Chương 1 .
Đoàn tàu lao đi trong đêm tháng Mười một. Ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay: tàu tốc hành Roma Express vẫn muộn hai tiếng trên đất Ý như thường lệ. Ông thở dài: chẳng thể nào có mặt ở Paris trước hai mươi mốt giờ được…
Ông cố lựa tư thế ngồi thoải mái nhất, lấy ngón tay trỏ nới rộng cổ áo thầy tu cho đỡ bó sát lấy cổ. Cha Andrei không quen mặc trang phục này, ông chỉ khoác mỗi khi ra ngoài tu viện – điều rất hiếm hoi. Mà hình như những toa tàu này có từ thời Mussolini thì phải! Ghế ngồi bọc da giả cứng ngắc như ghế phòng khách trong tu viện, cửa sổ có thể hạ xuống tận chỗ tì tay vốn cũng rất thấp, điều hòa thì không có…
May thay, cuối cùng thì chỉ còn khoảng một tiếng nữa thôi. Ánh đèn trên sân ga Lamotte-Beuvron vừa vun vút lướt qua ngoài cửa sổ: bao giờ cũng thế, đoàn tàu luôn chạy tốc độ cao nhất trên đoạn đường thẳng băng ở Sologne.
Thấy cha Andrei ngọ nguậy, người khách có dáng dấp béo lùn ngồi đối diện ông ngước đôi mắt màu hạt dẻ khỏi tờ báo đang đọc và nặn ra một nụ cười, nhưng gương mặt với nước da nhợt nhạt của anh ta chẳng tươi tỉnh lên được chút nào.
"Anh ta chỉ cười bằng môi thôi, cha Andrei nghĩ. Mắt anh ta vẫn lạnh lẽo hệt như những hòn đá ven sông Loire…"
Hành khách của Roma Express thường là giới tu hành khiến đoàn tàu giống như một giáo đường phụ của Vatican. Nhưng trong khoang này, chỉ có cha Andrei và hai người đàn ông lặng lẽ khác: những chỗ ngồi còn lại đã đặt trước nhưng vẫn bỏ trống từ khi tàu xuất phát đến giờ. Ông đưa mắt nhìn người khách thứ hai, ngồi khuất trong góc sát hành lang: người này có vẻ nhiều tuổi hơn, dáng dấp sang trọng và có mái tóc vàng như lúa mạch chín. Có vẻ như anh ta đang ngủ - mắt nhắm, nhưng thỉnh thoảng anh ta lại gõ gõ mấy ngón tay phải lên đầu gối, còn tay trái thì đánh nhịp lên đùi. Từ khi tàu chạy, cả ba chỉ trao đổi vài lời lấy lệ bằng tiếng Ý, và cha Andrei nhận thấy anh ta có giọng ngoại quốc rất nặng, nhưng không xác định được là người nước nào. Đông Âu chăng? Mặt anh ta trông còn trẻ, mặc dù có một vết sẹo chạy dài từ tai trái rồi lẫn vào mái tóc vàng.
Thói quen quan sát đến từng chi tiết nhỏ nhất này hẳn là kết quả của cả một cuộc đời cúi mình trên những trang bản thảo cũ kỹ, mờ mịt nhất của ông.
Ông tựa đầu vào cửa kính, lơ đãng nhìn ra con đường chạy dọc theo đường sắt.
Lẽ ra ông đã phải gửi bản dịch và báo cáo phân tích bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ của Nag Hamadi về Roma từ cách đây hai tháng. Bản dịch thì ông đã hoàn thành lâu rồi. Nhưng còn báo cáo phân tích phải gửi kèm! Ông vẫn không thể viết được. Không thể nói hết mọi chuyện, lại càng không thể viết ra được.
Quá nguy hiểm.
Và thế là họ đã gọi cho ông. Trong văn phòng của Cơ quan truyền bá đức tin Thiên Chúa giáo – trước đây là Tòa án dị giáo – ông không thể thoát ra khỏi mớ câu hỏi mà những người tiếp chuyện ông đặt cho. Lẽ ra ông không nên nói với họ những giả thiết của mình, mà nên che đậy bằng những vấn đề thuần túy thuộc về kỹ thuật dịch. Tuy nhiên, Hồng y Giáo chủ, và nhất là viên thư lại 2 đáng gờm của ngài, đã không ngừng tấn công ông, buộc ông phải nói ra nhiều hơn những điều ông muốn nói. Sau đó họ còn hỏi han ông về phiến đá Germigny: mặt họ lại càng sa sầm xuống.
Cuối cùng, ông đã đến kho của Thư viện Vatican. Nơi đây, quá khứ đau thương của gia đình lại khiến ông phải đau đớn – có lẽ rốt cuộc đó chính là cái giá phải trả để được tận mắt nhìn thấy bằng chứng cụ thể của điều mà ông vẫn nghi ngờ bấy lâu này. Thế là ông phải vội vàng rời khỏi San Girolamo, bắt chuyến tàu trở về tu viện: ông đang trong vòng nguy hiểm. Ông muốn được yên ổn, chỉ cần được yên ổn thôi. Chỗ của ông không phải là ở giữa những mưu đồ này, Roma không phải là nhà của ông. Nhưng liệu ông có nơi nào để coi là nhà nữa không? Khi vào sống trong tu viện, ông đã phải thay đổi tổ quốc lần thứ hai, và nỗi cô độc đã vây hãm ông.
Bây giờ, bài toán đã được giải. Khi trở về, ông sẽ nói gì với cha Nil đây? Cha Nil là người rất kín đáo, và ông ấy cũng đã một mình đi được một phần đường… Ông sẽ đưa ông ấy vào cuộc. Điều mà ông khám phá ra sau cả một đời tìm kiếm, hẳn cha Nil cũng sẽ tự tìm ra được.
Và nếu như có chuyện gì xảy ra với ông… Cha Nil sẽ xứng đáng là người tiếp tục con đường.
Cha Andrei mở túi và lục tìm thứ gì đó trước ánh mắt thản nhiên của người hành khách ngồi đối diện. Dù sao thì ba người trong một khoang dành cho sáu hành khách cũng là điều dễ chịu. Ông có thể cởi bỏ chiếc áo vest của tu sĩ còn quá mới, đặt lên chiếc ghế trống bên phải để khỏi bị nhàu. Cuối cùng thì ông cũng tìm thấy thứ đang cần: một cái bút chì và một mảnh giấy vuông. Đặt nó trong lòng bàn tay, ông viết vội lên đó vài chữ rồi vô thức nắm chặt các ngón tay lại, ngả đầu ra sau.
Tiếng ồn của đoàn tàu và âm thanh dội lại từ rằng cây bên đường khiến ông thấy đờ đẫn. Ông có cảm giác mình sắp ngủ thiếp đi…
Mọi việc diễn ra quá nhanh. Người khách ngồi đối diện lặng lẽ đặt tờ báo xuống và đứng dậy. Cùng lúc đó, trong góc phía hành lang, gương mặt người khách có mái tóc vàng bỗng đanh lại. Anh ta đứng lên và tiến lại phía ông như muốn lấy thứ gì đó trong cái túi lưới phía trên đầu ông. Cha Andrei ngước mắt lên theo phản xạ: chiếc túi rỗng không.
Ông không có thời gian để suy nghĩ: mái tóc vàng hoe của người khách đã chúi về phía ông, và ông thấy cánh tay người đàn ông đó vươn về phía chiếc áo mà ông đặt trên ghế bên cạnh.
