← Quay lại trang sách

Chương 15 NGƯỜI KIẾN TẠO HÒA BÌNH-Paris, 1778-1785-ĐẠI SỨ TOÀN QUYỀN

Vào mùa hè năm 1778, một điều trở nên rõ ràng với ba ủy viên Mỹ là họ nên có một người phụ trách. Franklin nói với Quốc hội Lục địa rằng ba người họ không chỉ khó đồng tình về các chính sách mà giờ thậm chí còn khó làm việc dưới cùng mái nhà. Đến cả các phụ tá của họ còn cãi lộn nhau. Hơn nữa, Pháp đã chỉ định một vị đại sứ toàn quyền qua Mỹ và nghị định thư đòi hỏi tân quốc gia phải chỉ định một người đồng cấp để đáp lại. Arthur Lee tự đề cử mình và ủ mưu với các anh em trai để giành vị trí đó. John Adams thì khéo léo hơn: ông nói với bạn bè rằng bất chấp các lề thói làm việc và sự mềm mỏng với Pháp, Franklin vẫn là lựa chọn tối ưu. Dù không công khai vận động để có công việc này, nhưng vào tháng 7 năm 1778, Franklin mạnh mẽ đề nghị Quốc hội “tách chúng tôi ra”.

Chính phía Pháp đã vận động hành lang hộ Franklin. Họ tỏ rõ ông là người họ lựa chọn và Quốc hội đã thuận theo. Vào tháng Chín, với số phiếu là 12-1, ông được bầu làm đại sứ toàn quyền duy nhất. Bang không đồng ý là Pennsylvania, nơi các đối thủ của ông đặt câu hỏi về lòng trung thành của ông và cả Temple, con trai của một thống đốc trung thành với triều đình đang bị tống giam.1

Phải tới tháng 2 năm 1779, tin tức về việc bổ nhiệm của ông mới đến Paris, bởi chiến sự và mùa đông cản trở việc đi lại của tàu bè Mỹ.

Khi được tin, Arthur Lee phiền muộn và từ chối trao các tài liệu của anh ta cho Franklin. Về phần Adams, nhà viết tiểu sử của ông, David McCullough viết: “Sự sắp xếp mới đích xác là điều mà Adams đã đề xuất và tin tức ấy làm ông khổ sở hơn bao giờ hết.” Ông sớm rời bỏ Paris, ít nhất là tạm thời, để lên đường trở về Massachusetts.

Franklin đang phải chịu đựng chứng gout nên không thể lập tức trình thư giới thiệu mới của mình. Cuối tháng Ba, ông mới đến gặp nhà vua và các bộ trưởng của ngài. Lưu ý tới cảm giác đau đớn của Adams, Franklin cố gắng giữ mối quan hệ của họ thân mật. Ông viết một bức thư lịch sự và vui vẻ gửi Adams, trong đó mô tả các cuộc dạo chơi của mình tại Versailles và than rằng “nỗi khó nhọc này có phần quá sức với đôi chân của tôi và khiến tôi què quặt thêm gần một tuần nữa.” Trong thư hồi âm, Adams giữ bộ mặt hòa nhã, thậm chí còn tỏ ra ủng hộ lòng trung thành sâu sắc của Franklin đối với nước Pháp, cho dù ông hoài nghi sự khôn ngoan của việc trở nên quá gắn bó với họ. “Tôi rất vui khi ngài được triều đình tiếp đón ở cương vị mới và tin tưởng rằng ý kiến của ngài về thiện chí của triều đình này với nước Mỹ là công tâm”, ông nói.

Sự bình thản mong manh của Adams bị rung chuyển khi Franklin và phía Pháp quyết định trưng dụng con tàu lẽ ra sẽ đưa ông về nhà và sung nó vào hạm đội mà John Paul Jones lên kế hoạch dùng để chống lại quân Anh (sẽ được trình bày cụ thể dưới đây). Biết rõ Adams rất nóng lòng đợi ở cảng Nantes để khởi hành, Franklin rất hối lỗi. Ông thậm chí còn đề nghị Antoine de Sartine, Bộ trưởng Hải quân Pháp đầy quyền lực, viết thư giải thích về quyết định đó. Franklin hứa hẹn một con tàu khác sẽ có nhiệm vụ đưa Adams trở về sớm nhất có thể và Adams sẽ có dịp đi cùng vị tân đại sứ của Pháp được phái sang Mỹ.

Adams vờ như thông hiểu: “Không được phép ngăn trở dịch vụ công vì sự tiện lợi riêng của một cá nhân và vinh dự được đồng hành cùng ngài tân đại sứ sẽ bù đắp cho việc tôi không thể sớm trở về nhà.” Bày tỏ chút ít lịch sự giả tạo - thứ mà ông có tiếng là luôn thiếu - Adams thậm chí còn đi xa hơn khi để nghị Franklin “làm ơn giúp tôi gửi lời khen tới phu nhân Brillon và Helvétius, những quý bà có tính cách mà tôi hết sức ngưỡng mộ.”

Nhưng khi ngồi mặc tưởng lại tại cảng, Adams càng lúc càng trở nên cay đắng. Sau khi ăn tối với Jones, ông tuyên bố rằng vị thuyền trưởng là một kẻ “lập dị, bất thường” và trở nên giận dữ khi nghĩ Jones và Franklin đang tính toán để ông chậm chuyến về nhà. “Theo chỉ dụ, tôi sẽ phải chịu mọi trò hành xác”, ông viết trong nhật ký riêng. “Liệu tôi có thấy những kẻ đó khinh bỉ tôi hoặc có thấy họ kinh hãi tôi?” Như một sự tất yếu, ông bắt đầu gán những động cơ đen tối cho Franklin. Sôi sục tự ái, Adams bắt đầu ngờ rằng Franklin đang cản trở mình trở về vì sợ ông sẽ tiết lộ những sự thật nguy hiểm. “Liệu lão phù thủy già đó có sợ tiếng nói của tôi trong Quốc hội?” Adams viết trong nhật ký. “Ông ta có một số lý do, vì ông ta thường nghe thấy nó ở đó, tôi là nỗi kinh sợ với những kẻ làm việc xấu.”

Franklin vô tình quên mất những ngờ vực đen tối của Adams và vẫn cố thân mật trong các thư tín của ông. “Tôi sẽ trân trọng gửi lòng tôn kính của anh tới hai quý bà mà anh nhắc tới”, ông vui mừng hứa hẹn. Ông thậm chí còn đồng ý, sau ba lời đề nghị điếc tai từ Adams, rằng con tàu mới phải đi thẳng tới Boston - thay vì đi tới Philadelphia để tiện cho vị đại sứ Pháp. Nhưng việc đó vô ích. Những bóng ma bất tín đã nhiễm vào tâm trí Adams, và như định mệnh, chúng đã ám ảnh mối quan hệ của ông và Franklin khi ông trở lại vào năm sau.2

Trong khi Adams sục sôi, Arthur Lee cùng các huynh đệ của mình công khai tuyên bố cuộc chiến với Franklin ở Mỹ. Lee phát tán một lá thư buộc tội Franklin “thêu dệt các âm mưu nhỏ” và “gieo rắc sự chia rẽ nguy hại”, đồng thời anh ta đảm bảo để Quốc hội xem xét cơn mưa những lá thư buộc tội Franklin, đặt câu hỏi về danh dự của ông, điều mà Lee và Ralph Izard đã viết trước đây trong cùng năm đó.

Được con rể Richard Bache cảnh báo về các mưu toan đó, Franklin có thể dẹp được sự bất bình của anh em nhà Lee. Ông viết: “Uy danh quá lớn của ta khiến những quý ông bất hạnh đó đau đớn, bất hạnh trong tâm tính của họ và trong mụ mị; đó là những sự thống khổ không hề dễ chịu của đố kỵ, tức giận, hoài nghi, ghen tị và mạ lỵ.”

