Thứ tám đến Gabicce trên bờ biển miền Đông, anh công binh là trưởng đội tuần đêm. Vào đêm thứ hai, anh nhận được một tín hiệu qua làn sóng ngắn báo rằng có chuyển động của địch quân ngoài biển. Đội tuần tiễu bắn một viên đạn pháo và nước tung lên, một phát súng cảnh cáo bắn hú họa. Họ không bắn trúng cái gì cả, nhưng trong những tia nước màu trắng của vụ nổ anh nhìn thấy một hình dáng tối thẫm hơn đang chuyển động. Anh nâng cây súng trường, nhắm theo chiếc bóng đang trôi dạt trong một phút, quyết định không bắn để nhìn xem còn có chuyển động nào khác gần đấy hay không. Quân địch vẫn còn đóng trại về phía bắc, ở Rimini, ngoài rìa thành phố. Anh đang nhắm vào chiếc bóng khi vầng hào quang đột nhiên sáng lên chung quanh đầu của Đức Mẹ Đồng Trinh Mary. Bà đang đến từ biển cả.

Bà đang đứng trong lòng một chiếc thuyền. Hai người đàn ông chèo. Hai người khác giữ cho bà đứng thẳng, và khi họ tấp vào bãi biển, dân thị trấn bắt đầu hoan hô từ trong những khung cửa sổ tối mở rộng.

Anh công binh có thể thấy khuôn mặt màu kem và vầng hào quang làm bằng bóng đèn chạy pin nhỏ. Anh đang nằm trên một ụ súng bê tông giữa thị trấn và biển, ngắm nhìn bà trong khi bốn người đàn ông leo ra ngoài thuyền rồi nâng pho tượng thạch cao dài gần hai mét vào trong hai cánh tay họ. Họ đi lên bãi biển, không dừng lại, không ngập ngừng vì mìn. Có lẽ họ đã nhìn quân Đức chôn mìn, và vẽ biểu đồ các địa điểm có mìn. Chân họ lún trong cát. Đây là bãi biển Gabicce Mare vào ngày 29 tháng Năm, năm 1944. Thủy Hội Mừng Đức Mẹ Đồng Trinh Mary.

Người lớn và trẻ con tràn ra đường. Đàn ông mặc đồng phục ban nhạc cũng xuất hiện. Ban nhạc không chơi được vì luật giới nghiêm, nhưng những nhạc cụ vẫn là một phần của buổi lễ, được lau chùi sáng loáng.

Anh hiện ra từ trong bóng tối, khẩu súng cối cột trên lưng, cây súng trường trong tay. Đối với họ anh trông lạ lùng với vũ khí và cái khăn xếp. Họ cũng không ngờ anh hiện ra từ phần bãi biển trong vành đai trắng[37].

Anh nâng súng và nhìn thấy khuôn mặt bà trong ống nhắm, không dời đổi, không tính dục, trong cận cảnh là những bàn tay sạm đen của những người đàn ông vươn đến vầng sáng của bà, hai mươi bóng đèn nhỏ gật gù duyên dáng.

Pho tượng khoác áo màu xanh da trời, gối bên trái của bà hơi nâng lên, gợi hình những nếp áo gợn.

Họ không phải là những người lãng mạn. Họ đã sống sót quân phát xít, quân Anh, quân Gaul, quân Goth và quân Đức. Họ đã bị chiếm hữu quá thường xuyên đến nỗi sự chiếm hữu không còn ý nghĩa gì. Nhưng bức tượng thạch cao màu kem và xanh dương này đã đến từ biển khơi, được đặt trên một xe tải chở nho chất đầy hoa, trong khi ban nhạc lặng lẽ diễn hành phía trước bà. Bất cứ sự bảo vệ nào anh định mang đến cho thị trấn này là vô nghĩa. Anh không thể bước đi với những khẩu súng này giữa đám trẻ nhỏ mặc y phục trắng của họ.

Anh dời sang một con đường về phía nam của họ và bước cùng nhịp với chuyển động của pho tượng, như thế họ và anh đến những đường cắt ngang cùng một lúc. Anh nâng súng để nhìn mặt bà một lần nữa trong ống nhắm. Tất cả chấm dứt trên một mũi đất nhìn ra biển, nơi họ để bà lại và trở về nhà. Họ không hề biết anh vẫn có mặt gần đấy.

Khuôn mặt bà vẫn thắp sáng. Bốn người đàn ông đã đưa bà đến bằng thuyền ngồi bốn góc chung quanh bà như những người lính canh. Bộ pin gắn sau lưng bà bắt đầu yếu dần; nó chết hẳn lúc bốn rưỡi sáng. Lúc ấy anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Anh nhìn những người đàn ông qua ống nhắm của cây súng trường. Hai người đã ngủ. Anh đưa ống nhắm lên mặt bà rồi lại chăm chú ngắm bà. Bà mang một dáng vẻ khác trong ánh sáng đang phai chung quanh. Một khuôn mặt khi chìm trong bóng tối nhìn giống một người anh quen biết hơn. Một người chị hoặc em. Một ngày nào đó là một đứa con gái. Anh công binh muốn làm một cử chỉ tượng trưng nào đấy, như để lại một thứ gì anh không phải mang theo. Nhưng dù sao đi nữa, anh có niềm tin riêng của mình.

Caravaggio bước vào thư viện. Lúc này hầu như buổi chiều nào anh cũng có ở đây. Sách vẫn thường là những sinh vật bí ẩn đối với anh. Anh rút một cuốn ra và mở đến trang tựa. Anh ở trong phòng khoảng năm phút thì nghe thấy một tiếng rên nhỏ.