Đột nhiên, mọi thứ tối sầm lại: ai đó đã trùm chiếc áo lên đầu ông. Ông cảm thấy hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp ôm ngang lưng ông, thít chặt cái áo vào người ông, và nhấc ông lên khỏi mặt đất. Tiếng kêu kinh hoàng của ông bị lớp vải làm cho tắc nghẹn. Thoắt cái, ông đã cảm thấy mình đang ở phương nằm ngang với sàn tàu, nghe thấy tiếng rít của cánh cửa sổ đang hạ xuống, rồi hông ông bị ép sát vào chỗ tì tay bằng kim loại ở cửa sổ. Ông cố giãy giụa, nhưng toàn bộ thân trên của ông đã bị đẩy ra ngoài cửa sổ tàu cho gió quất, còn mặt ông vẫn bị thít chặt trong chiếc áo bởi một bàn tay cứng như thép.
Ông sửng sốt: "Chúng là ai? Lẽ ra sau ngần ấy chuyện xảy đến trong suốt hai nghìn năm qua, mình phải lường trước được chuyện này. Nhưng tại sao lại là lúc này? Tại sao lại ở đây?"
Tay trái của ông, bị ép chặt giữa chỗ tì tay và bụng ông, vẫn nắm chặt mẩu giấy hình vuông.
Ông cảm thấy cả người mình đang bị đẩy ra ngoài.
2
Đức ông Alessandro Calfo cảm thấy hết sức hài lòng. Trước khi rời khỏi căn phòng lớn gần Tòa Thánh Vatican, nhóm Mười một đã trao toàn quyền hành động cho ông: không thể để xảy ra bất kỳ rủi ro nào. Từ bốn thế kỷ nay, thành viên của nhóm Mười một là những người duy nhất bảo vệ kho báu quý giá nhất của Giáo hội Công giáo, tông truyền và Roma. Những kẻ tiếp cận kho báu này quá mức phải bị vô hiệu hóa.
Ông đã hết sức tránh không nói hết mọi việc với Hồng y Giáo chủ. Liệu có thể giữ mãi bí mật này không? Nhưng nếu lộ ra thì bí mật này sẽ là kết thúc của Giáo hội và toàn bộ nền Cơ Đốc giáo trên trái đất này. Đó sẽ là một cú đánh kinh hoàng đối với Phương Tây, vốn đã rất mệt mỏi khi phải chống đỡ sự tấn công của đạo Hồi. Trách nhiệm lớn lao này đè nặng lên vai mười hai con người: Hội Thánh Pie V đã được lập ra chỉ nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ bí mật này, và Calfo là Hội trưởng.
Ông tự cho phép mình khẳng định với Hồng y Giáo chủ là chỉ còn tồn tại một số dấu hiệu rất tản mát, và trên thế giới chỉ một vài nhân vật uyên bác là có khả năng hiểu và giải nghĩa các dấu hiệu này. Nhưng ông đã giấu đi điều cơ bản nhất: nếu các dấu hiệu này được chắp nối lại với nhau và phổ biến rộng rãi cho công chúng, thì có thể sẽ dẫn họ đến chỗ tìm ra bằng chứng xác thực, không thể chối cãi được. Chính vì thế, phải luôn đảm bảo rằng những dấu vết còn tồn tại luôn trong tình trạng phân tán. Bất kỳ kẻ nào có đủ ác tâm – hoặc chỉ là đủ sáng suốt – để tập hợp chúng lại với nhau thì sẽ có khả năng phát hiện ra sự thật.
Ông đứng dậy, đi vòng quanh bàn, rồi đứng chôn chân trước thánh giá trên đó Chúa đang bị đóng đinh câu rút, mình đầy máu.
"Thưa Thầy! Mười hai tông đồ luôn bảo vệ Người!"
Một cách máy móc, ông đưa tay xoay xoay chiếc nhẫn đang đeo ở ngón đeo nhẫn bên tay phải. Trên đó có gắn một viên ngọc thạch anh màu xanh đậm điểm những đốm đỏ, viên ngọc to một cách bất thường – ngay cả ở Roma, nơi mà giáo sĩ cấp cao ưa chuộng những dấu hiệu cho phép họ phô trương đẳng cấp của mình. Vật sang trọng này luôn nhắc ông nhớ đến bản chất đích thực của sứ mệnh ông đang thực hiện.
Bất kỳ kẻ nào biết được bí mật cũng sẽ bị ông thủ tiêu, và biến mất khỏi thế gian này!
3
Đoàn tàu trông như một con rắn phát sáng đang lao hết tốc độ trong vùng bình nguyên Sologne. Thân người vẫn bị gập làm đôi, nửa trên bị gió quất, cha Andrei oằn người chống cự lại hai cánh tay cứng như thép đang cố đẩy ông xuống vực thẳm. Rồi đột nhiên, ông thả lỏng người.
"Chúa ơi, con đã kiếm tìm Người từ khi mới chào đời, giờ là lúc kết thúc rồi."
Hây! Người hành khách béo lùn lăng mạnh cha Andrei vào khoảng không ngoài cửa sổ toa tàu, trong khi đó, bạn đồng hành của hắn vẫn bất động như đã hóa đá phía sau, chăm chú quan sát cảnh tượng xảy ra.
Cả thân người cha Andrei quay tròn như một chiếc lá rồi rơi xuống, nằm bẹp trên nền đường đá.
Đoàn tàu Roma Express hẳn là đang cố gắng bù đắp lại thời gian chậm trễ: chỉ chưa đầy một phút sau, trên lề đường ray chỉ còn lại một hình người chỏng chơ trong khí lạnh trời đêm. Chiếc áo vest đã bay ra xa. Kỳ lạ là khuỷu tay trái của cha Andrei vẫn mắc vào giữa hai thanh tà vẹt, bàn tay ông vẫn nắm chặt mẩu giấy giờ giơ thẳng lên bầu trời xám đen câm lặng, nơi những đám mây đang nặng nề trôi về phương Đông.
Một lát sau, một con hươu cái từ khu rừng gần đó chạy ra và tò mò tiến lại hít hít trên cái vật thể hình thù kỳ dị có hơi hướm con người kia. Nó nhận ra cái mùi khó chịu mà con người thải ra khi họ sợ hãi quá mức. Nó ngửi rất lâu bàn tay nắm chặt của cha Andrei đang chỉ lên trời một cách kỳ cục.
Đột nhiên nó ngẩng đầu lên, rồi nhảy sang một bên và nhanh chóng núp vào sau những bụi cây. Một chiếc ô tô đã rọi đèn chiếu vào nó, rồi đột ngột phanh kít lại trên con đường phía dưới đường tàu. Hai người đàn ông bước ra, trèo lên bờ dốc đường ray và cúi xuống xem xét cái xác đã bị biến dạng. Con hươu đứng im quan sát: hai người đàn ông lại đi xuống đường, và đứng bên ngoài xe tranh luận sôi nổi.
Khi nhìn thấy ánh đèn xe cảnh sát lao đến, con hươu lại nhảy lên lần nữa rồi bỏ chạy vào khu rừng tối đen và tĩnh lặng.
4
Kinh Phúc âm theo Marc và Jean
Ông vừa nhăn mặt vừa đưa tay kéo lại chiếc gối đã bị trượt xuống dưới hông. Chỉ người giàu mới có thói quen ăn uống theo kiểu của người La Mã, nửa nằm nửa ngồi trên đi văng thế này. Những người Do Thái nghèo khổ như nhóm của ông thì ngồi luôn trên mặt đất mà ăn. Chính ông là người muốn tổ chức bữa ăn tối này một cách trang trọng. Vị khách danh dự ăn uống rất thoải mái, nhưng Mười hai người còn lại, những người cũng đang nửa nằm nửa ngồi vòng quanh chiếc bàn hình chữ U thì có vẻ hơi lạc lõng trong căn phòng này.