Tuy nhiên, ông còn thấy tổn thương hơn nhiều khi nghe Bache tường trình việc Lee và phe cánh của mình đang tấn công Temple, bởi ông yêu cháu trai mình với sự mù quáng khác với bản tính của ông. Bache viết: “Izard, nhà Lee và đồng bọn gây một số áp lực về việc cha thuê cháu trai làm thư ký riêng. Họ cho là điều đó không thể tin tưởng được vì những vấn đề căn bản về cha thằng bé.” Sau đó, anh nói thêm điểm xấu: “Họ có dự định đưa ra bản kiến nghị về việc loại bỏ nó.” Trong một thư riêng, Sally Bache tâm sự rằng chồng cô lo âu khi phải báo tin cho nhạc phụ về chiến dịch chống lại Temple bởi anh biết điều đó sẽ khiến ông buồn.

Hẳn là như vậy. “Có lẽ việc đó khá xứng đáng để cha cứu được một chàng trai trẻ có phẩm chất tốt thoát khỏi nguy cơ trở thành một đảng viên Bảo thủ,” ông viết cho Richard. Sau đó, khi nghĩ rằng Temple có thể bị triệu hồi, ông buông một tiếng kêu giận dữ:

Ta đã mất con trai mình, thế là quá đủ! Lẽ nào họ muốn thêm cháu trai ta nữa? Một ông già 70 tuổi như ta phải vượt biển giữa mùa đông theo chỉ thị của Quốc hội vì việc công và không có tùy tùng nào khác chăm lo cho ta. Ta vẫn ở đây, trên một đất nước xa lạ, nơi mà nếu lỡ ta nằm xuống, sự hiếu thảo ân cần của nó sẽ an ủi ta, và nếu ta chết đi, có một đứa trẻ vuốt mắt ta và lo cho di hài của ta.

Trong một lá thư gửi Sally cùng lúc đó, ông nhắc lại những cảm xúc ấy và nói thêm rằng nỗ lực giằng Temple ra khỏi ông là một điều tàn nhẫn nhưng vô ích. “Cha sẽ không rời bỏ thằng bé mà rời bỏ công việc này”, ông đe dọa. “Song cha tin tưởng rằng, dù những kẻ yếu đuối hay ác ý có thể đưa ra bất cứ thứ gì, Quốc hội cũng thừa khôn ngoan và tốt bụng để nghĩ tới việc đối xử với cha theo cách đó.” Thực tế, Quốc hội đã ủng hộ ông. Không có nỗ lực nghiêm túc nào để sa thải Temple: cậu vẫn là thư ký của phái đoàn Mỹ.3

Temple khi đó khoảng 19 tuổi, vẫn là một anh chàng tinh quái, tuy làm việc chăm chỉ nhưng ngoại trừ từ ông nội thì cậu giành được rất ít sự sủng ái sâu sắc. Khi có cuộc tranh cãi xoay quanh mình vào mùa hè năm 1779, Temple quyết định chứng tỏ dũng khí bằng việc tham gia một nhiệm vụ táo bạo cùng Lafayette: tung một đòn tấn công bất ngờ vào nước Anh.

Viên tướng người Pháp này hơn Temple gần 13 tuổi, anh vừa mới trở về sau khi phục vụ trong quân đội của George Washington. Vào lúc đó, cuộc Cánh mạng đã rơi vào một tình thế bế tắc cheo neo, các đoàn quân Anh dưới quyền Ngài Henry Clinton vẫn ẩn mình ở New York, nhưng tạm thời hầu như không làm được gì ngoài tiến hành những cuộc tấn công du kích. Vì thế, khi trở về Paris, Lafayette đã nung nấu kế hoạch táo bạo - tấn công nước Anh - và chia sẻ nó với Franklin và quân đội Pháp. “Ta rất ngưỡng mộ sự mau mắn trong tài năng của anh”, Franklin viết. “Chắc chắn bờ biển Anh và Scotland cực kỳ bỏ ngỏ và không phòng bị.” Ông thú nhận mình không hiểu rõ về chiến lược quân sự để “tự phụ khuyên anh làm việc đó”. Song, ông có thể đưa ra lời khích lệ. “Nhiều dẫn chứng lịch sử đã chứng minh rằng trong chiến tranh, các nỗ lực bị cho là bất khả thi, chính bởi lý do đó, thường trở nên khả thi và thực tế vì không ai kỳ vọng chúng xảy ra.”

Lafayette háo hức khi có Temple đứng về phía mình. “Chúng ta sẽ luôn ở cạnh nhau trong chiến dịch này, điều mà tôi đảm bảo rằng cậu sẽ đem lại cho tôi sự hài lòng rất lớn,” anh viết cho chàng trai trẻ. Về phần mình, vốn luôn là một gã công tử, Temple lo lắng về cấp bậc, danh hiệu, nhiệm vụ và đồng phục. Cậu muốn được trao nhiệm vụ của một sĩ quan chứ không chỉ là một người tình nguyện và cậu nhất định đòi quyền đeo lon sĩ quan, dù Lafayette khuyên rằng không nên. Khi những vấn đề này được giải quyết, việc xâm lấn Anh bị quân đội Pháp huỷ bỏ.

Franklin tỏ rõ sự thất vọng. “Ta tự huyễn hoặc mình rằng thằng bé có thể học được ở anh chút ít cách hành xử có duyên, khiến anh luôn đem lại niềm hân hoan lớn cho tất cả những ai biết anh”, ông viết cho Lafayette. Một lần nữa, cơ hội để Temple tự tạo dựng tên tuổi cho bản thân đã chìm nghỉm.4

JOHN PAUL JONES

Một phần kế hoạch xâm lấn nước Anh vẫn được tiến hành và nó thêm vào cuộc đời Franklin một nét tính cách nhiều màu sắc. Khi Lafayette đang lên kế hoạch lần đầu cho nhiệm vụ của mình, Franklin nói với anh rằng “nó sẽ phụ thuộc nhiều vào một vị chỉ huy hải quân gan dạ và thận trọng, biết rõ vùng bờ biển.” Thay vào đó, họ chọn một chỉ huy mà như Franklin đã biết, gan dạ nhiều hơn là thận trọng: John Paul Jones.*

Với tên khai sinh là John Paul, con trai của một người thiết kế cảnh trí người Scotland, anh đã lên tàu ra khơi từ tuổi 13, là thuyền phó thứ nhất trên một tàu chở nô lệ và sớm chỉ huy chiếc tàu buôn của riêng mình. Song, vị thuyền trưởng có cái đầu nóng này, người mà trong toàn bộ sự nghiệp rất hay khiêu khích sự thù địch, đã gặp rắc rối vì phạt roi một thành viên thủy thủ đoàn, người sau đó đã chết. Sau khi được xá tội, anh lại xuyên kiếm qua một thành viên thủy thủ đoàn khác khi hắn dọa nổi loạn. Vì thế, anh lánh tới Virginia, đổi họ của mình thành Jones và từ đầu cuộc Cách mạng đã giành được một chân trong hải quân hỗn tạp của nước Mỹ, gồm các tàu lùng và tàu thám hiểm cũ. Năm 1778, anh nổi tiếng nhờ tiến hành các cuộc tấn công táo bạo dọc bờ biển Anh và Scotland.

Trong một cuộc đột kích như thế, Jones quyết định bắt cóc một bá tước Scotland, song ông ta đang đi tắm nước nóng ở Bath không có nhà, vì thế thủy thủ đoàn ép bà vợ ông ta trao lại số bạc của gia đình. Cảm thấy tội lỗi, Jones quyết định chuộc lại số chiến lợi phẩm từ thủy thủ đoàn để trả lại cho họ và viết một lá thư văn vẻ cho vị bá tước, tuyên bố ý định của mình, rồi gửi bản sao của lá thư đó cho nhiều bạn hữu, trong đó có Franklin. Khi đó, ông đang đảm nhận nhiệm vụ khó khăn: đóng vai trò là giám sát viên người Mỹ của anh, đôi lúc cho anh tá túc ở Passy. Franklin đã cố gắng giúp Jones giải quyết vấn để, nhưng nó dẫn tới một sự trao đổi thư tín rối rắm với vị bá tước giận dữ và người vợ bối rối của ông ta, đến mức số bạc không được trả lại cho đến tận cuối cuộc chiến.