Anh quay lại và thấy Hana đang ngủ trên ghế sofa. Anh gấp cuốn sách lại, tựa vào cạnh gờ cao ngang đùi dưới những kệ sách. Nàng nằm cuộn tròn, má bên trái áp vào lớp gấm thêu bụi bặm, cánh tay phải đưa lên mặt, một nắm tay dưới cằm. Đôi mày nàng chuyển động, khuôn mặt tập trung trong giấc ngủ.

Lúc anh mới gặp lại nàng sau từng ấy thời gian, nàng trông căng thẳng, thân hình co rút lại chỉ còn vừa đủ để vượt qua giai đoạn này một cách hữu hiệu. Cơ thể nàng đã trải qua một cuộc chiến và, cũng như trong tình yêu, nó đã dùng tất cả mọi bộ phận của mình.

Anh hắt hơi thành tiếng, đầu cúi xuống, và khi anh ngước nhìn lên nàng đã thức, mắt nàng mở, nhìn đăm đăm vào anh ở trước mặt.

“Cháu đoán xem mấy giờ rồi.”

“Khoảng bốn giờ năm phút. Không phải, bốn giờ bảy phút”, nàng nói.

Đấy là một trò chơi xưa cũ giữa một người đàn ông và một đứa bé. Anh ra khỏi phòng để nhìn đồng hồ, và nhìn cử động cùng vẻ vững chãi của anh nàng có thể biết anh mới tiêm morphine, tươi tỉnh và rành mạch, với sự tự tin quen thuộc của anh. Nàng ngồi dậy và mỉm cười khi anh trở lại, lắc đầu ngạc nhiên vì độ chính xác của nàng.

“Cháu sinh ra với đồng hồ mặt trời trong đầu cháu, phải không chú?”

“Còn ban đêm thì sao?”

“Có đồng hồ mặt trăng không nhỉ? Đã có ai sáng chế ra chưa? Có lẽ mỗi kiến trúc sư khi xây một tòa villa đều giấu một cái đồng hồ mặt trăng cho mấy tên trộm, như là món tiền thuế cần thiết.”

“Một mối lo hay hay cho bọn nhà giàu.”

“Chú hãy gặp cháu ở đồng hồ mặt trăng, chú David. Nơi người yếu đuối có thể vào trong người mạnh mẽ.”

“Như bệnh nhân người Anh và cháu?”

“Một năm trước suýt nữa cháu có con.”

Giờ đây khi trí óc anh nhẹ nhàng và chuẩn xác vì thuốc, nàng có thể nói chuyện này xọ qua chuyện kia và anh có thể theo kịp, nghĩ cùng với nàng. Nàng đang cởi mở, không hẳn nhận ra nàng đã thức và đang nói chuyện, như vẫn đang nói trong mơ, như thể cái hắt hơi của anh là cái hắt hơi trong mơ.

Trạng thái này quen thuộc với Caravaggio. Anh thường gặp người ta ở đồng hồ mặt trăng. Kinh động họ vào lúc hai giờ sáng khi anh vô ý làm cả cái tủ trong phòng ngủ đổ rầm xuống. Anh khám phá ra rằng những cú sốc như vậy ngăn họ không thấy sợ hoặc trở nên hung bạo. Bị chủ căn nhà anh đang ăn trộm bắt gặp, anh sẽ vỗ tay và hối hả nói chuyện, tung hứng một cái đồng hồ đắt tiền, liến láu hỏi họ chỗ họ để mọi thứ.

“Cháu đã mất đứa bé. Ý cháu là, cháu phải bỏ nó đi. Cha của nó đã chết. Lúc ấy đang có một cuộc chiến.”

“Lúc ấy cháu ở Ý?”

“Khoảng thời gian chuyện này xảy ra, cháu ở Sicily. Suốt thời gian bọn cháu theo quân lính đi lên vùng Adriatic, cháu nghĩ đến nó. Cháu vẫn tiếp tục nói chuyện với đứa bé. Cháu làm việc quần quật trong bệnh viện và né tránh mọi người chung quanh. Ngoại trừ đứa bé. Cháu kể cho nó nghe mọi chuyện. Trong đầu cháu. Cháu nói chuyện với nó trong khi cháu lau mình và chăm sóc bệnh nhân. Lúc ấy cháu hơi điên.”

“Rồi cha cháu chết.”

“Vâng. Rồi Patrick chết. Khi cháu nghe tin, cháu đang ở Pisa.”

Nàng đã thức, và ngồi dậy. “Chú biết, phải không hở?”

“Chú nhận được một lá thư nhà.”

“Có phải vì thế mà chú đến đây không, vì chú biết?” “Không phải.”

“Thế thì tốt. Cháu không nghĩ là ba tin vào lễ viếng tang hoặc những thứ đại loại như thế. Patrick thường nói ba muốn nghe hai người đàn bà hòa tấu nhạc cụ khi ba chết. Phong cầm và vĩ cầm. Thế thôi. Ba thật quá đa cảm.”

“Đúng. Người ta có thể khiến anh ấy làm bất cứ chuyện gì. Tìm cho anh ấy một người đàn bà lâm nạn là anh ấy mê tơi.”