Tối thứ Năm, ngày mồng 6 tháng Tư năm 30, con trai của Joseph, người được tất cả cư dân ở Palestine gọi là Jesus xứ Nazareth, đang chuẩn bị ăn bữa tối cuối cùng của mình cùng với mười hai tông đồ.
Tách ra khỏi các môn đồ khác, mười hai tông đồ này đã tạo thành một tổ chức bảo vệ thân cận cho Jesus, tổ chức này chỉ giới hạn trong Mười hai người họ mà thôi: con số Mười hai mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt, nhắc người ta nhớ đến mười hai bộ tộc của đất nước Isarel. Sắp tới đây, khi họ tấn công Đền thờ, nhân dân sẽ hiểu ra. Mười hai người sẽ cùng lãnh đạo Israel, nhân danh Chúa trời là người đã ban cho Jacob mười hai người con. Về vấn đề này, tất cả mười hai tông đồ đều đã thống nhất. Chỉ có điều, bên phải của Jesus – khi Người lên ngôi – sẽ chỉ có một vị trí duy nhất, và tất cả họ đã ngầm đối địch nhau một cách kịch liệt để biết xem ai trong số họ sẽ là người đứng đầu trong số mười hai tông đồ.
Điều đó sẽ trở thành hiện thực sau cuộc nổi dậy mà họ sắp tiến hành nhân bối cảnh lộn xộn sau Lễ Vượt qua. Chỉ còn hai ngày nữa thôi.
Khi rời bỏ miền đất Galilee quê hương để đến thủ đô, họ đã gặp lại người đang là chủ nhà hôm nay, một người xứ Judee sở hữu một ngôi nhà đẹp trong khu phía Tây Jerusalem. Ông giàu có, được học hành, thậm chí có thể gọi là có tri thức. Trong khi tầm hiểu biết của Mười hai tông đồ không vượt ra khỏi đầu kia của lưới đánh cá.
Trong khi người hầu mang thức ăn ra, chủ nhà im lặng. Ở giữa mười hai tông đồ cuồng tín này, Jesus đang ở trong tình cảnh hết sức nguy khốn: vụ tấn công Đền thờ sắp tới của họ chắc chắn sẽ thất bại... Cần phải hành động để bảo vệ Người khỏi tham vọng của họ, mặc dù để làm được điều đó, ông đã phải tạm thời liên minh với Peter.
Ông đã gặp Jesus hai năm trước, bên bờ sông Jordan. Từ một người Esseni, ông đã trở thành người Nazareth – một trong những giáo phái đấu tranh vì phong trào Baptist của người Do Thái. Bản thân Jesus cũng tham gia giáo phái này, mặc dù Người chẳng bao giờ nói về điều đó. Giữa hai người họ đã nhanh chóng hình thành nên một mối đồng cảm dựa trên sự thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau. Ông khẳng định rằng mình là người duy nhất hiểu rõ Jesus là ai. Không phải là hậu duệ của Chúa như một số người đã ca tụng sau khi khỏi bệnh một cách thần kỳ nhờ bàn tay chữa trị của Người, cũng không phải Chúa Cứu thế như Peter mong muốn, lại càng không phải vua David mới như những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt ước ao.
Jesus là một người hoàn toàn khác, người mà thậm chí Mười hai tông đồ vốn đang bị tham vọng quyền lực làm mờ mắt cũng không thể nhận ra được.
Ông tự coi mình cao hơn họ một bậc, và ông nói với bất kỳ ai muốn nghe rằng ông chính là môn đồ cưng của Thầy. Trong khi đó, từ nhiều tháng nay, Jesus ngày càng cảm thấy khó có thể chịu đựng nổi đội quân gốc Galilee dốt nát với bàn tay hám quyền lực của mình.
Mười hai tông đồ giận dữ điên cuồng khi chứng kiến có thêm một kẻ ngấp nghé quyền lực bỗng nhiên lọt vào được nơi mà họ chẳng bao giờ vào được: đó là nội bộ của những người Nazareth.
Kẻ thù đang ở ngay trong nhóm của họ, đó chính là kẻ tự xưng là môn đồ cưng này. Hắn chưa bao giờ rời khỏi vùng đất Judee nơi hắn sinh ra, mà lại dám nói rằng hiểu rõ Jesus hơn tất cả bọn họ, những người đã luôn theo sát chân Người ngay từ vùng đất Galilee.
Hắn là một tên lừa bịp.
Ông nằm dài bên phải Jesus – vị trí của chủ nhà. Peter không rời mắt khỏi ông: liệu ông ta có nói ra cái bí mật kinh khủng đã liên kết họ lại từ ít lâu nay, và khiến cho Jesus hiểu rằng Người đã bị phản bội? Phải chăng ông ta đang hối tiếc vì đã dẫn Judas đến gặp Caiphe, để lập ra cái bẫy sẽ sập vào chính Thầy, ngay tối nay?
Đột nhiên, Jesus đưa tay nhón một miếng thức ăn, Người để tay bên trên đĩa một lát cho nước xốt nhỏ bớt xuống: Người sẽ tặng nó cho một trong số các khách ăn, đó là một cử chỉ thể hiện tình bằng hữu. Tất cả đột nhiên im lặng. Peter tái mặt, quai hàm cứng lại. Ông ta nghĩ: "Nếu Người tặng miếng thức ăn này cho kẻ bịp bợm kia, mọi việc sẽ hỏng hết, vì như thế có nghĩa là hắn ta vừa phản bội thỏa thuận với ta. Như vậy, ta phải giết hắn, sau đó ta sẽ trốn…"
Bằng một cử chỉ hào hiệp, Jesus đưa miếng thức ăn cho Judas, người đang ngồi bất động như hóa đá ở một đầu bàn.
- Nào, bạn của tôi… Chúng ta cùng ăn nào!
Không nói một lời, Judas cúi người về phía trước, đón lấy miếng thức ăn và đưa lên môi. Một chút nước xốt chảy trên chòm râu ngắn của ông.
Cuộc trò chuyện lại tiếp tục, trong khi Judas nhai chậm chạp, mắt dán chặt vào mắt người thầy của mình. Sau đó, Judas đứng lên và tiến về phía cửa. Khi ông ta đi qua chỗ họ, người chủ nhà thấy Jesus hơi quay đầu lại. Và ông cũng là người duy nhất nghe thấy Jesus nói:
- Bạn của tôi… Cần làm gì thì làm nhanh lên!
Judas chậm rãi mở cửa. Bên ngoài, vầng trăng đêm Lễ Vượt qua còn chưa lên. Màn đêm đen đặc.
Quanh Jesus chỉ còn mười một người.
Chính xác là mười một tông đồ và môn đồ cưng của Jesus.
5
Tiếng chuông cửa vang lên lần thứ hai. Trong ánh bình minh lờ mờ, tu viện Saint-Martin là nơi duy nhất trong làng có ánh sáng đèn. Trong những đêm mùa đông như đêm nay, tiếng gió rít dọc bờ sông hoang vắng khiến vùng Val-de-Loire mang chút dáng vẻ của hoang mạc Siberia.
Tiếng chuông vẫn còn vang dội trong mái vòm của tu viện khi cha Nil bước vào, sau khi đã cởi bộ lễ phục lụng thụng ra: ông vừa kết thúc buổi lễ sớm. Mọi người dân quanh đây đều biết rằng các thầy tu luôn giữ im lặng tuyệt đối cho đến lễ cầu kinh nửa buổi, nên không bao giờ đến bấm chuông tu viện trước tám giờ.