Franklin tin vị thuyền trưởng nóng nảy này sẽ làm lợi nhiều hơn - hoặc bớt gây hại đi - nếu thay vào đó, anh ta tập trung tập kích vào Quần đảo Channel. “Những chiếc tàu lùng ở Jersey luôn trêu ngươi chúng ta”, ông viết thư cho Jones vào tháng 5 năm 1778. “Người ta đã nói với ta rằng, chiếc tàu nhỏ của anh, vốn được một sĩ quan gan dạ chỉ huy, có thể thực hiện nhiệm vụ cao cả nếu đuổi theo chúng ở những nơi mà các tàu lớn không dám liều lĩnh.” Ông nói thêm gợi ý đó đến từ nơi có thẩm quyền cấp cao, hàm ý Bộ trưởng Hải quân Pháp vĩ đại, Antoine Sartine.5

Vốn không dễ sai bảo, Jones đáp rằng con tàu Ranger của anh quá “quái gở và chậm chạp”. Anh đòi hỏi lời hứa hẹn thưởng lớn để thuyết phục lính của mình nhận thêm nhiệm vụ. Tuy nhiên, anh biết nịnh nọt Franklin bằng cách gửi cho ông một bản sao của nhật ký chiến trận - chúng được Franklin đọc say sưa. Vì thế, dù không được phép của các ủy viên tương nhiệm bên Pháp, Franklin quyết định rằng nên giao cho Jones quyền chỉ huy một chiếc tàu mới đóng cho quân đội Mỹ ở Amsterdam. Tiếc là những người Hà Lan sốt sắng, vốn cô gắng giữ trung lập, đã cho kế hoạch này chìm xuồng, nhất là sau khi người Anh biết thông tin qua điệp viên Bancroft và gây áp lực.

Vào tháng 2 năm 1779, Franklin cuối cùng cũng có thể giúp bảo trợ cho Jones một tàu chiến 40 súng cũ tên là Duras. Anh nhanh nhảu đặt lại tên rửa tội cho nó là Chàng Richard để vinh danh người bảo trợ. Jones cảm động đến mức anh tới thăm Passy vào tháng đó để cảm tạ Franklin và chủ nhà Chaumont - người giúp cung cấp đồng phục và kinh phí cho Jones. Dường như có một lý do khác cho cuộc viếng thăm này: Jones có lẽ đang lén lút qua lại với phu nhân Chaumont.6

Trong thời gian này, có một sự việc xảy ra. Khi được làm rõ trong các bức thư tiếp sau, nó giống như một trò hề kiểu Pháp. Vợ người làm vườn của nhà Chaumont, một bà già nhăn nheo, buộc tội Jones định hãm hiếp bà ta. Franklin ám chỉ thoáng qua về cáo buộc ấy trong đoạn tái bút của một lá thư sau đó, nhưng Jones lại lầm tưởng rằng “bí mật mà ngài tinh tế nhắc đến” liên quan tới các tranh luận quanh việc anh giết viên thủy thủ nổi loạn mấy năm trước. Vì thế, Jones đã đưa ra một bài tường thuật dài và đau khổ về sự việc đau lòng cũ.

Bối rối và có phần thích thú với lời giải thích chi tiết của Jones về việc đâm kẻ làm loạn, Franklin đáp rằng ông chưa bao giờ nghe câu chuyện đó và báo cho anh biết “bí mật” ông ám chỉ liên quan tới cáo buộc của vợ người làm vườn rằng Jones đã “cố gắng cưỡng dâm bà ta” trong bụi cây của dinh thự vào “khoảng bảy giờ tối trước khi anh khởi hành”. Người đàn bà đã thuật lại nỗi kinh hoàng hết sức chi tiết, “một số điều trong đó không thích hợp để tôi viết lại”. Ba con trai của bà ta tuyên bố, họ quyết tâm giết chết anh. Song Jones không nên lo sợ: mọi người ở Passy xem câu chuyện đó là đề tài để đùa cợt. Nó “gây ra tràng cười lớn”, Franklin viết, “bà già đó là kẻ thô lậu, lỗ mãng, bẩn thỉu và xấu xí nhất ta có thể tìm thấy trong một ngàn người”. Việc quen với nỗi đói khát tình dục của Jones vẫn không đủ để ngăn phu nhân Chaumont đưa ra một tuyên bố vô tư đậm chất Pháp: “nó cho thấy rõ sức mạnh của lòng khao khát cũng như lòng can đảm của người Mỹ”.

Franklin trấn an Jones rằng cuối cùng họ đều kết luận đó chắc hẳn là một sự nhầm lẫn về nhân dạng. Như một phần của lễ mừng ngày Thứ Ba Béo*, hẳn là một cô hầu phòng đã mặc một bộ đồng phục của anh và họ suy đoán cô ta tấn công vợ của người làm vườn như một trò đùa. Điều bất hợp lý là người đàn bà này, dù dưới ánh sáng lờ mờ khi trời nhá nhem tối, đâu có thể dễ bị lừa như thế - ngay cả ông bạn kịch sĩ Beaumarchais của họ cũng không dám đưa một cảnh hãm hiếp tráo đổi quần áo như thế vào vở Đám cưới của Figaro. Song lời giải thích ấy đủ thỏa mãn để sự việc thôi được nhắc lại trong các thư sau.7

Những điều này xảy ra ngay khi Franklin đang giúp lên kế hoạch đề xuất Jones và Lafayette tiến hành lén tấn công nước Anh. Cả hai đã đến Passy và bỏ hàng giờ thận trọng đánh giá lẫn nhau dưới con mắt lo âu của Franklin. Cả hai viên sĩ quan đều tự cao nên họ sớm cãi lộn về các việc lớn nhỏ, từ chuyện ai sẽ phụ trách về hàng loạt sự vụ của cuộc xâm chiếm, cho đến việc lính của họ có ăn cùng bàn không. Để xoa dịu Jones, Franklin cố gắng vận dụng cách gián tiếp nhất. “Người ta thấy là các cuộc phạt chinh kết hợp giữa các lực lượng trên bộ và trên biển dễ thất bại bởi sự đố kỵ và hiểu lầm giữa sĩ quan của các binh chủng khác nhau”, ông chỉ ra. Tiếp theo, Franklin nói thêm, gần như trái với cảm nhận thật sự của ông: “Vì biết cả hai anh và lối suy nghĩ công tâm của các anh trong những trường hợp thế này, ta tin một điều như thế sẽ không thể xảy đến với các anh.” Song Franklin nói rõ rằng ông lo ngại dù rất cảm thông với tính khí của Jones. “Cư xử bình tĩnh và cẩn trọng là điều cần thiết”, ông cảnh báo. Anh phải nhớ rằng Lafayette là sĩ quan có cấp bậc và đó sẽ là “một thử thách với năng lực và sự phù hợp về mặt khí chất và tính tình của anh khi phải hành động hài hòa với người khác.”

Trong các chỉ thị chính thức dành cho Jones, Franklin thậm chí còn rõ ràng hơn khi yêu cầu anh phải kiềm chế, nhất là xét đến việc thủy thủ của anh trước đây từng bòn rút của cải của viên bá tước Scotland. “Dù người Anh đã thiêu rụi bừa bãi nhiều thành phố không được phòng bị ở Mỹ, anh không được theo gương này trừ phi họ từ chối một khoản tiền chuộc hợp lý; trong trường hợp đó sự hào hiệp của anh cũng như chỉ thị này sẽ hướng dẫn anh đưa ra thông báo kịp thời về ý định của mình để những người già cả, ốm yếu, phụ nữ và trẻ nhỏ được sơ tán đầu tiên.” Jones đáp: “Các chỉ thị tự do và cao quý của ngài sẽ khiến một kẻ hèn nhát trở nên can đảm.”8

Khi phần nhiệm vụ của Lafayette bị hủy, Franklin và người Pháp quyết định rằng Jones nên tiếp tục thực hiện một cuộc tập kích hải quân thuần túy vào tháng 9 năm 1779. Nó dẫn tới cuộc hải chiến hoang đường giữa Chàng Richard và con tàu Serapis được trang bị tốt hơn hẳn. Khi thuyền trưởng Anh buộc anh đầu hàng sau một đợt phản công dữ dội, ít nhất theo huyền thoại, Jones đã đáp rằng: “Ta vẫn chưa bắt đầu đánh!” Như Jones thuật lại chi tiết và sống động với Franklin về trận chiến: “Tôi trả lời ông ta bằng sự chối bỏ xác quyết nhất.”