Cơn gió từ thung lũng dâng lên ngọn đồi của họ, và hàng cây bách viền ba mươi sáu bậc thang bên ngoài giáo đường nhỏ vật lộn với gió. Những giọt nước của cơn mưa trước đấy bị xô đẩy, rơi xuống kêu tí tách trên hai người. Họ đang ngồi trên lan can cạnh những bậc thang. Đã quá nửa đêm lâu lắm. Nàng đang nằm trên gờ bê tông, anh đi qua đi lại hoặc nhoài người ra ngoài nhìn xuống thung lũng. Chỉ có tiếng những giọt mưa bị dời chỗ.

“Cháu thôi nói chuyện với đứa bé khi nào?”

“Bỗng dưng cháu bận rộn quá. Quân lính đang vào trận ở cầu Moro và rồi vào Urbino. Có lẽ cháu ngưng nói chuyện với nó ở Urbino. Ở đấy cháu có cảm tưởng cháu có thể bị bắn bất cứ lúc nào, bất kể cháu là lính, linh mục hay y tá. Những con đường hẹp và dốc ấy là khu dân cư đông đúc. Những người lính đến đấy chỉ còn vài mẩu thân thể, yêu thích cháu trong một giờ rồi hấp hối. Điều quan trọng là ghi nhớ tên của họ. Nhưng cháu cứ nhìn thấy đứa bé mỗi khi họ chết. Bị cuốn trôi đi. Có người ngồi dậy xé lớp vải băng để cố thở được dễ dàng hơn. Có người lo lắng về những vết trầy li ti trên cánh tay khi họ chết. Rồi cái bóng bọt trong miệng. Tiếng bụp nho nhỏ ấy. Cháu cúi xuống khép mắt cho một người lính đã chết, anh ta mở mắt, khinh miệt nói: “Cô mong tôi chết lắm phải không? Con quỷ cái!”. Anh ta ngồi dậy, gạt tất cả mọi thứ trên khay của cháu xuống sàn nhà. Giận điên lên. Ai muốn chết như thế cơ chứ? Chết với sự giận dữ như vậy. Con quỷ cái! Sau đó cháu luôn đợi cái bóng bọt trong miệng họ. Bây giờ cháu đã biết về cái chết, chú David. Cháu biết tất cả mùi của nó. Cháu biết cách làm họ quên đi đau đớn. Khi nào thì tiêm nhanh liều morphine vào mạch máu chính. Nước biển. Để họ đi đại tiện trước khi chết. Đáng lẽ mỗi ông tướng khốn kiếp phải làm công việc của cháu. Mỗi một ông tướng khốn kiếp. Đáng lẽ đấy phải là điều kiện tiên quyết cho mỗi chuyến vượt sông. Bọn cháu là cái quái gì mà được giao cho trách nhiệm này, phải khôn ngoan như những linh mục già, biết cách dẫn dắt người ta đến một điều không ai muốn và bằng cách nào đấy làm cho họ cảm thấy dễ chịu. Cháu không thể tin nổi những lễ rửa tội họ làm cho những người chết. Lời hùng biện thô tục của họ. Thật quá quắt! Sao họ dám nói như thế về một người đang hấp hối.”

Không có ánh sáng, tất cả đèn đã tắt, bầu trời gần như phủ kín mây. Những căn nhà còn lại sẽ được an toàn hơn nếu chúng không gây chú ý vì vẻ văn minh của mình. Họ đã quen bước quanh nhà trong bóng tối.

“Cháu có biết tại sao quân đội không muốn cháu ở lại đây với bệnh nhân người Anh không? Cháu có biết không?”

“Một cuộc hôn nhân đáng xấu hổ? Cháu có bệnh tâm lý về cha mình[38]?”

Nàng mỉm cười với anh.

“Ông ấy như thế nào rồi?”

“Vẫn chưa yên lòng về con chó.”

“Bảo ông ấy rằng con chó là của chú.”

“Ông ấy cũng không chắc chú đang ở đây. Ông ấy nghĩ không chừng chú sẽ chuồn mất với bộ bát đĩa sứ.”

“Cháu nghĩ ông ấy có muốn uống rượu vang không? Hôm nay chú cuỗm được một chai.”

“Ở đâu?”

“Cháu có muốn uống hay không?”

“Bây giờ mình uống đi. Kệ ông ấy.” “À, cháu đã nghĩ thấu suốt!”

“Không phải thế. Cháu rất cần một chầu rượu.”

“Hai mươi tuổi. Lúc chú hai mươi tuổi…”

“Vâng, vâng, hôm nào chú cuỗm luôn một cái máy gramophone[39] đi. Cháu nghĩ người ta gọi chuyện này là hôi của đấy.”

“Tổ quốc của chú đã dạy chú tất cả những chuyện này. Đây là chuyện chú đã làm cho họ trong cuộc chiến.”

Anh đi xuyên qua giáo đường nhỏ bị pháo kích để vào nhà.

Hana ngồi dậy, hơi choáng váng, mất thăng bằng. “Nhìn xem họ đã làm gì với chú”, nàng nói một mình.

Trong cuộc chiến, nàng hầu như không nói ngay cả với những người nàng làm việc chung trong vòng thân cận. Nàng cần một ông chú, một thành viên gia đình. Nàng cần cha của đứa bé, trong lúc nàng chờ đợi được say lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, nơi thị trấn trên đồi này, trong lúc một người đàn ông bị bỏng trên lầu đã rơi vào giấc ngủ dài bốn giờ của mình, trong lúc một người bạn cũ của cha nàng lục lạo tủ thuốc của nàng, bẻ cổ thủy tinh của ống thuốc, thắt dây giày quanh cánh tay mình và nhanh chóng tiêm morphine vào người, tất cả chỉ trong khoảng thời gian đủ cho anh quay người lại.