Tiếng chuông lại khẩn thiết vang lên lần thứ ba.
"Thầy dòng gác cửa hẳn sẽ không ra mở vì đây là quy định. Thôi được, mình ra xem sao."
Từ khi làm sáng rõ được những chi tiết vẫn còn bị che giấu liên quan đến cái chết của Jesus, cha Nil càng ngày càng cảm thấy khó chịu. Ông không thích sự vắng mặt hiếm hoi của cha Andrei: viên thủ thư này đã trở thành người tin cẩn duy nhất của ông sau Chúa. Các tu sĩ sống cùng nhưng không giao tiếp với nhau, trong khi đó cha Nil lại cần phải nói với ai đó về những nghiên cứu của mình. Đáng lẽ phải quay vào phòng riêng, nơi công việc tìm hiểu về các biến cố xảy ra khi Jesus bị bắt đang chờ đợi, thì ông lại đi ra phía phòng của người gác cửa và mở cánh cửa nặng nề ngăn cách tu viện với toàn bộ thế giới bên ngoài.
Trong ánh sáng đèn pha, một viên cảnh sát đứng nghiêm chào ông.
- Thưa cha, có phải đây là nơi cư trú của người này không?
Anh ta đưa ra một cái chứng minh thư. Không nói một lời, cha Nil cầm lấy mảnh giấy ép plastic và đưa lên đọc: Andrei Sokolwski. Tuổi: 67. Nơi ở: tu viện Saint-Martin…
Cha Andrei!
Máu trong người ông bỗng chảy dồn dập:
- Vâng…tất nhiên, ông ấy là thủ thư của tu viện. Có chuyện gì…
Viên cảnh sát đã quen với những công việc khó chịu này.
- Tối qua, có hai công nhân nông nghiệp đến báo với chúng tôi rằng trên đường về nhà, họ đã phát hiện thi thể của ông ấy trên mép đường ray đoạn giữa Lamotte-Beuvron và La Ferté-Saint-Aubin. Ông ấy đã chết. Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng phải có một người trong số các cha đến nhận diện thi thể… Để điều tra ấy mà, thưa cha.
- Cha Andrei chết rồi ư?
Cha Nil cảm thấy đất dưới chân như đang chao đảo.
- Nhưng… đó phải là đức Cha tu viện trưởng…
Phía sau họ, có tiếng bước chân khẽ khàng đặc trưng của một người đi giày tu sĩ. Chính là đức Cha tu viện trưởng. Cha bị những tiếng chuông cửa đánh động, hay bị thúc đẩy bởi một linh cảm bí ẩn nào đó?
Viên cảnh sát cúi chào. Trong đội cảnh sát Orléans, mọi người đều biết rằng ở tu viện, người mang nhẫn và đeo thánh giá trước ngực có vị thế Giám mục. Nhà nước Cộng hòa tôn trọng những điều này.
- Thưa đức Cha, một trong các tu sĩ của Ngài, cha Andrei, đã được phát hiện trên mép đường ray tuyến Roma Express, cách đây không xa. Ông ấy không có cơ may sống sót nào sau cú ngã: đốt sống cổ bị gãy, hẳn là ông ấy đã chết ngay lập tức. Chúng tôi sẽ chỉ mang xác ông ấy đến Paris để khám nghiệm sau khi đã làm xong thủ tục nhận diện. Không biết cha có thể lên xe của tôi, và hoàn thành thủ tục… nặng nề, nhưng cần thiết này không?
Từ khi được bầu lên vị trí danh giá này, đức Cha tu viện trưởng tu viện Saint-Martin chưa bao giờ để lộ bất kỳ biểu hiện tình cảm nào. Đương nhiên là cha được các tu sĩ bầu lên theo đúng Quy định của tu viện. Tuy nhiên, ngược với quy định này, đã có rất nhiều cuộc điện thoại trao đổi giữa Val-de-Loire và Roma. Sau đó, ngay trước kỳ bầu tu viện trưởng, lại có một giáo sĩ cấp bậc khá cao về nghỉ dưỡng hàng năm tại tu viện, và kín đáo thuyết phục những người ương ngạnh rằng Dom Gérard chính là người cần phải lựa chọn.
Chỉ có thể trao quyền điều hành tu viện, học viện rất đặc biệt ở đây cũng như ba thư viện trực thuộc vào tay một người vững vàng. Không một thớ thịt trên mặt đức Cha tu viện trưởng để lộ bất kỳ cảm xúc nào trước mặt viên cảnh sát, người vẫn đang giữ tư thế đứng nghiêm.
- Cha Andrei! Lạy Chúa tôi, thật là một thảm họa! Chúng tôi đang chờ ông ấy từ Roma quay về đây sáng nay. Làm sao lại có thể xảy ra tai nạn như vậy được?
-Tai nạn? Vẫn còn quá sớm để dùng từ này, thưa đức Cha. Một vài chi tiết có được khiến chúng tôi thiên về một giả thiết khác. Toàn bộ các toa tàu trên chuyến Roma Express đều làm theo kiểu cũ, tất cả cửa ra vào đều được khóa chặt ngay khi tàu khởi hành, và vẫn khóa như thế trong suốt chuyến đi. Đạo hữu của các cha chỉ có thể ra ngoài qua đường cửa sổ từ chính khoang của ông ấy. Khi đi kiểm tra lần cuối trước khi tàu đến ga cuối cùng, nhân viên soát vé nhận thấy khoang đó trống không: không chỉ có cha Andrei vắng mặt, mặc dù va li của ông ấy vẫn còn ở đó, mà cả hai hành khách trong khoang cũng đã biến mất không để lại hành lý gì. Ba chỗ ngồi khác trong khoang đều đã được đặt trước, nhưng không có ai ngồi ngay từ khi tàu rời Roma. Thế nghĩa là không có một nhân chứng nào. Việc điều tra đã bắt đầu được tiến hành, nhưng giả thiết ban đầu của chúng tôi loại trừ bất cứ khả năng tai nạn nào: vụ này giống như một vụ giết người thì đúng hơn. Chắc chắn cha Andrei đã bị hai hành khách đi cùng ném ra ngoài cửa sổ khi tàu đang chạy nhanh. Cha có thể đi cùng tôi để làm thủ tục nhận diện được không?
Cha Nil đã kín đáo lùi ra phía sau một chút, nhưng ông vẫn có cảm giác một làn sóng cảm xúc đang trào lên và sắp sửa tràn qua bức màn bình thản che chắn trên khuôn mặt cấp trên của ông.
Đức Cha tu viện trưởng lặp lại ngay lời của viên cảnh sát:
- Đi cùng ông? Bây giờ ư? Không thể được, vì sáng nay tôi phải tiếp các Giám mục của miền Trung, tôi không thể vắng mặt được.
Ông quay sang phía cha Nil, thở dài.
- Cha Nil, liệu cha có thể đi cùng ông đây để hoàn tất thủ tục nặng nề này không?
Cha Nil cúi đầu vâng lệnh. Công việc nghiên cứu về những âm mưu đặt ra xung quanh Jesus đang chờ ông. Hôm nay, chính cha Andrei vừa bị đóng đinh câu rút.