Trong một con lạch nhỏ chết chóc, Jones tìm cách cột chàng Richard vào tàu Serapis, rồi lính của anh leo lên các cột buồm để ném lựu đạn vào kho vũ khí của tàu kẻ địch. Sau một trận chiến dài ba giờ, với phân nửa trong số 300 thành viên thủy thủ đoàn của anh đã chết hoặc bị thương, Jones giành được quyền điều khiển Serapis ngay trước khi Chàng Richard chìm. “Cảnh tượng đáng sợ ngoài sức mô tả của ngôn từ”, anh viết cho Franklin. “Nhân loại không thể không nhảy dựng lên và than rằng sao chiến tranh lại có thể gây ra những hậu quả chết chóc đến thế.”

Franklin rất tự hào về chiến thắng của Jones, họ thậm chí trở thành bạn thân hơn nữa. “Hầu như không có điều gì đề bàn tán ở Paris và Versailles ngoài hành động bình tĩnh và sự can đảm bền bỉ của anh trong trận chiến kinh hoàng đó”, ông đáp lời. Franklin đã giúp giới thiệu Jones, người khao khát có được sự kính trọng về mặt xã hội, vào Hội quán Tam Điểm Chín Chị Em và đi cùng anh khi khải hoàn vào chầu vua ở cung điện Versailles. Ông thậm chí còn sa vào các tranh cãi dài dòng, cay đắng giữa Jones với kẻ bất mãn Pierre Landais - thuyền trưởng tàu Liên minh - vốn là một thành viên trong hạm đội của Jones. Landais không chịu đến tiếp cứu trong trận đánh với tàu Serapis thực tế đã bắn vào Chàng Richard. Suốt hai năm sau đó, Franklin và Jones chống lại Landais, kẻ được Arthur Lee hậu thuẫn, về việc ai là thuyền trưởng của tàu Liên minh. Cuối cùng, Landais chiếm dụng con tàu và giương buồm bỏ trốn, Franklin khi ấy bị bao vây nên quyết định nên để người khác giải quyết việc đó. Ở Pháp, ông còn có những việc khác phải giải quyết.9

NGƯỜI BẠN CỦA TRIỀU ĐÌNH

Sự vắng mặt của John Adams ở Paris - điều khiến cả Franklin và triều đình Pháp đều hài lòng - không kéo dài bao lâu. Ông đã bỏ đi trong một tâm trạng thậm chí còn cay đắng hơn thường lệ sau khi Franklin được cử làm đại sứ duy nhất tại Pháp; song ông chỉ ở nhà được ít tháng vì Quốc hội quyết định phái ông trở lại Paris. Nhiệm vụ mới mà ông chính thức được giao là đàm phán một hiệp ước hòa bình với nước Anh - nếu và khi thời cơ chín muồi. Vì thực tế hiện tại vẫn chưa phải lúc cho những cuộc thương thảo đó, Adams tự hài lòng với việc can thiệp vào nhiệm vụ của Franklin.

Điều này hoàn toàn khiến bộ trưởng ngoại giao Pháp Vergennes nổi giận. Khi tới Paris vào tháng 2 năm 1780, Adams công khai đề xuất thẩm quyền đàm phán với Anh của ông, Vergennes nhắc lại lời hứa của phía Mỹ rằng họ sẽ không hành động độc lập với Pháp. Adams không nên nói hay làm gì. Vergennes nghiêm khắc chỉ thị: “Trên hết, cần cẩn trọng để mục tiêu của sứ mệnh của ông không lọt vào tai triều đình Anh ở London.”10

Franklin cũng tức giận. Sự trở lại của Adams đe dọa phá hỏng công khai khẩn của ông với triều đình Pháp và nhắc ông nhớ tới những đòn công kích vào thanh danh của ông tại Quốc hội do Adams và phe cánh của nhà Lee tiến hành. Với tâm trạng tư lự, ông viết cho Washington một lá thư lấy cớ để khẳng định thanh danh của vị tướng nhưng rõ ràng phản ánh nỗi lo âu của ông về chính mình. “Tôi cần sớm từ bỏ cảnh này” - Franklin viết theo một lối nội tâm bất thường, không nhắc đến vị trí của ông ở Pháp mà là cuộc đời của ông trên thế giới này. Ông nói, ở Pháp uy danh lừng lẫy của Washington “không bị các mảng tối nhỏ của sự ghen ghét và đố kỵ mà các đồng bào và người cùng thời cố gắng phủ lên một bậc anh tài còn sống.” Rõ ràng, ông đang cố trấn an cả Washington và bản thân ông rằng lịch sử sẽ lãng quên “tiếng nói yếu ớt của những sự phẫn nộ thấp hèn đó”.11

Cụ thể hơn, Franklin tìm cách giải thích với bản thân ông, với các bạn bè (cũng như với lịch sử), tại sao Adams chứ không phải ông lại được chọn để thương thảo về một cơ hội hòa bình với nước Anh. Ngay khi Adams sắp qua, Franklin viết một lá thư cho người bạn cũ của ông, David Hartley, một nghị sĩ Quốc hội Anh. Trước đây hai người từng thảo luận về việc trao đổi tù binh và người do thám hòa bình. Hartley đề xuất một lệnh ngừng bắn mười năm giữa Anh và Mỹ. Franklin đáp rằng ý kiến riêng của ông là một lệnh ngừng bắn có thể có ý nghĩa song lưu ý rằng “cả tôi và ngài hiện đều không được ủy thác” đàm phán các vấn đề đó.

Thẩm quyền đó giờ thuộc về Adams và Franklin đưa ra ý kiến của chính mình về lựa chọn của Quốc hội: “Nếu Quốc hội đã phó thác cho người khác chứ không phải tôi để tiến hành đàm phán hòa bình khi việc đó khởi sự, như tôi được thông báo, thì có lẽ là bởi họ đã biết được một tư duy rất mới của tôi. Tôi cho là hầu như chưa từng tồn tại cái gọi là hòa bình xấu hoặc chiến tranh tốt. Có thể vì thế họ nghĩ rằng tôi dễ dàng bị dụ dỗ đưa ra các nhượng bộ không phù hợp.”12

Thực tế, Franklin thường dùng cách nói không có cái gọi là một nền hòa bình xấu hay một cuộc chiến tranh tốt và đã lặp lại nó với hàng chục bạn bè sau khi Cách mạng chấm dứt. Đôi khi nó được xem như một khẩu hiệu phản chiến để xếp Franklin vào hàng ngũ các nhà yêu chuộng hòa bình đáng kính trong lịch sử. Nhưng điều đó dễ gây hiểu lầm. Suốt đời mình, Franklin ủng hộ các cuộc chiến khi ông cảm thấy chúng được đảm bảo. Ông đã giúp lập đội dân quân ở Philadelphia và quyên góp quân nhu cho cuộc chiến với Pháp và người Anh-điêng. Dù lúc đầu ông nỗ lực để ngăn chặn Cách mạng, ông đã ủng hộ nó mạnh mẽ khi nhận thấy giành độc lập là việc không tránh khỏi. Các tình cảm trong thư của ông hướng đến cả Hartley lẫn lịch sử. Ông muốn lý giải tại sao mình không được chọn làm người đàm phán vì hòa bình. Có lẽ mưu mô hơn, ông muốn để bạn bè ở Anh biết rằng rốt cuộc ông có thể cung cấp một kênh tốt, hơn cả Adams, nếu những cuộc thương thảo bắt đầu.13

Cùng lúc đó, Franklin nhiệt thành tuân thủ liên minh với Pháp hơn hầu hết các đồng nghiệp Mỹ của ông. Điều này dẫn đến sự rạn nứt công khai lớn với Adams sau khi ông trở lại vào đầu năm 1780. Trước đó, căng thẳng giữa hai người chủ yếu xuất phát từ sự khác biệt về cá tính và phong cách song giờ đây nó có căn nguyên là sự bất đồng căn bản về chính sách: nước Mỹ có nên bày tỏ sự biết ơn, phục tùng và trung thành với nước Pháp.