Ban đêm, trong những ngọn núi chung quanh họ, ngay cả lúc mười giờ đêm, chỉ có mặt đất là tăm tối. Bầu trời xám, trong trẻo, những ngọn đồi màu xanh lá.

“Cháu chán ngấy sự khao khát. Chán được thèm muốn. Vì thế cháu bỏ đi, không hẹn hò, không lên xe jeep đi chơi, không tán tỉnh. Những buổi khiêu vũ cuối cùng trước khi họ chết - họ nghĩ cháu hợm hĩnh. Cháu làm việc chăm chỉ hơn người khác. Hai ca liên tiếp, trong lằn đạn, làm bất cứ chuyện gì cho họ, đổ từng cái bô. Cháu trở thành kẻ hợm hĩnh vì cháu không muốn đi chơi và tiêu tiền của họ. Cháu muốn về nhà nhưng không có ai ở nhà. Cháu chán ghét châu Âu. Chán được quý như vàng vì cháu là đàn bà. Cháu yêu một người đàn ông, anh ấy chết và đứa bé chết. Ý cháu là, đứa bé không tự dưng mà chết, cháu là người hủy diệt nó. Sau đấy cháu lùi lại xa đến nỗi không ai lại gần cháu được, dù bằng cách nói cháu hợm hĩnh, hoặc bằng cái chết của bất cứ ai. Rồi cháu gặp ông ấy, người đàn ông bị cháy đen. Nhìn gần, hóa ra ông ấy là một người Anh.

Đã lâu lắm rồi, chú David, cháu không muốn dính dáng đến một người đàn ông.”

Sau khi anh công binh người Sikh có mặt quanh tòa villa một tuần, họ đã thích nghi với thói quen ăn uống của anh. Dù anh đang ở đâu - trên đồi hay trong làng - anh cũng sẽ trở về vào khoảng mười hai rưỡi để ăn chung với Hana và Caravaggio, lôi trong túi đeo vai ra một cái gói buộc bằng chiếc khăn tay màu xanh rồi trải ra bàn cạnh thức ăn của họ. Những củ hành tây và rau thơm - Caravaggio ngờ rằng anh đã lấy chúng từ vườn của dòng tu Francisco trong lúc anh dò mìn ở đấy. Anh lột vỏ hành cũng bằng con dao anh dùng để lột lớp cao su bên ngoài sợi dây ngòi nổ. Theo sau hành tây là trái cây. Caravaggio đoán rằng trong suốt cuộc tấn chiếm anh chưa bao giờ ăn thức ăn của lính.

Thật ra thì mỗi sáng tinh mơ anh luôn ngoan ngoãn xếp hàng, giơ tách nhận nước trà kiểu Anh anh thích, bỏ thêm sữa đặc của riêng mình. Anh sẽ uống chậm rãi, đứng trong ánh nắng nhìn chuyển động chậm chạp của quân lính. Nếu hôm ấy họ không chuyển quân, chín giờ sáng là họ đã chơi bài canasta.

Bây giờ, lúc bình minh, dưới đám cây cối sứt sẹo trong những khu vườn hư hại vì đạn pháo của villa San Girolamo, anh hớp một ngụm đầy nước trong bi đông của mình. Anh đổ bột kem đánh răng lên bàn chải và bắt đầu mười phút đánh răng nhàn nhã khi anh lang thang nhìn xuống thung lũng vẫn còn chìm trong sương mù, trí óc anh tò mò nhiều hơn là ngưỡng mộ phong cảnh anh tình cờ đang sống ở phía trên. Từ lúc anh còn nhỏ, với anh đánh răng vẫn là một hoạt động ngoài trời.

Khung cảnh chung quanh anh chỉ là tạm thời, không có gì vĩnh viễn. Anh chỉ xác nhận khả năng có mưa, một mùi nào đó trong một bụi cây. Tựa hồ như trí óc anh, ngay cả lúc không dùng đến, là một cái radar, mắt anh xác định cách sắp xếp của những vật bất động trong vòng bán kính một phần tư dặm chung quanh anh, cũng là tầm tiêu diệt của những vũ khí nhẹ. Anh nhìn kỹ hai củ hành anh thận trọng đào trong đất lên, biết rằng khu vườn cũng bị quân đội đang rút lui cài mìn.

Trong bữa ăn trưa, Caravaggio liếc nhìn với vẻ bề trên đến những vật trong chiếc khăn tay màu xanh. Không chừng có một loại thú hiếm, Caravaggio nghĩ, cũng ăn loại thực phẩm anh lính trẻ này vẫn ăn với bàn tay phải của anh, những ngón tay anh đưa thức ăn lên miệng mình. Anh chỉ dùng dao để lột vỏ hành, cắt trái cây.

Hai người đàn ông mang xe kéo xuống thung lũng để lấy một bao bột mì. Anh lính cũng phải giao bản đồ những khu vực đã sạch mìn cho tổng hành dinh ở San Domenico. Cảm thấy khó hỏi chuyện lẫn nhau, họ nói về Hana. Anh lính đã hỏi nhiều câu trước khi người đàn ông lớn tuổi hơn nhận rằng ông đã biết nàng trước chiến tranh.

“Ở Canada?”

“Ừ. Tôi biết cô ấy ở đó.”