- Tất nhiên, thưa Cha: tôi đi lấy áo khoác của chúng ta, vì trời có vẻ lạnh – thưa ông, xin ông chờ cho một lát, tôi sẽ quay ra ngay…
Tu viện vốn nghèo khó nên các tu sĩ bị cấm phát ngôn những từ ngữ thể hiện sự sở hữu cá nhân đối với bất kỳ vật gì, dù là nhỏ nhất: áo khoác của chúng ta chỉ do một mình cha Nil sử dụng từ nhiều năm nay, nhưng điều đó không có nghĩa là ông có thể nói áo khoác của tôi.
Đức Cha tu viện trưởng dẫn viên cảnh sát vào trong căn phòng vắng vẻ của người gác cổng, và thân mật nắm lấy cánh tay anh ta.
- Tôi không vội phán đoán kết quả điều tra cuối cùng. Nhưng một vụ giết người thì hoàn toàn không thể xảy ra được! Ông cứ tưởng tượng cảnh báo chí, truyền hình, phóng viên khi biết thông tin này. Dù thế nào, Giáo hội Công giáo cũng sẽ bị bôi nhọ, và nhà nước Cộng hòa cũng rất khó xử. Tôi chắc đó là một vụ tự tử. Cha Andrei khốn khổ…ông hiểu không?
Viên cảnh sát rút cánh tay ra khỏi tay ông: anh quá hiểu điều đó, nhưng điều tra là điều tra, không thể dễ dàng chui ra ngoài cửa sổ của một đoàn tàu đang chạy hết tốc độ. Và anh cũng không thích bị một người ngoại đạo chỉ dẫn cho anh biết điều anh phải làm – dù người đó có đeo thánh giá và nhẫn Giám mục đi chăng nữa.
- Thưa Cha, việc điều tra vẫn đang được tiến hành. Cha Andrei không thể tự mình rơi ra ngoài cửa sổ tàu được: Paris sẽ xác định vấn đề này. Nhưng ngay lúc này, tôi xin nói với cha một điều, rằng tất cả mọi dấu vết đều cho thấy đây là một vụ giết người.
- Xem nào, một vụ tự tử…
- Một tu sĩ, lại đã ngần ấy tuổi đời, mà tự tử ư? Rất ít khả năng.
Anh đưa tay xoa cằm: dù sao, đức Cha tu viện trưởng cũng có lý, vụ việc này rất có thể làm nảy sinh những rắc rối lộn xộn, và rắc rối có thể lên đến những cấp cao…
- Thưa Cha, hãy cho tôi biết cha Andrei có biểu hiện… rối loạn tâm thần nào không?
Cha tu viện trưởng có vẻ nhẹ nhõm hẳn: hình như viên cảnh sát đã hiểu ra vấn đề.
- Đương nhiên là có! Ông ấy đang phải điều trị, tôi khẳng định với ông rằng ông ấy đang trong tình trạng tổn thương rất nặng nề về mặt tinh thần.
Thật ra, tất cả các đạo hữu của cha Andrei đều biết rằng cha có thần kinh và tâm lý hết sức cân bằng, và suốt bốn mươi năm sống trong tu viện, ông chưa lần nào phải đến bệnh xá. Ông là một nhà nghiên cứu chuyên làm việc với các bản thảo viết tay, một học giả mà nhịp tim chưa bao giờ vượt quá sáu mươi lần một phút. Cha tu viện trưởng mỉm cười với viên cảnh sát.
- Tự tử là tội lỗi đáng sợ đối với một nhà tu hành, nhưng bất kỳ tội lỗi nào cũng đáng được tha thứ. Trong khi một vụ giết người…
Ánh nhợt nhạt của buổi bình minh chiếu lên cảnh tượng. Người ta đã kéo cái xác ra xa đường ray để tàu có thể chạy bình thường, nhưng do đã cứng đờ lại nên nó vẫn giữ nguyên tư thế: cẳng tay trái của cha Andrei vẫn chỉ lên trời, bàn tay nắm chặt. Trên đường đi, cha Nil đã có thời gian để chuẩn bị tinh thần đối mặt với cú sốc. Tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy hết sức khó khăn khi phải đến gần, quỳ xuống và kéo tấm vải che mặt ra khỏi cái đầu người nát bấy.
- Đúng rồi, ông thì thầm trong hơi thở. Đúng là cha Andrei. Ông bạn tội nghiệp của tôi…
Ông im lặng một lúc, và viên cảnh sát tôn trọng sự im lặng của ông. Rồi, anh ta chạm vào vai cha Nil:
- Cha hãy ở lại với ông ấy, tôi sẽ lập biên bản nhận dạng trong xe, cha chỉ cần ký tên là xong, sau đó tôi sẽ đưa cha về tu viện ngay.
Cha Nil đưa tay lau dòng nước mắt đang lăn dài trên má. Rồi ông nhận thấy bàn tay nắm chặt của thi thể, như đang nguyền rủa bầu trời trong một cử chỉ tuyệt vọng cuối cùng. Khó khăn lắm ông mới kéo được các ngón tay đã lạnh giá của người chết ra: trong lòng bàn tay, ông nhìn thấy có một mảnh giấy hình vuông nhàu nát.
Cha Nil quay nhìn về phía viên cảnh sát: anh ta đang cúi lom khom lên mui xe. Ông liền gỡ mảnh giấy ra khỏi bàn tay ông bạn quá cố, và nhìn thấy trên đó vài dòng chữ viết vội bằng bút chì.
Không ai để ý đến ông: ông nhanh nhẹn đút mảnh giấy vào túi áo khoác.
6
Kinh Phúc âm theo Matthieu và Jean
Vài ngày trước bữa tiệc cuối cùng, Peter chờ ông bên ngoài tường thành. Người đàn ông vùng Judee đi qua cửa thành, những tên lính canh vội vàng chào ông, vì biết ông chính là người sở hữu một trong những tòa nhà đẹp nhất vùng. Đi vài bước, ông nhận thấy dáng dấp ngư phủ của Peter hiện ra trong bóng tối.
- Shalom!
- Mà shalom lek’ha.
Ông không chìa tay cho người đàn ông đến từ vùng Galilee này bắt. Nỗi lo sợ gặm nhấm tâm can ông suốt cả tuần nay: khi ông gặp họ, trên ngọn đồi phía bên ngoài thành phố, nơi họ qua đêm trong bóng tối đầy chở che của vườn ô liu, Mười hai người này chỉ nói đến vụ tấn công Đền thờ sắp tới. Chưa bao giờ có bối cảnh thuận lợi đến vậy: hàng nghìn người hành hương đang cắm trại khắp vùng ven thành phố. Dưới sự kích động của các nhà Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, đám đông này sẵn sàng làm bất kỳ chuyện gì. Cần sử dụng uy tín của Jesus trong nhân dân như một ngòi nổ.
Ngay lúc này.
Họ sẽ thất bại, điều đó là đương nhiên. Và Jesus sẽ bị giết chết một cách ngớ ngẩn trong đám Do Thái hỗn loạn. Thầy xứng đáng được hơn thế, xứng đáng hơn bất cứ ai, và cần được bảo vệ khỏi đám môn đồ cuồng tín của Thầy. Trong đầu ông đã nung nấu một kế hoạch, chỉ còn phải thuyết phục Peter nữa thôi.
- Thầy hỏi không biết có thể đến nhà anh ăn tối trong căn phòng lớn được không. Năm nay, Thầy không thể tổ chức mừng Lễ Vượt qua được, vì chúng tôi bị giám sát quá chặt chẽ. Thế nên chỉ cần một bữa tối trang trọng một chút, theo đúng nghi lễ của người Esseni là được.
- Các anh điên hết rồi! Đến ăn tối tại nhà tôi, cách lâu đài của Giáo chủ chưa đầy hai trăm mét, trong một khu vực mà chất giọng miền Galilee của các anh sẽ khiến các anh bị bắt ngay lập tức!