Trong những ngày đầu Cách mạng, cả hai người đều chia sẻ một quan điểm có phần hơi biệt lập và ngoại lệ, một quan điểm từ đó đã trở thành sợi chỉ xuyên suốt lịch sử nước Mỹ: đất nước này không bao giờ nên là kẻ đi nài nỉ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các quốc gia khác, nó nên rụt rè và thận trọng về việc tham gia vào các liên minh rối rắm với nước ngoài. Kể cả sau khi ông bắt đầu có tình cảm với nước Pháp kể từ năm 1777, Franklin vẫn nhắc lại nguyên tắc này. “Tôi vẫn chưa thay đổi ý kiến mình từng đưa ra trước Quốc hội rằng, một đất nước trinh khiết cần giữ gìn sự trinh khiết đó chứ không nên chạy quanh để cầu cạnh việc liên minh”, ông trấn an Arthur Lee. Trong cuộc đàm phán liên minh với Pháp, ông phản đối thành công việc đưa ra bất cứ nhượng bộ nào có thể đem lại cho Pháp sự độc quyền về thương mại hay các ưu huệ với Mỹ.

Tuy vậy, khi các hiệp ước được ký vào đầu năm 1778, Franklin trở nên tin tưởng mạnh mẽ vào việc tỏ lòng biết ơn và trung thành. Theo sử gia ngoại giao Gerald Stourzh ông “ca tụng sự nghĩa hiệp và hào phóng của Pháp bằng các từ ngữ mà nhiều khi chớm chạm tới sự kỳ cục”. Theo quan điểm của Franklin, sự trung thành của Mỹ với Pháp dựa trên cả chủ nghĩa hiện thực và lý tưởng. Ông diễn tả nó bằng các thuật ngữ đạo đức hơn là tính toán lạnh lùng thuần túy về lợi ích thương mại và cán cân quyền lực ở châu Âu. “Đây là một đất nước thật sự hào hiệp. Họ yêu thích vinh quang và đặc biệt bảo vệ những ai bị áp bức”, ông tuyên bố về Pháp trong lá thư gửi Quốc hội. “Nói với họ rằng thương mại của họ sẽ hưởng lợi nhờ thành công của chúng ta và họ có lợi khi giúp đỡ chúng ta thật không khác gì nói rằng ‘hãy giúp chúng tôi đi rồi chúng tôi sẽ không chịu ơn các vị’. Ngôn từ thiếu thận trọng và không phù hợp đó đôi lúc đã bị chính một số người của chúng ta ở đây sử dụng và nó chẳng đem lại lợi ích gì.”14

Trái lại, Adams có phần là một người lạnh lùng, thực tế hơn. Ông cảm thấy rằng Pháp đã ủng hộ Mỹ vì lợi ích quốc gia của chính họ: làm suy yếu Anh, giành được một quan hệ thương mại dễ sinh lợi mới; do đó hai bên không nợ nhau bất cứ sự hàm ơn về đạo đức nào. Ông tiên đoán chính xác, Pháp sẽ chỉ giúp Mỹ tới một điểm nhất định - họ muốn quốc gia mới này cắt đứt với Anh nhưng không trở nên quá mạnh, đến mức không còn cần sự ủng hộ của họ nữa. Adams cảm thấy Franklin thể hiện sự khúm núm quá mức với triều đình và trong lần trở về năm 1780 ông mạnh mẽ bày tỏ quan điểm này. Ông viết cho Quốc hội vào tháng Tư: “Chúng ta phải thận trọng với việc phóng đại suy nghĩ và cách thể hiện về sự hào hiệp và đại lượng của bất cứ cường quốc nào.”

Không có gì bất ngờ khi Vergennes chỉ muốn thương lượng với Franklin. Vào cuối tháng 7 năm 1780, ông đã trao đổi thư tín đủ căng thẳng với Adams về mọi thứ, từ định giá lại đồng tiền của Mỹ cho đến khai triển hải quân Pháp, đến mức ông cho là mình đúng khi gửi cho Adams một lá thư châm chích vừa có tính ngoại giao nghiêm túc, lại vừa có tính phi ngoại giao. Thay mặt triều đình Louis XVI, ông tuyên bố: “Nhà vua không cần mấy lời xúi giục của ngài để hướng sự chú ý của ngài đến các lợi ích của nước Mỹ.” Nói cách khác, Pháp sẽ không thương thảo với Adams nữa.15

Vergennes thông báo cho Franklin về quyết định này và gửi cho ông bản sao toàn bộ các thư từ gắt gỏng của Adams và đề nghị Franklin hãy “đưa tất cả ra trước Quốc hội”. Trong thư hồi âm, Franklin thẳng thắn quá mức với Vergennes, thực sự đến mức nguy hiểm, khi tiết lộ sự bất bình của chính ông với Adams. “Việc anh ta làm ngài mất vui như vậy xuất phát từ sự thiếu suy nghĩ của riêng anh ta, chứ không phải từ bất cứ chỉ thị nào mà anh ta nhận được.” Franklin tiếp tục công khai tách ông khỏi các hoạt động của Adams. “Anh ta chưa bao giờ báo cáo với tôi về công việc của mình ở châu Âu, trừ những gì tôi đọc trên báo”, Franklin nói với Vergennes. “Tôi cư xử với anh ta dựa trên sự lịch thiệp chứ không thân mật.” Ông kết luận bằng việc hứa gửi cho Quốc hội các thư tín xúc phạm của Adams mà Vergennes đã cung cấp.

Dù Franklin có thể và có lẽ nên gửi những lá thư ấy đi mà không bình luận gì, ông đã nhân cơ hội này viết một lá thư riêng (“với sự miễn cưỡng”) cho Quốc hội, nêu chi tiết các bất đồng của ông với Adams. Mâu thuẫn giữa họ một phần là vì sự khác biệt về phong cách. Adams tin vào việc khẳng định thẳng thừng quyền lợi của nước Mỹ, còn Franklin ủng hộ sự tín phục và quyến rũ về ngoại giao. Song mâu thuẫn cũng bắt nguồn từ sự khác biệt căn bản về triết lý. Adams nghĩ chính sách ngoại giao của Mỹ nên dựa trên chủ nghĩa hiện thực; trong khi Franklin tin rằng nó nên bao gồm cả yếu tố lý tưởng - đó vừa là nghĩa vụ đạo đức, vừa là một phần lợi lích quốc gia của Mỹ. Ông đã viết trong thư như sau:

Như ông Adams nói riêng với tôi, ông ấy cho rằng nước Mỹ đã quá tự do trong khi bày tỏ sự biết ơn với nước Pháp bởi nước này chịu ơn nước ta nhiều hơn là ngược lại; và rằng chúng ta nên thể hiện tinh thần trong các thỉnh cầu của mình. Tôi thấy rõ ông ấy đã nhầm lẫn về cơ bản và triều đình này cần phải được đối xử bằng lễ nghi và sự tinh tế. Tôi tin rằng nhà vua, vốn là một hoàng tử trẻ và có phẩm giá, tìm thấy niềm vui trong việc phản ánh sự từ bi quảng đại của hành vi khi tương trợ một dân tộc bị áp bức và xem đó là một phần vinh quang đối với vương triều của ngài. Tôi nghĩ thật đúng đắn khi chúng ta gia tăng niềm vui đó bằng việc bày tỏ lòng biết ơn; và sự bày tỏ lòng biết ơn như thế không phải nghĩa vụ mà là quyền lợi của chúng ta.16

Khi người Anh chưa sẵn lòng thương thảo với ông và người Pháp thì không còn muốn thương thảo với ông, Adams lại một lần nữa ôm mối uất hận rời Paris. Một lần nữa Franklin lại cố gắng giữ cho các bất đồng của họ khỏi trở thành vấn đề cá nhân. Adams đến Hà Lan để cố gắng kiếm một khoản nợ cho nước Mỹ. Franklin viết thư cho Adams và động lòng trước sự khó khăn của nhiệm vụ đó. Ông nói: “Từ lâu tôi đã bị nhạo báng với suy nghĩ về việc chúng ta chạy từ triều đình này sang triều đình khác đề cầu xin tiền bạc và tình bạn.” Và trong một lá thư sau đó, than phiền về việc mất quá nhiều thời gian để phía Pháp trả lời các đề nghị của chính ông, Franklin khôi hài viết cho Adams: “Tuy nhiên, tôi có cả hai ân sủng của một Ki-tô hữu - đức tin và hy vọng. Nhưng đức tin của tôi chỉ là thứ được tông đồ nói đến, còn bằng chứng của sự việc thì không thấy.” Ông nói thêm, nếu những nỗ lực chung đổ bể, “tôi sẽ sẵn sàng phá bỏ, chạy trốn hoặc vào tù với anh, vì điều đó sẽ làm Chúa vui lòng.”17

Việc nước Mỹ cần thêm tiền thực tế đã trở nên rất vô vọng vào cuối năm 1780. Đầu năm đó, viên chỉ huy người Anh, Ngài Henry Clinton, đã xuôi từ New York hướng về phía nam để cùng với phó tướng Cornwallis tung đòn tấn công vào Charleston, Nam Carolina. Thành công đến vào tháng Năm và Cornwallis thiết lập một bộ tư lệnh Anh ở đây sau khi Clinton trở về New York. Cũng trong mùa hè này, viên tướng Mỹ bất an Benedict Arnold đã trở cờ theo một cách khiến tên ông ta đồng nghĩa với phản bội. “Tình thế hiện tại”, Washington viết thư cho Franklin vào tháng Mười năm đó, “khiến một trong hai thứ sau đây thiết yếu với chúng ta: một nền hòa bình, hoặc sự hỗ trợ mạnh mẽ nhất từ các đồng minh, đặc biệt về vấn đề tiền bạc.”