Họ đi qua nhiều đống lửa bên vệ đường và Caravaggio chuyển sự chú ý của anh lính trẻ đến chúng. Biệt danh của anh công binh là Kip. “Gọi Kip đến đây.” “Kip đến rồi đây.” Cái tên được gán cho anh trong một trường hợp kỳ lạ. Bản báo cáo gỡ mìn đầu tiên của anh ở Anh quốc có dính chút bơ, và người sĩ quan thốt lên, “Cái gì thế này? Mỡ kipper phải không?”, và tiếng cười vây lấy anh. Anh không hề biết kipper là cái gì, nhưng chàng thanh niên người Sikh đã bị biến thành một con cá mặn kiểu Anh như thế[40]. Trong vòng một tuần, tên thật của anh là Kirpal Singh đã bị quên mất. Anh không nề hà chuyện này. Huân tước Suffolk và đội phá mìn của anh dần dà quen gọi anh bằng cái tên ấy, và anh thích như thế hơn là phong tục dùng tên họ của người Anh.

Mùa hè ấy bệnh nhân người Anh đeo máy trợ thính, thế nên ông nghe thấy mọi thứ trong nhà. Cái máy hình vỏ sò màu hổ phách đeo trong tai ông với sự diễn dịch của nó về những tiếng động thông thường - cái ghế trong hành lang bị kéo lê trên sàn, móng chân con chó gõ lách cách ngoài căn phòng của ông, vì thế ông có thể vặn âm thanh lớn lên và thậm chí nghe tiếng thở khỉ gió của nó, hoặc tiếng hét ngoài ban công của anh công binh. Bệnh nhân người Anh biết đến sự có mặt của anh lính trẻ trong căn nhà vài ngày sau khi anh đến như thế, mặc dù Hana tách họ riêng ra, biết rằng có lẽ họ sẽ không ưa nhau.

Nhưng một hôm Hana vào phòng ông người Anh và gặp anh công binh ở đấy. Anh đang đứng ở chân giường, hai tay anh buông thõng qua cây súng trường nằm ngang trên vai. Nàng không thích cách anh cầm súng bất cẩn như thế, cách anh chậm rãi quay mình về phía nàng khi nàng bước vào, như thể thân hình anh là một trục bánh xe, như thể cây súng đã được may xuôi theo vai và cánh tay và hai cổ tay nhỏ nhắn màu nâu của anh.

Ông người Anh quay về phía nàng và nói, “Chúng tôi hợp nhau lắm!”.

Nàng bực mình vì anh công binh đã ung dung đi vào lãnh thổ này, dường như có thể bao vây nàng, chỗ nào cũng có mặt. Kip, nghe Caravaggio nói rằng người bệnh biết về súng, đã bắt đầu bàn thảo cách tìm bom với ông người Anh. Anh đã lên phòng và khám phá ra rằng ông là một kho chứa tin tức về vũ khí của quân Đồng Minh cũng như quân địch. Ông người Anh không những biết về những ngòi nổ Ý quái gở mà còn biết địa hình chi tiết của vùng Tuscany. Không bao lâu sau họ đã vẽ hình dáng bom cho nhau xem và nói về lý thuyết của mỗi mạch điện.

“Hình như ngòi nổ Ý được đặt vào theo chiều thẳng đứng. Và không phải lúc nào cũng ở phần đuôi.”

“Cũng tùy. Ngòi nổ chế tạo ở Naples là như thế, nhưng những xưởng chế tạo ở Rome lại theo hệ thống Đức. Dĩ nhiên, Naples, từ thế kỷ XV…”

Như thế có nghĩa là phải nghe người bệnh nói kiểu vòng vo của ông, và anh lính trẻ không quen đứng yên và im lặng. Anh mất kiên nhẫn, chen vào những lúc ông người Anh tạm ngưng hoặc những lúc ông im lặng, những khoảng trống ông vẫn tự cho phép mình trong lúc ông cố gắng truyền sinh lực cho một dòng suy nghĩ. Người lính ngửa đầu ra sau, nhìn lên trần nhà.

“Chúng ta nên làm một cái cáng”, anh công binh quay lại nói với Hana khi nàng vào phòng, vẻ suy tính, “và khiêng ông ấy đi quanh nhà”. Nàng nhìn hai người, nhún vai rồi đi ra.

Khi Caravaggio đi ngang qua nàng trong hành lang, nàng đang mỉm cười. Họ đứng trong hành lang và lắng nghe cuộc đối thoại trong phòng.

Tôi đã nói cho anh nghe khái niệm của tôi về nhân vật Virgil[41] chưa, Kip? Để tôi…

Ông vặn máy trợ thính của ông lên chưa?

Cái gì? Vặn nó…

“Cháu nghĩ ông ấy đã tìm ra một người bạn”, nàng bảo Caravaggio.

Nàng bước ra sân, vào ánh nắng. Giữa trưa, những vòi nước mang nước vào bồn nước phun của tòa villa sẽ chảy trong hai mươi phút. Nàng cởi giày, leo vào bồn nước khô cạn và đợi.

Giờ này khắp nơi là mùi cỏ khô. Những con nhặng xanh lộn nhào trong không gian, đâm sầm vào người ta như thể va vào bức tường, rồi thản nhiên rút lui. Nàng để ý chỗ mấy con nhện nước làm tổ bên dưới đài nước trên cùng của bồn nước phun, khuôn mặt nàng trong bóng râm dưới gờ đài. Nàng thích ngồi trong cái nôi đá này, ngửi mùi không khí mát và tối ẩn bên trong vòi nước vẫn còn khô cạn gần đấy, như không khí thoát ra từ hầm nhà được mở ra lần đầu tiên lúc cuối xuân, tương phản với sức nóng bên ngoài. Nàng phủi bụi trên hai cánh tay, những ngón chân, nếp gấp của giày, rồi vươn vai.