Anh chàng ngư phủ nhếch một nụ cười tinh quái:
- Đúng thế, không đâu có thể an toàn cho chúng tôi hơn nhà anh. Không bao giờ bọn lính lại có ý nghĩ truy tìm chúng tôi trong chính khu vực được bảo vệ này, ngay trong nhà một người bạn của Giáo chủ lại càng không!
- Ồ, một người bạn ư…, anh hơi quá lời rồi. Chỉ là quan hệ láng giềng thôi, không thể có tình cảm bạn bè nào giữa một người gốc Esseni như tôi với nhân vật cấp cao nhất trong giới tăng lữ được. Các anh định khi nào vậy?
- Tối thứ Năm, sau khi mặt trời lặn.
Đúng là một ý tưởng điên rồ, nhưng cũng hết sức khôn khéo: một khi đã trốn được trong nhà ông thì những người vùng Galilee này sẽ không bị phát hiện.
- Được. Hãy nói với Thầy rằng tôi rất vinh dự được đón tiếp Người trong nhà mình, và tất cả sẽ được chuẩn bị sẵn sàng cho bữa tiệc trang trọng đó. Một người của tôi sẽ đưa các anh lọt qua các đội tuần tra: dấu hiệu nhận diện là anh ta sẽ mang theo một hũ nước để các anh thực hiện nghi lễ rửa tay trước bữa ăn. Bây giờ, anh đi theo tôi, chúng ta cần nói chuyện một chút.
Peter cùng ông leo lên một đống gạch. Một vật bằng kim loại ánh lên dưới vạt áo khoác: chính là sica, thanh kiếm ngắn mà các thành viên của tổ chức người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt dùng để mổ bụng nạn nhân của họ. Vậy là ông ta sẽ không rời bỏ vũ khí của mình! Các môn đồ của Jesus đã sẵn sàng làm bất cứ việc gì…
Ông nói vắn tắt với Peter về kế hoạch của mình. Có nhất định phải hành động vào dịp lễ không? Đó là một ý tưởng tuyệt vời, điều khiển đám người hành hương sẽ là việc rất dễ dàng. Nhưng Jesus chỉ là một nhà thuyết giáo luôn kêu gọi hòa bình và tha thứ. Người sẽ phản ứng thế nào trước ngọn lửa hành động? Rất có thể Người sẽ bị thương, thậm chí tệ hơn là Người sẽ bị chết dưới lưỡi kiếm của một tên lính, và vụ tấn công của họ sẽ hoàn toàn thất bại.
Peter đột nhiên lắng nghe với vẻ quan tâm.
- Thế có nghĩa là phải đề nghị Người quay về Galilee, nơi không có chút nguy hiểm nào ư? Mọi chuyện sẽ diễn ra rất nhanh, mà nơi đó thì cách đây đến bốn ngày đường…
- Ai nói là phải đưa Người ra khỏi Jerusalem? Ngược lại, cần để Người ở lại chính nơi diễn ra hành động, nhưng cũng là nơi mà không một mũi tên La Mã nào có thể chạm đến Người. Các anh sẽ ăn tối ngay cạnh lâu đài của Caiphe, vì các anh nghĩ không có nơi nào an toàn hơn để các anh ẩn nấp. Đó là một ý tưởng hay. Còn ý tưởng của tôi là thế này: ngay trước khi hành động, hãy để Jesus được an toàn ngay trong chính lâu đài đó. Hãy làm thế nào đó để Người bị bắt và giải đến lâu đài của Caiphe trước Lễ Vượt qua. Chúng sẽ giam Người dưới hầm ngầm, và như anh đã biết, trong suốt thời gian lễ hội chúng sẽ không mở bất cứ phiên tòa nào. Còn khi lễ hội kết thúc… cũng có nghĩa là quyền lực đã không còn trong tay chúng nữa! Các anh sẽ đến đón Người trong vinh quang, Người sẽ xuất hiện trên ban công của lâu đài, đám đông sẽ vui sướng hò reo vì cuối cùng cũng được giải thoát khỏi gông cùm của các giáo sĩ…
Peter hoảng hốt cắt ngang.
- Giao Thầy vào tay kẻ thù không đội trời chung của chúng tôi ư?
- Các anh cần làm mọi việc để Jesus được an toàn. Việc của các anh là hành động bạo lực, còn việc của Người tiếp theo đó là dẫn dắt quần chúng bằng lời nói, việc chỉ có mình Người làm được. Hãy để Người tránh xa những rắc rối lộn xộn của một vụ nổi dậy đầy bạo lực của các anh, rồi sau đó hãy rước Người trở lại!
"Và sau khi bọn họ thất bại – vì chắc chắn họ sẽ thất bại trong cuộc chiến với quân đội La Mã – ít nhất thì Jesus cũng sẽ còn sống. Đoạn tiếp theo sẽ không như bọn họ mong muốn. Israel cần một nhà tiên tri, chứ không cần một người cầm đầu băng đảng."
Hai người im lặng bước trên một vách đá trông xuống thung lũng Gehenna.
Đột nhiên, Peter ngẩng lên.
- Anh nói đúng. Thầy sẽ làm chúng tôi vướng chân, vì hẳn là Người không tán thành vụ tấn công của chúng tôi. Nhưng làm thế nào để Người bị bắt đúng vào thời điểm thuận lợi nhất? Vì chỉ nhanh hoặc chậm một giờ, mọi thứ có thể sẽ khác đi!
- Tôi đã nghĩ đến điều đó. Anh biết rằng Judas vô cùng tận tụy với Người. Anh cũng từng là một thành viên của tổ chức người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt như anh ta, hãy giải thích cho anh ta hiểu: cần dẫn lính gác Đền thờ đến vào thời điểm chính xác, vị trí chính xác để bắt được Thầy, khi Thầy đã bị tách ra khỏi đám đông lúc nào cũng bảo vệ Người. Ví dụ, ngay sau bữa tiệc tối tại nhà tôi, đêm thứ Năm rạng ngày thứ Sáu, trong vườn ô liu.
- Liệu Judas có đồng ý không? Mà anh ta làm thế nào để liên hệ được với các chức sắc Do Thái? Anh ta chỉ là một người gốc Galilee, làm sao mà vào trong lâu đài của Giáo chủ được? Làm sao mà thỏa thuận được với hắn, trong khi hắn chỉ muốn loại bỏ Thầy? Làm sao mà anh lại nghĩ rằng anh ta có qua lại với các thành viên tổ chức người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt? Tôi thì biết rõ họ đấy. Với họ, chỉ có thể thỏa thuận bằng cái này thôi!
Ông ta vỗ vỗ vào thanh sica đang đập đập vào đùi trái của mình.
- Nói với anh ta rằng đây là vì sự nghiệp chung, để bảo vệ Thầy. Anh sẽ tìm được cách nói thuyết phục nhất, anh ta sẽ phải nghe theo anh. Đích thân tôi sẽ dẫn anh ta vào trong lâu đài của Caiphe. Tôi có thể tự do ra vào lâu đài đó, và nếu Judas đi cùng tôi thì bọn chúng sẽ để anh ta qua. Caiphe sẽ mắc bẫy: các giáo sĩ vốn rất sợ Jesus mà.
- Được... nếu như anh nhận đưa anh ta đến gặp Caiphe, nếu anh cho rằng anh ta có thể giả vờ phản bội để bảo vệ Jesus... Việc này rất nguy hiểm, nhưng lúc này thì liệu có việc gì là không mạo hiểm không?