Bởi vậy, trong đề nghị của ông gửi tới Vergennes vào tháng 2 năm 1781, Franklin đã sử dụng hết mưu chước của mình - sự biện hộ cá nhân pha trộn với lời khẩn cầu về chủ nghĩa lý tưởng và lợi ích quốc gia. “Tôi ngày một già cả”, ông nói và bổ sung rằng sự ốm yếu khiến ông có khả năng sẽ sớm nghỉ hưu. “Tình cảnh hiện nay rất nguy kịch.” Nếu nguồn tiền bổ sung không đến sớm, Quốc hội có thể mất đi ảnh hưởng và chính quyền mới sẽ chết yểu, còn Anh sẽ tái lập quyền kiểm soát với Mỹ. Ông cảnh báo điều đó sẽ làm nghiêng cán cân quyền lực theo hướng “đưa họ trở thành hung thần của châu Âu và tự do thực hiện đường lối xấc xược vốn rất tự nhiên với nước họ.”18

Đề nghị của ông thật táo bạo: 25 triệu livre.* Cuối cùng, Pháp đồng ý cấp 6 triệu, đây là một chiến thắng lớn đối với Franklin. Số tiền đó đủ để cứu sống hy vọng của người Mỹ.

Tuy vậy, Franklin đã nản chí. Ở quê nhà, kẻ thù của ông vẫn hằn học như xưa. “Sự cứu vớt nước Mỹ về chính trị phụ thuộc vào việc triệu hồi Tiến sĩ Franklin”, Ralph Izard viết thư cho Richard Lee. Kể cả Vergennes cũng bày tỏ một số hoài nghi và chúng cũng đến tai Quốc hội Lục địa. Ông viết cho vị đại sứ ở Philadelphia: “Dù đánh giá cao ông Franklin, tôi buộc phải thừa nhận rằng tuổi tác và sự ưa thích yên ổn của ông ấy tạo ra một sự thờ ơ không thích hợp với các nhiệm vụ mà ông ấy phụ trách.” Izard, được phe Lee và Adams hậu thuẫn, đã thúc đẩy một cuộc bỏ phiếu về vấn đề triệu hồi. Dù ông dễ dàng vượt qua, Quốc hội vẫn quyết định phái một đặc vụ để tiếp quản việc xử lý các giao dịch tài chính trong tương lai.

Vì thế, vào tháng Ba, sau khi nhận được tin về khoản tiền cho vay mới của Pháp, Franklin đã báo cho Quốc hội biết ông sẵn sàng từ chức. “Tôi đã qua tuổi 75”, ông viết và nói thêm mình đang chịu sự hành hạ của bệnh gout và sức khỏe yếu. “Tôi không hề biết năng lực tinh thần của mình đã suy yếu, có lẽ tôi là người sau cùng nhận ra điều đó.” Ở chốn quan trường đã 40 năm, ông đã nhận được “vinh dự đủ để thỏa mãn bất cứ tham vọng hợp lý nào và tôi không còn tham vọng gì khác ngoài việc được nghỉ ngơi, điều tôi mong sẽ được Quốc hội chấp thuận.”

Ông kết lại bằng một đề nghị cá nhân: mong các nghị sĩ tìm một công việc cho Temple, cháu trai ông, người đã từ chối cơ hội học luật để có thể phục vụ đất nước mình ở Paris. “Nếu họ nghĩ việc tuyển mộ nó làm thư ký cho một vị đại sứ ở bất cứ triều đình nào tại châu Âu, tôi tin họ sẽ có lý do để hài lòng với hành xử của nó và tôi sẽ biết ơn vì đã bổ nhiệm nó như một sự tri ân với tôi.”20

ỦY VIÊN HÒA BÌNH

Quốc hội bãi đơn xin từ chức của Franklin. Thay vào đó, như một bất ngờ dễ chịu, ông không những được giữ lại làm đại sứ tại Pháp, mà còn được giao thêm nhiệm vụ: một trong năm ủy viên tiến hành đàm phán hòa bình với Anh để kết thúc chiến tranh nếu và khi thời cơ đến. Bốn người khác là: John Adams (lúc đầu được dự kiến là nhà đàm phán duy nhất, lúc này vẫn đang ở Hà Lan), Thomas Jefferson (một lần nữa từ chối nhiệm vụ ở nước ngoài vì lý do cá nhân), Henry Laurens - thương gia và chủ đồn điền ở Nam Carolina (bị quân Anh bắt trên biển và giam tại Tháp London), và luật sư John Jay đến từ New York.

Việc lựa chọn Franklin gây tranh cãi và xuất phát một phần từ áp lực của phía Vergennes. Bất chấp các mối hoài nghi về sức lực của Franklin, vị bộ trưởng người Pháp chỉ định cho đặc sứ ở Philadelphia thay mình vận động hành lang và báo cáo với Quốc hội rằng hành vi của Franklin “nhiệt thành, ái quốc đồng thời cũng khôn ngoan và thận trọng”. Vergennes cũng đề nghị Quốc hội Mỹ chỉ thị phái đoàn mới không đi thêm bước nào nếu chưa có sự đồng ý của Pháp. Quốc hội thuận theo bằng việc đề ra các chỉ thị nghiêm ngặt cho các ủy viên: “phải thực hiện việc liên lạc trung thực và bí mật nhất mọi vấn đề với các bộ trưởng của đồng minh hào phóng của chúng ta - Hoàng đề nước Pháp; không cam kết điều gì trong các cuộc đàm phán về hòa bình hay ngừng bắn nếu Pháp không biết và không đồng thuận.”21

Adams kinh hoàng khi Mỹ bị trói buộc vào nguyên vọng của Pháp đến vậy và ông gọi đó là các chỉ thị “đáng xấu hổ”. Jay đồng ý và tuyên bố rằng, “ném mình vào tay Hoàng đế Pháp”, nước Mỹ sẽ không “tiến bộ cả về lợi ích và danh tiếng.” Trái lại, Franklin hài lòng với chỉ thị tuân thủ sự chỉ dẫn của nước Pháp. “Tôi đã có quá nhiều kinh nghiệm về sự tốt bụng của bệ hạ với chúng ta”, ông viết thư cho Quốc hội, “và về sự chân thành của vị bộ trưởng cương trực và đầy năng lực này [tức Vergennes], tới mức tôi không thể nào không nghĩ chúng ta đã trao đặt lòng tin sáng suốt và nó sẽ có hiệu quả đáng mừng.”22

Ông còn phấn khởi vì một thành công cá nhân. Vượt qua sự phản đối - kể cả của các bạn hữu như Silas Deane - Temple vẫn được bổ nhiệm làm thư ký của phái đoàn mới. Vinh dự của việc bổ nhiệm cháu ông và việc bãi đơn xin từ nhiệm của ông khiến Franklin trẻ lại. “Tôi xem sự tiếp tục này như một vinh dự và tôi thực sự đánh giá cao nó hơn lần bổ nhiệm đầu tiên vì tôi thấy mọi tác động của các kẻ thù của tôi không đủ để ngăn cản nó”, ông viết thư cho một người bạn.