Căn nhà nhiều đàn ông quá. Miệng nàng áp vào cánh tay trần ở bả vai của mình. Nàng ngửi mùi da mình, sự quen thuộc của nó. Hương vị của chính mình. Nàng nhớ khi nàng bắt đầu nhận ra hương vị ấy, trong những năm niên thiếu - những năm dường như là một nơi chốn hơn là khoảng thời gian - hôn cánh tay mình để tập hôn, ngửi cổ tay mình hoặc cúi xuống đùi. Thở vào hai bàn tay úp lại để hơi thở dội lại mũi mình. Bây giờ nàng xoa hai bàn chân trần trắng trẻo nổi bật trên màu nâu đốm của bồn nước phun. Anh công binh đã kể cho nàng nghe về những pho tượng anh gặp trong lúc chiến đấu, anh đã ngủ bên cạnh một pho tượng thiên thần sầu đau bán nam bán nữ như thế nào, rằng anh thấy pho tượng xinh đẹp. Anh đã nằm ngửa, ngắm thân tượng, và lần đầu tiên trong cuộc chiến cảm thấy bình yên.

Nàng ngửi mặt đá, mùi bướm đêm mát lạnh của nó.

Cha nàng đã vật vã lúc chết, hay ông chết yên ả? Ông có nằm như cách bệnh nhân người Anh uy nghi nghỉ ngơi trên cái giường nhỏ của mình? Ông có được một người lạ chăm sóc? Một người đàn ông không có liên hệ máu mủ với bạn có thể mở toang xúc cảm của bạn dễ hơn một người ruột thịt với bạn. Như thể khi ngã vào vòng tay kẻ lạ, bạn khám phá ra hình bóng sự lựa chọn của bạn. Không như anh công binh, cha nàng chưa bao giờ hoàn toàn tự nhiên trong thế gian. Những lời đối thoại của ông mất vài âm vì e thẹn. Mẹ nàng đã than phiền rằng bất cứ câu nói nào của Patrick cũng mất hai ba chữ cốt yếu. Nhưng Hana thích đặc điểm ấy của ông, dường như ở ông không có tinh thần phong kiến. Ông có vẻ bất quyết, sự mập mờ cho ông một nét quyến rũ ngần ngại. Ông không giống hầu hết những người đàn ông khác. Thậm chí bệnh nhân người Anh bị thương cũng có sự cương quyết quen thuộc của thời phong kiến. Nhưng cha nàng là một hồn ma khao khát, thích những người chung quanh mình tự tin, thậm chí ầm ĩ.

Ông có đi đến cái chết với cảm giác bình thản như khi gặp tai nạn? Hay là trong thịnh nộ? Ông là người ít giận dữ nhất mà nàng biết, không thích tranh cãi, chỉ ra khỏi phòng khi có ai nói xấu Roosevelt hoặc Tim Buck[42] hoặc ca ngợi những ông thị trưởng Toronto nào đấy. Suốt đời ông không hề tìm cách biến đổi một ai, chỉ chắp vá hoặc ăn mừng những sự kiện xảy ra quanh mình. Chỉ thế thôi. Một cuốn tiểu thuyết là một tấm gương đi trên đường[43]. Nàng đọc câu này trong một cuốn sách bệnh nhân người Anh khuyên nàng đọc, và đấy là cách nàng nhớ đến cha nàng - bất cứ khi nào nàng thu góp những khoảnh khắc về ông - dừng xe dưới một cây cầu ở Toronto về phía bắc đường Pottery lúc nửa đêm và bảo nàng đây là chỗ chim sáo đá và chim câu cùng chia sẻ những rui cầu trong đêm, không thoải mái và không hẳn vui lòng. Họ đã dừng ở đấy trong một đêm hè và thò đầu ra ngoài xe trong tiếng ồn ào và tiếng chíp chíp ngái ngủ.

Chú nghe nói Patrick chết trong một cái chuồng chim câu, Caravaggio nói.

Cha nàng yêu một thành phố ông tự vẽ vời, trong ấy những con đường, những bức tường và những lề đường là do ông và bạn ông sơn vẽ. Ông chưa bao giờ thực sự rời khỏi thế giới ấy. Nàng nhận ra tất cả mọi điều nàng biết về thế giới thực nàng đã tự học hoặc học từ Caravaggio hoặc từ mẹ kế Clara của nàng trong thời gian họ sống chung với nhau. Clara đã từng là diễn viên, ăn nói chuẩn xác, đã diễn đạt chính xác cơn thịnh nộ khi hai cha con nàng gia nhập cuộc chiến. Suốt năm vừa qua ở Ý nàng mang theo những lá thư của Clara. Những lá thư nàng biết đã được viết trên một hòn đá màu hồng ở một hòn đảo trong vịnh Georgian, trong cơn gió đến từ ngoài khơi làm uốn cong trang giấy trong cuốn sổ tay của bà, trước khi bà xé tờ giấy ra và để nó vào trong một chiếc phong bì gửi cho Hana. Nàng cất chúng trong va li của mình, mỗi lá thư đựng một mẩu đá hồng nho nhỏ và cơn gió ấy. Nhưng nàng chưa hề trả lời. Nàng nhớ Clara đến khổ sở nhưng không thể viết cho bà trong lúc này, sau tất cả mọi chuyện đã xảy ra với nàng. Nàng không thể chịu đựng nổi việc nhắc đến hoặc ngay cả xác nhận cái chết của Patrick.