Khi đi qua cửa thành, người đàn ông vùng Judee thân mật đưa tay chào các lính canh. Vài ngày nữa, phần lớn trong số họ sẽ chết hoặc bị thương, nhưng người La Mã sẽ đàn áp được vụ nổi dậy này. Vùng đất Israel cũng sắp vĩnh viễn thoát khỏi băng nhóm Mười hai người.
Và nhiệm vụ của Jesus, nhiệm vụ thực sự của Người cuối cùng cũng có thể bắt đầu.
7
Cả sáng nay, từ khi viên cảnh sát đưa ông trở về tu viện, cha Nil ngồi lả trên ghế đẩu, tập tài liệu mà ông đang nghiên cứu về các tình tiết quanh cái chết của Jesus không hề được mở ra lần nào. Phòng ở của tu sĩ không có ghế tựa, nên ông không có chỗ nào để ngả người ra mà suy ngẫm. Tuy nhiên, bất kể tư thế ngồi gò bó ấy, tâm trí ông vẫn đang bay về với quá khứ. Cả tu viện tĩnh mịch như đang được bọc trong một lớp bông: tất cả các giờ học của tu viện đã bị hoãn lại cho đến khi lễ tang cha Andrei kết thúc. Còn một giờ nữa mới đến lễ mixa.
Andrei... Người duy nhất có thể chia sẻ với ông những tìm tòi, khám phá. Người duy nhất có thể hiểu, thậm chí đôi khi còn đoán trước được các kết luận của ông.
- Nil ạ, đừng bao giờ sợ hãi sự thật. Chính là để tìm kiếm sự thật, để biết sự thật mà cha vào tu viện này. Sự thật sẽ biến cha thành một kẻ cô đơn, thậm chí còn có thể khiến cha chuốc lấy thất bại. Đừng bao giờ quên rằng chính sự thật đã dẫn Jesus và rất nhiều người sau Người đến chỗ chết. Tôi đã tiếp cận được với sự thật qua những bản viết tay mà tôi giải mã từ bốn mươi năm nay. Nhưng vì rất ít người có thể theo được tôi trong chuyên môn này, và cũng vì tôi không bao giờ nói ra những kết luận của mình, nên người ta tin tưởng ở tôi. Còn cha, cha đã phát hiện ra... một số điều ngay trong kinh Phúc âm. Hãy cẩn thận, vì nếu như Giáo hội đã vùi lấp những điều này vào quên lãng từ rất lâu rồi, thì có nghĩa là công khai nói ra sẽ là một việc nguy hiểm.
- Kinh Phúc âm theo lời Thánh Jean có trong chương trình học tập của tu viện năm nay. Tôi không thể nào lẩn tránh một câu hỏi: ai là tác giả của kinh này? Vai trò của môn đồ cưng bí ẩn trong âm mưu thời đó, cũng như trong suốt thời kỳ quan trọng tiếp theo cái chết của Jesus là gì?
Là con trai của những người Nga di cư cải đạo sang Công giáo, khả năng thiên phú về ngôn ngữ đã khiến Andrei trở thành người phụ trách ba thư viện của tu viện, một chức vụ rất nhạy cảm mà chỉ những người có uy tín mới được giao phó. Khi mỉm cười, trông ông giống như một nhà truyền giáo già.
- Bạn của tôi... Từ khởi nguồn, câu hỏi này đã được né tránh. Và hẳn là cha cũng đã bắt đầu hiểu tại sao, đúng không? Vậy thì hãy cứ làm như những người đi trước: đừng nói hết tất cả những gì cha biết. Học trò của cha trong tu viện này sẽ không dung thứ cho điều đó đâu... và trong trường hợp này, thì tôi cho cho cha đấy!
Cha Andrei nói đúng. Từ ba mươi năm nay, Giáo hội Công giáo đang phải đương đầu với tình trạng khủng hoảng chưa từng có. Những người vô thần thường chạy theo các giáo phái mới hoặc chuyển sang theo đạo Phật, khiến cộng đồng Cơ Đốc giáo hết sức khó chịu. Không còn tìm đâu ra những giáo sư vững vàng để giảng dạy giáo lý thuần khiết trong những buổi thuyết giáo ngày càng vắng người tham dự.
Vì thế, Roma đã quyết định tập hợp những học viên ưu tú nhất còn lại vào một trường học, một kiểu trường dòng như thời Trung cổ. Khoảng hai chục học viên được giao phó cho tu viện này, và các tu sĩ uyên bác của tu viện chịu trách nhiệm giảng dạy. Các tu sĩ đã lựa chọn con đường tránh xa thế giới thối nát này sẽ trang bị cho các học viên trẻ tuổi của trường dòng chiếc áo giáp sự thật cần thiết để họ có thể tồn tại.
Cha Nil đảm nhận việc chú giải kinh Phúc âm. Ông không phải là một chuyên gia thực sự về các ngôn ngữ cổ, nên phối hợp làm việc cùng cha Andrei, người có thể đọc thông thạo tiếng Ai Cập cổ, tiếng Xiriat và rất nhiều tử ngữ khác.
Từ chỗ chỉ đơn thuần là làm việc cùng nhau, hai con người cô đơn đã trở thành bạn bè: tình yêu đối với các bản viết cổ xưa đã biến một điều hết sức khó khăn trong cuộc sống tu hành trở thành hiện thực.
Cha Nil vừa mất người bạn duy nhất này trong một bối cảnh thật thảm khốc. Cái chết đó khiến ông cảm thấy vô cùng đau buồn.
Cùng lúc đó, một bàn tay đầy căng thẳng đang bấm một số điện thoại quốc tế bắt đầu bằng mã 390, đường dây riêng (và vô cùng bảo mật) của Nhà nước Vatican. Trên ngón áp út bàn tay đó có đeo chiếc nhẫn trang trí bằng một viên ngọc mắt mèo đơn giản: tổng Giám mục Paris cảm thấy có trách nhiệm phải làm gương về tính khiêm tốn.
- Pronto?
Dưới mái vòm do Michel-Ange thiết kế, một bàn tay có những chiếc móng được cắt sửa kỹ lưỡng nhấc máy. Chiếc nhẫn giám mục được trang trí bằng một viên ngọc thạch anh màu xanh kỳ lạ: một hình thoi không đối xứng gắn trên xương nhẫn bằng bạc chạm trổ, tạo thành một cái nắp quan tài. Một thứ đồ trang sức rất có giá trị.
- Chào ngài, tôi là tổng Giám mục Paris... Thế sao, ngài đang định gọi cho tôi?... Vâng, một chuyện rất đáng tiếc, thực sự... nhưng... ngài đã biết rồi ạ?
"Sao lại thế được nhỉ? Tai nạn vừa xảy ra trong đêm qua mà."
- Giữ kín tuyệt đối à? Chắc là khó đấy ạ, vì việc điều tra được giao cho Ga Orfèvres, có vẻ là một vụ giết người... Hồng y Giáo chủ à? Đúng vậy, tôi hiểu... Tự tử, phải không ạ? Vâng... đúng là tôi thấy chuyện này thật tồi tệ, tự tử là một tội lỗi mà lòng nhân từ của Chúa vẫn không thể chấm dứt được. Ngài nói... hãy để Chúa quyết định việc này?
Tổng Giám mục đưa tai nghe ra xa, mỉm cười. Tại Vatican, người ta ra lệnh cho Chúa thật dễ dàng.