Ông thậm chí còn viết một lá thư thân thiện khác cho Adams. Sứ mệnh đàm phán với nước Anh của Adams đã bị chia sẻ bởi xuất hiện thêm phái đoàn mới. Franklin nói với Adams rằng, việc cùng được bổ nhiệm là một vinh dự lớn cho họ, song nhăn nhó than thở rằng khả năng cao họ sẽ bị chỉ trích dù đạt được điều gì. “Tôi chưa bao giờ biết một nền hòa bình được kiến tạo, dù là thứ có lợi nhất, mà lại không bị chê bai là chưa toàn diện”, ông nói. “Câu nói ‘Chúa ban phước cho những ai kiến tạo hòa bình’, theo tôi, cần được hiểu ở thế giới khác, vì ở thế giới này họ thường bị nguyền rủa.”23

Là bậc thầy của mối quan hệ giữa quyền lực và ngoại giao, Franklin biết rằng sẽ không thể giành được trên bàn đàm phán thứ không thể giành được ngoài chiến trường. Ông chỉ có thể đàm phán về liên minh với Pháp sau khi Mỹ thắng trận Saratoga vào năm 1777. Và ông cũng sẽ chỉ có thể đàm phán một nền hòa bình phù hợp với Anh sau khi Mỹ và đồng minh Pháp giành một chiến thắng quyết định hơn thế.

Vấn đề đó được giải quyết vào tháng 10 năm 1781. Tướng Anh, Ngài Cornwallis, đã đưa quân từ Charleston lên phía bắc tìm cách giao chiến với lực lượng của Tướng Washington và đóng quân tại Yorktown, Virginia. Sự hỗ trợ của Pháp tỏ ra thật cấp bách: Lafayette di chuyển tới sườn phía nam của Cornwallis để chặn đường lui, một hạm đội Pháp chặn nơi cửa sông Chesapeake để loại trừ khả năng tẩu thoát bằng đường biển, pháo binh Pháp từ Đảo Rode được điều đến; 9.000 lính Pháp hội quân cùng 11.000 lính Mỹ dưới quyền chỉ huy của Tướng Washington. Hai toán quân 400 lính, một Pháp và một Mỹ, bắt đầu hợp sức tấn công và bắn phá liên tiếp ngày đêm với cường độ cao, đến mức ngày 17 tháng 10, khi Cornwallis phái một tay trống đi thông báo việc ông ta sẵn sàng đầu hàng, phải mất một lúc người ta mới để ý thấy anh ta. Đã bốn năm kể từ trận Saratoga, sáu năm rưỡi kể từ trận Lexington và Concord. Vào ngày 19 tháng 11, tin về chiến thắng của liên quân tại Yorktown đến tai Vergennes. Ông thông báo tới Franklin, lập tức nó được đăng trên tờ báo của Franklin ở Passy và được loan đi vào bình minh ngày hôm sau.

Mặc dù chiến tranh trên thực tế đã qua, Franklin vẫn thận trọng. Vẫn có nguy cơ nước Anh tái lập nỗ lực chiến tranh cho đến khi nội các hiện tại từ chức. “Tôi nhớ rằng, khi còn là một cậu bé mê đấm bốc, tôi được phép giáng cho đối thủ một cú hồi đòn kể cả sau khi anh ta nói rằng đã thấy đủ”, ông viết cho Robert Morris, Bộ trưởng Tài chính Mỹ. “Hãy để đòn của chúng ta là đòn chốt hạ.”24

Nội các của Ngài North cuối cùng cũng sụp đổ vào tháng 3 năm 1782 và được thay thế bởi nội các do Ngài Rockingham đứng đầu. Các cuộc thương lượng hòa bình giữa Mỹ và Anh có thể bắt đầu. Rất tinh cờ, trong số năm ủy viên Mỹ, khi đó chỉ duy Franklin đang có mặt ở Paris. Vì thế suốt vài tháng tiếp theo, cho đến khi Jay và sau đó là Adams tới, ông đã tự mình tổ chức việc đàm phán. Khi làm việc này, ông đối diện với hai nhân tố phức tạp:

• Mỹ đã cam kết phối hợp ngoại giao với Pháp và các đồng minh chứ không đàm phán riêng với London. Song, người Anh muốn có những cuộc thương thảo trực tiếp để đưa tới một nền hòa bình riêng rẽ với Mỹ. Bề ngoài, ban đầu, Franklin khăng khăng hành động phối hợp với Pháp. Nhưng phía sau hậu trường, ông đã sắp xếp những cuộc đàm phán hòa bình bí mật và trực tiếp với người Anh.

• Chính phủ Rockingham có hai vị bộ trưởng đối lập: quốc vụ khanh phụ trách ngoại giao, Charles Fox và quốc vụ khanh phụ trách thuộc địa, Ngài Shelburne. Họ phái các nhà đàm phán của riêng mình tới Paris. Franklin phải dùng mưu mẹo để đảm bảo đặc sứ của Shelburne - người ông thích hơn và thấy dễ sai khiến hơn - được trao nhiệm vụ đàm phán với người Mỹ.

CÁC CUỘC ĐÀM PHÁN BẮT ĐẦU

“Việc lớn đôi khi khởi sự từ những tình huống nhỏ,” Franklin ghi lại trong nhật ký khi ông bắt đầu các cuộc thương thảo hòa bình năm 1782. Trong trường hợp này, đó là cuộc gặp tình cờ giữa người tình si cũ của ông, phu nhân Brillon và Ngài Cholmondeley, một người Anh, bạn của Shelburne. Phu nhân Brillon đưa Cholmondeley đến gặp Franklin ở Passy, và qua người ấy, Franklin nhắn gửi sự trọng thị của mình tới vị quốc vụ khanh thuộc địa mới. Franklin đã biết tới và quý mến Shelburne ít nhất từ năm 1766, khi tiến hành vận động hành lang để được cấp một mảnh đất phía tây và thỉnh thoảng có ghé thăm dinh thự lớn của ông ở Wiltshire. Bà Helvétius cũng đóng một vai trò nhỏ; Shelburne mới gửi cho bà một vài khóm phúc bồn tử, và Franklin lịch sự viết thư rằng chúng đã đến nơi “theo một trật tự tuyệt vời”.25

Shelburne đáp lại bằng việc cử Richard Oswald, một thương nhân London chột mắt đã nghỉ hưu, trước đây là một kẻ buôn bán nô lệ và từng sống ở Mỹ để bắt đầu đàm phán với. Oswald đến nơi vào ngày 15 tháng 4 và lập tức cố gắng thuyết phục Franklin rằng Mỹ có thể có một thỏa thuận nhanh hơn và tốt hơn nếu họ đàm phán độc lập với Pháp. Franklin vẫn chưa sẵn sàng. Ông viết: “Tôi để ông ta biết rằng nước Mỹ sẽ không hành động mà không phối hợp với Pháp.” Thay vào đó, ông đưa Oswald đến điện Versailles vào ngày hôm sau để gặp Vergennes, người đề xuất sẽ tổ chức một hội nghị hòa bình chung tại Paris cho tất cả các bên tham chiến.26

Trên đường từ Versailles về, Oswald lại một lần nữa tranh luận về vấn đề hòa bình riêng rẽ. Ông nói, một khi vấn đề độc lập của Mỹ có thể được giải quyết qua thương lượng, nó không nên bị đình trệ trong khi các vấn đề liên quan chỉ riêng tới Pháp và Tây Ban Nha (trong đó có vấn đề quyền sở hữu với Gibraltar) vẫn còn đang tranh chấp. Ông bồi thêm lời đe dọa ngầm: nếu Pháp tham gia vào và đưa ra quá nhiều yêu sách, Anh sẽ tiếp tục chiến tranh và cung cấp tài chính cho nó bằng việc ngưng trả nợ công.

Franklin thẳng thắn đáp, vấn đề độc lập đã được giải quyết từ năm 1776. Nước Anh đơn giản nên chấp nhận nó thay vì đề nghị đàm phán về nó. Về việc ngưng trả nợ của họ để tái tục cuộc chiến, Franklin không hồi âm. “Tôi không muốn phản đối việc họ ngừng trả nợ, điều mà tôi cho là sẽ cắt cổ các chủ nợ của họ”, ông viết vào nhật ký. “Những lời đe dọa như thế vả chăng lại là sự khích lệ với tôi. Hãy nhớ câu ngạn ngữ cổ: kẻ đe dọa là kẻ sợ hãi.”