Bây giờ, trên lục địa này, cuộc chiến đã đi đến nơi khác, những tu viện nữ và giáo đường trước đây được biến thành bệnh viện trong phút chốc nay trở thành hiu quạnh, cô lập trong những ngọn đồi của vùng Tuscany và Umbria. Chúng chứa đựng tàn tích của những xã hội chiến tranh, những mảnh vụn đá sỏi còn lại của một băng sơn mênh mông. Chung quanh chúng bây giờ là khu rừng thánh.

Nàng xếp hai chân dưới chiếc áo đầm mỏng và để hai tay lên đùi. Tất cả tĩnh lặng. Nàng nghe tiếng xao động trống rỗng quen thuộc, bồn chồn bên trong ống nước giấu trong cái cột chính giữa của bồn nước phun. Rồi im lặng. Rồi bất thình lình nước chảy ào ra chung quanh nàng.

Những câu chuyện Hana đọc cho bệnh nhân người Anh nghe, du hành cùng ông già lang thang trong truyện Kim[44] hoặc với Fabrizio trong Tu viện thành Parma[45], đã làm họ say mê trong cơn lốc của quân đội và ngựa xe - những người đang chạy trốn hoặc đang chạy đến chiến tranh. Chất trong một góc phòng của ông là những cuốn sách khác nàng đã đọc cho ông nghe, khung cảnh trong những cuốn sách ấy họ đã đi qua.

Nhiều cuốn sách bắt đầu bằng sự đảm bảo trình tự của tác giả. Người ta chèo vào vùng nước trong những cuốn sách ấy trong êm lặng.

Tôi bắt đầu tác phẩm của mình khi Servius Galba là Quan Nhiếp Chính Tối Cao… Lịch sử của Tiberius, Caligula, Claudius và Nero, trong lúc họ có thế lực, đã bị ngụy tạo vì sợ hãi, và sau khi họ chết đi được viết ra trong một nỗi căm ghét mới.

Tacitus bắt đầu cuốn Niên sử[46] của ông như thế.

Nhưng sách truyện mở đầu bằng một sự ngập ngừng hoặc hỗn loạn. Người đọc không bao giờ hoàn toàn thăng bằng. Một cánh cửa một ổ khóa một đập nước mở ra và họ xông vào, một tay nắm mép thuyền, tay kia cầm cái mũ.

Khi nàng bắt đầu một cuốn sách, nàng đi qua những khung cửa vòm vào những khoảng sân rộng. Parma và Paris và Ấn Độ trải những tấm thảm mời mọc.

Để chống lại những sắc lệnh thành phố, ông cưỡi lên khẩu súng thần công Zam-Zammah, nằm trên bệ gạch đối diện căn nhà cổ Ajaib-Gher - Căn Nhà Kỳ Diệu, như những người địa phương gọi Bảo tàng viện Lahore. Ai nắm giữ Zam-Zammah, “con rồng phun lửa” ấy, sẽ nắm giữ vùng Punjab, vì khẩu đại bác bằng đồng xanh to lớn ấy luôn luôn là chiến lợi phẩm đầu tiên của kẻ chiến thắng.

“Đọc chầm chậm thôi, cô bé ạ, cô phải đọc Kipling thật chậm rãi. Cẩn thận xem chừng dấu phẩy ở đâu để cô có thể tìm ra những chỗ nghỉ tự nhiên của câu. Ông ấy viết bằng bút và mực. Tôi tin là ông rời mắt khỏi trang giấy và ngước lên nhiều lần, nhìn đăm đăm qua cửa sổ và lắng nghe tiếng chim, như đa số những người viết cô độc thường làm. Có người viết không biết tên của những con chim, nhưng ông ấy biết. Mắt cô nhanh quá, Bắc Mỹ quá. Cô hãy nghĩ đến nhịp độ cây bút của ông ấy. Nếu không thì đấy là một đoạn văn đầu tiên đầu gà đít vịt đáng sợ lắm.”

Đấy là bài học đầu tiên của bệnh nhân người Anh về cách đọc sách. Ông không ngắt lời nàng nữa. Nếu ông ngủ nàng sẽ tiếp tục đọc, không hề ngước nhìn lên cho đến khi chính nàng thấy mệt. Nếu ông bỏ sót nửa giờ cuối của câu chuyện, đấy chỉ là một căn phòng tối trong câu chuyện hẳn ông đã biết. Ông quen thuộc với bản đồ của câu chuyện. Benares ở phía đông, Chilianwallah ở phía bắc của Punjab. (Tất cả chuyện này xảy ra trước khi anh công binh vào cuộc đời họ, như trong truyện tiểu thuyết. Như thể ai đấy đã xoa những trang truyện của Kipling trong đêm như xoa một cây đèn thần. Một liều thuốc kỳ diệu.)

Từ kết cục của truyện Kim, với những câu văn tao nhã và thánh thiện - bây giờ đã được đọc đúng cách - nàng quay sang cuốn sổ ghi chép của ông bệnh nhân, cuốn sổ ông đã xoay xở bằng cách nào đấy để mang nó ra khỏi đám lửa cùng với ông. Cuốn sổ mở rộng, gần như gấp đôi bề dày nguyên thủy của nó.