Thay vào đó, Franklin đề nghị rằng, Anh nên xem xét bồi thường cho Mỹ, nhất là “những nơi khổ sở vì bị các nhóm cướp bóc và đốt phá” mà Anh đã tranh thủ người Anh-điêng để tiến hành. “Không điều gì có xu hướng hòa giải lớn hơn thế”, ông nói, và điều đó sẽ dẫn tới việc tái tục hoạt động thương mại mà Anh cần lẫn muốn.

Ông thậm chí còn đề ra một kế hoạch bồi thường cụ thể: nước Anh nên đề nghị nhượng lại quyền kiểm soát Canada. Sau cùng thì số tiền mà Anh có thể kiếm được từ việc buôn bán lông thú Canada khá nhỏ so với số tiền mà họ tiết kiệm được nếu không phải bảo vệ nước này. Nó cũng ít hơn nhiều so với số tiền mà Anh có thể kiếm được thông qua việc nối lại thương mại với Mỹ, thứ sẽ theo sau một thỏa thuận thân thiện. Hơn nữa, số tiền mà Mỹ kiếm được từ việc bán đất trống ở Canada có thể được dùng để bồi thường cho các nhà ái quốc có nhà cửa bị quân Anh tàn phá và những người trung thành với nước Anh có tài sản bị người Mỹ tịch thu.

Sau lưng Pháp, Franklin đang chơi một trò cân bằng quyền lực ranh mãnh. Ông biết rằng, dù luôn đối địch với Anh, Pháp không muốn Mỹ được trao quyền kiểm soát Canada, bởi điều đó khiến biên giới của Mỹ an toàn hơn, bớt căng thẳng với Anh và bớt cả sự cần kíp của tình bạn với Pháp. Nếu Anh tiếp tục giữ Canada, “tất yếu chúng tôi sẽ phải xây dựng và củng cố liên minh với Pháp”, ông lý giải cho Oswald. Trong báo cáo gửi Vergennes về cuộc hội thoại với Oswald, Franklin không nhắc đến việc ông đã gợi ý nhượng lại Canada. Đây là dấu hiệu nhỏ đầu tiên cho thấy, dù Franklin nhất định muốn phối hợp với Pháp, ông sẵn sàng hành động đơn phương khi được đảm bảo.

Như thường lệ, Franklin phát biểu từ các ghi chú ông chuẩn bị sẵn và Oswald “cầu xin” được tin cậy để có thể trình chúng cho Shelburne. Sau một chút do dự, Franklin đồng ý. Oswald bị sự tin tưởng của Franklin hấp dẫn, còn Franklin nhận thấy Oswald là người hợp lý và không xảo trá. “Khi chia tay, chúng tôi còn hơn cả những người bạn tốt”, ông nhận xét.

Franklin có một điều hối tiếc về tài liệu mà ông giao cho Oswald: đề nghị rằng việc bồi hoàn có thể áp dụng cả với những người trung thành với nước Anh ở Mỹ có tài sản bị tịch thu. Vì thế ông đăng tải trên tờ báo ở Passy; rồi gửi cho Adams và những người khác một ấn bản giả của một tờ báo ở Boston có nội dung mô tả chi tiết đến rùng rợn nỗi kinh hãi mà người Anh đã gieo rắc lên người dân Mỹ vô tội. Mục đích của ông là nhấn mạnh rằng, không có sự cảm thông nào với những người trung thành với nước Anh, và chính người Mỹ mới xứng đáng được bồi thường. Ấn bản giả này có sức thuyết phục một cách khéo léo. Nó mô tả một lô hàng da đầu của dân Mỹ được tự nhận là do người Anh-điêng Seneca gửi sang Anh và một lá thư mà ông giả là của John Paul Jones. Để khiến nó thật hơn, ông thậm chí còn đưa thêm vài tin quảng cáo giả nhỏ về một ngôi nhà gạch mới được rao bán ở miền nam Boston và một con ngựa cái màu hồng thất lạc ở Salem.27

Nước Anh đồng ý với đề xuất của Vergennes về một hội nghị hòa bình dành cho tất cả các bên, nhưng điều đó đồng nghĩa với việc họ phải gửi thêm một đặc sứ mới đại diện cho quốc vụ khanh ngoại giao Charles Fox - thay vì quốc vụ khanh thuộc địa Shelburne. Đặc sứ mới có có cái tên không tốt đẹp: Thomas Grenville, con trai của George Grenville bị khinh bỉ, người đã áp đặt Luật Tem vào năm 1765. Nhưng Fox, vốn đã nhiều năm thông cảm với Mỹ, đảm bảo với Franklin rằng, chàng trai trẻ Grenville mới 27 tuổi là một người có thể tin cậy được. “Tôi biết quá rõ sự phóng khoáng trong tư tưởng của ngài nên không hề e sợ rằng bất cứ định kiến nào với cái tên của ông Grenville có thể ngăn cản ngài đánh giá cao các phẩm chất của trái tim và trí tuệ thuộc về anh ta, hay ngăn cản ngài trao niềm tin đầy đủ nhất cho sự chân thành trong mong ước hòa bình của anh ta.”28

Khi Grenville đến Paris vào đầu tháng Năm, Franklin liền dẫn anh ta tới Versailles. Chàng trai trẻ người Anh mắc sai lầm khi đề xuất với Vergennes rằng, nếu Anh trao độc lập cho Mỹ, Pháp sẽ trả lại một số đảo vùng Caribbe mà nước này đã chiếm được, và hòa bình có thể sẽ nhanh chóng được thiết lập.

Bằng nụ cười ẩn ý, Vergennes vặn lại nhà ngoại giao Anh quốc mới học việc và hạ thấp lời đề nghị hòa bình của anh ta. Ông nói: “Nước Mỹ không xin xỏ nó từ các vị. Có ông Franklin ở đây. Ông ấy sẽ trả lời anh về việc này.”

Franklin đáp: “Chắc chắn chúng tôi không thấy cần phải mặc cả để giành lấy một thứ thuộc về mình, đã được chúng tôi mua bằng xương máu và của cải.”

Cũng như Oswald, Grenville hy vọng có thể thuyết phục Franklin đàm phán một nền hòa bình riêng với Anh hơn là gắn với cả yêu sách của Pháp. Vì thế, vài ngày sau, anh ghé tới Passy và cảnh báo rằng, Pháp có thể sẽ đòi hỏi những điều không liên quan đến hiệp ước giữa nước này và Mỹ. Nếu điều đó xảy ra, Mỹ không nên bị hiệp ước đó ràng buộc, để rồi “tiếp tục cuộc chiến để giành lợi điểm như thế cho nước họ”.

Như đã làm với Oswald, Franklin từ chối nhượng bộ. “Tôi bày tỏ tình cảm nhiều hơn một chút về các chủ đề quyền lợi, bổn phận và lòng biết ơn nói chung”, Franklin nhận xét. Những kẻ muốn thoát khỏi nghĩa vụ thường “trở nên khéo léo khi đi tim lý lẽ và lập luận” để làm thế, song Mỹ không theo con đường đó. Kể cả nếu một người vay tiền người khác sau đó trả lại, họ vẫn nợ người kia lòng biết ơn: “Anh ta đã trả lại số tiền nợ, nhưng bổn phận vẫn còn đó.”

Grenville đáp rằng, điều này đã đưa ý tưởng về lòng biết ơn đi khá xa vì Pháp là bên thật sự hưởng lợi từ việc Mỹ tách khỏi Anh. Franklin nhất định cho rằng ông cảm nhận rất rõ về “cách thức cao quý và hào hiệp” mà Pháp đã hỗ trợ Mỹ. “Tôi không thể giày vò bản thân bằng việc nghĩ ra những lý lẽ nhằm giảm bớt đi bổn phận.”29

Grenville tiếp tục quấy rầy Franklin khi cố giấu đi sự thật rằng anh ta chỉ được ủy quyền đàm phán với Pháp mà không trực tiếp với Mỹ bởi Anh không thừa nhận Mỹ là một quốc gia độc lập. Franklin căn vặn anh ta về điểm này vào đầu tháng Sáu. Ông đặt câu hỏi tại sao ủy nhi?