Một mảnh giấy mỏng được xé ra từ trong Thánh Kinh và dán vào cuốn sổ.

Vua David già yếu bệnh hoạn nhiều năm và họ mặc y phục cho ngài nhưng ngài không ấm.

Lúc ấy tôi tớ của ngài nói, Hãy tìm cho vua một nàng trinh nữ trẻ: để nàng ấp ủ ngài, để nàng nằm trong lòng ngài, để vua chúng ta có thể được ấm.

Vì thế họ tìm một cô gái xinh đẹp khắp miền duyên hải Do Thái và tìm ra Abishag, người vùng Shunam. Thiếu nữ ấp ủ vua và chăm sóc ngài: nhưng vua không ngó ngàng đến nàng[47].

Bộ lạc… đã cứu người phi công bị bỏng mang ông đến căn cứ quân sự của người Anh ở Siwa vào năm 1944. Ông được chuyển bằng chuyến xe lửa cấp cứu lúc nửa đêm từ sa mạc Miền Tây đến Tunis, rồi bằng tàu thủy đến Ý. Lúc ấy trong cuộc chiến có hàng trăm binh lính mất trí nhớ, họ vô hại nhiều hơn là xảo trá. Những người nói họ không rõ mình là người nước nào được sắp xếp chỗ ở trong những khu nhà ở Tirrenia, chỗ có bệnh viện vùng biển. Người phi công bị bỏng là một bí ẩn khác, không giấy tờ, không nhận diện được. Trong trại giam gần bên, họ giam giữ nhà thơ người Mỹ Ezra Pound trong một cái cũi, nơi ông ta giấu trong thân mình và trong túi áo, đổi chỗ giấu hàng ngày vì khái niệm an ninh của riêng ông, một hạt khuynh diệp có cánh ông đã cúi xuống nhặt trong khu vườn của người phản bội ông khi ông bị bắt.

“Khuynh diệp là để cho ký ức[48]”

“Các anh nên tìm cách lừa tôi”, người phi công bị bỏng bảo những người thẩm vấn ông, “bắt tôi nói tiếng Đức, tôi biết tiếng Đức đấy, hỏi tôi về Don Bradman[49]. Hỏi tôi về Marmite[50], về Gertrude Jekyll[51] tuyệt vời”. Ông biết những địa điểm ở châu Âu có tranh của Giotto[52], và hầu hết những nơi người ta có thể tìm thấy bức trompe l’oeil giống như thật.

Bệnh viện vùng biển được lập nên từ những nhà tắm dọc theo bãi biển cho du khách thuê vào đầu thế kỷ. Lúc trời nóng, những cây dù Campari[53] cũ lại một lần nữa được cắm vào trong lỗ trên bàn dành cho chúng, và những người bị băng bó, những người bị thương, những người hôn mê sẽ ngồi dưới những cây dù trong không khí biển, chậm rãi nói chuyện hoặc nhìn trừng trừng hoặc nói huyên thuyên. Người đàn ông bị bỏng để ý đến cô y tá trẻ tách riêng một mình. Ông quen với những cái nhìn chết lặng như thế, biết rằng thật ra cô là bệnh nhân hơn là y tá. Ông chỉ nói với cô khi nào ông cần thứ gì.

Ông lại bị thẩm vấn. Mọi thứ ở ông rất giống người Anh ngoại trừ làn da đen như hắc ín, một xác người cổ đại khai quật trong đầm rêu giữa những người thẩm vấn.

Họ hỏi ông về tình trạng của quân Đồng Minh ở nước Ý, ông nói ông cho rằng họ đã chiếm được Florence nhưng bị kẹt trong những thị trấn vùng đồi phía bắc. Phòng tuyến Gothic. “Sư đoàn của các anh bị kẹt ở Florence và không thể vượt qua những căn cứ quân sự như Prato và Fiesole chẳng hạn vì quân Đức phòng thủ trong những tòa villa và tu viện, những nơi ấy được phòng thủ rất vững. Đây là một câu chuyện cũ - Thập Tự quân cũng phạm cùng một sai lầm trong cuộc chiến với người Saracen[54]. Giống như Thập Tự quân, bây giờ các ông cần những thị trấn đồn lũy. Những thị trấn ấy chưa bao giờ bị bỏ trống ngoại trừ những lúc có dịch tả.”

Ông nói huyên thuyên, làm họ phát điên, kẻ phản bội hay đồng minh cũng thế, khiến họ không bao giờ đoán chắc được ông là ai.

Giờ đây, nhiều tháng sau ở villa San Girolamo, trong thị trấn trên đồi phía bắc Florence, trong phòng cây lá là phòng ngủ của ông, ông nằm nghỉ ngơi như pho tượng của một hiệp sĩ đã chết ở Ravenna[55]. Ông nói rời rạc về những thị trấn ốc đảo, dòng họ Medici sau này, lối hành văn của Kipling, người đàn bà cắn vào da thịt ông. Trong cuốn sổ ghi chép của ông, bản in cuốn Lịch sử của Herodotus vào năm 1890, là những mảnh rời khác - bản đồ, những đoạn nhật ký, những đoạn viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, những đoạn văn cắt ra từ nhiều cuốn sách khác. Chỉ thiếu tên của chính ông. Vẫn không có manh mối nào về thân thế của ông, không tên, không chức vụ hoặc tiểu đoàn hoặc tiểu đội. Những điều nh