- Alô? Vâng, tôi đang nghe đây... Cần sử dụng các mối quan hệ của tôi à? Tất nhiên, chúng tôi có quan hệ rất tốt với bộ Nội vụ. Được... tôi sẽ chịu trách nhiệm về việc này. Ngài hãy nói để Hồng y Giáo chủ yên tâm, đó sẽ là một vụ tự tử, và mọi chuyện sẽ kết thúc. Arrivederci, monsignore. 3
Ông luôn thận trọng để không phung phí uy tín của mình đối với chính phủ. Tại sao lại phải chấm dứt việc điều tra về cái chết của một thầy tu, một học giả vô hại nhỉ? Tổng Giám mục Paris thở dài. Không nên tranh luận về một mệnh lệnh do Đức ông Calfo đưa ra, nhất là khi ngài chỉ truyền đạt lại yêu cầu rõ ràng của Hồng y Giáo chủ.
Ông bấm máy gọi tổng đài:
- Làm ơn nối máy cho tôi nói chuyện với bộ Nội vụ. Cảm ơn, tôi sẽ chờ...
8
Kinh Phúc âm theo Matthieu và Jean
Đêm thứ Năm sắp hết để nhường chỗ cho ngày thứ Sáu, bình minh đang rạng dần. Người đàn ông vùng Judee tiến lại gần đống lửa và đưa tay ra để hưởng chút hơi ấm dễ chịu. Trời quá lạnh nên lính gác đã đốt một đống lửa trong sân lâu đài của Caiphe, và họ kính cẩn lùi ra để nhường chỗ cho ông: một ông chủ giàu có trong vùng, có quan hệ thân thiết với Giáo chủ... Ông quay lại nhìn: Peter cố náu mình trong một góc, hẳn là đang rất khiếp đảm khi phải ở trong trung tâm quyền lực mà anh ta mong muốn lật đổ bằng cuộc tấn công sẽ xảy ra trong vài giờ tới. Với cái cung cách của một kẻ phạm tội bị bắt quả tang kia, thế nào anh ta cũng khiến bọn lính nghi ngờ.
Ông ra hiệu cho Peter đến gần đống lửa. Người ngư phủ ngần ngại, rồi rón rén nhập vào vòng tròn những kẻ hầu người hạ đang đứng sưởi.
Mọi việc diễn ra hết sức tốt đẹp. Hôm kia, ông đã dẫn dụ được anh chàng Judas khi đó còn đang sửng sốt vì lần đầu tiên đặt chân vào khu vực dành riêng cho các chức sắc Do Thái. Buổi gặp mặt Caiphe dường như bắt đầu thuận lợi – Giáo chủ có vẻ rất phấn khởi vì đã có được cơ hội để bỏ tù Jesus một cách êm thấm, không gây ra náo động gì. Nhưng sau đó Judas bỗng phản ứng. Phải chăng anh ta đột nhiên hiểu ra mình đang đối mặt với ai, và rằng anh ta sẽ giao người Thầy của mình cho chính quyền Do Thái?
- Thế lấy gì để đảm bảo rằng một khi Jesus đã ở trong tay ông, ông sẽ không giết Người?
Giáo chủ trang trọng giơ tay phải lên.
- Hỡi người đàn ông Galilee, ta thề trước Đấng Tối cao: Jesus xứ Nazareth sẽ được xét xử công bằng theo đúng pháp luật, và chưa bao giờ một nhà thuyết giáo lang thang bị xử tội chết cả. Mạng sống của anh ta sẽ không bị đe dọa. Để ngươi yên tâm, ta trao cho ngươi một khoản tiền cược để đảm bảo lời nói của ta: từ nay trở đi, Đấng Tối cao: từ nay trở đi, Đấng Tối cao sẽ là nhân chứng giữa ta và ngươi.
Ông ta mỉm cười và đưa cho Judas ba mươi đồng tiền vàng.
Judas lẳng lặng bỏ tiền vào túi. Giáo chủ vừa đưa ra một cam kết trang trọng: Jesus bị bắt, nhưng sẽ được xét xử trong một phiên tòa. Việc này cần có thời gian, mà chỉ trong vòng ba ngày nữa Caiphe sẽ không còn là lãnh đạo tối cao của đất nước. Hắn sẽ chẳng còn là gì hết.
Nhưng chúng đang làm gì trên đó thế nhỉ? Tại sao Jesus chưa bị giam vào một nhà ngục nào đó dưới hầm ngầm? Bị giam cầm, cũng có nghĩa là được an toàn?
Người đàn ông vùng Judee thấy vài thành viên của Tòa án Do Thái vừa cáu nhặng xị vừa leo lên những bậc cầu thang dẫn đến tầng một của lâu đài, nơi Jesus đã bị giải đến từ khi bị bắt.
Từ lúc đó trở đi, không có động tĩnh gì lọt ra ngoài sân lâu đài nữa. Ông cảm thấy khó chịu trước diễn biến của sự việc; để bớt căng thẳng, ông tiến về phía cửa thành, đi đi lại lại trong phố.
Ông va vào một bóng người đang nép sát tường.
- Judas... anh làm gì ở đây thế?
Người này đang run lẩy bẩy như một chiếc lá sung trước gió biển Galilee.
- Tôi... tôi đến để xem, tôi lo cho Thầy quá! Liệu có thể tin tưởng vào lời hứa của Caiphe không?
- Thôi nào, bình tĩnh đi anh bạn: mọi việc đang diễn ra rất bình thường. Đừng đứng ở đây, lính tuần tra sẽ tóm cổ anh đấy. Đến nhà tôi đi, anh sẽ được an toàn ở phòng trên lầu.
Ông tiến về phía cửa lâu đài. Ngoái lại đằng sau, ông vẫn thấy Judas đứng bất động, hẳn anh ta sẽ không tời khỏi đó.
Tiếng gà gáy bắt đầu vang lên khắp nơi. Đột nhiên cánh cửa phòng lớn mở toang, và ánh đuốc chiếu sáng rực trước hiên nhà. Caiphe bước ra đưa mắt nhìn khắp sân: người đàn ông vùng Judee vội tránh khỏi vùng ánh sáng, không nên để bị nhìn thấy lúc này. Sau này, khi vụ nổi dậy đã thất bại, ông sẽ đến gặp Giáo chủ và đòi hắn phải trả tự do cho Thầy.
Rồi Jesus xuất hiện, đi xuống cầu thang. Người bị trói chặt, hai tên lính gác kẹp hai bên khuỷu tay.
Sao thế nhỉ? Cần gì phải trói chặt thế kia nếu bọn chúng chỉ giải Người xuống hầm giam?
Đám người đi qua đống lửa, và ông nghe thấy giọng nói sắc lạnh của Caiphe:
- Giải hắn đến nhà Pilate, ngay lập tức!
Mồ hôi lạnh vã ra trên trán ông.
Đến nhà Pilate! Một khi chúng đã giải Người đến nhà tổng đốc La Mã thì chỉ có một cách giải thích duy nhất: Caiphe đã phản bội lời thề của hắn.
Judas vẫn đứng chôn chân ở vị trí quan sát. Lúc đầu, anh chỉ nhìn thấy một bó đuốc, ánh lửa tỏa ra khiến anh lóa mắt: anh cố gắng thụt sâu vào trong một hốc cửa, và nín thở. Lính tuần tra chăng?
Nhưng đó không phải là một nhóm lính tuần tra. Giữa một nhóm lính gác Đền thờ, anh nhận ra dáng dấp của một người đang bước đi chệnh choạng, tay bị trói chặt ra sau lưng. Viên quan đi đầu đưa ra một mệnh lệnh ngắn gọn đúng lúc cả nhóm đi qua chỗ Judas đang nấp trong bóng tối:
- Đừng lề mề nữa, đến lâu đài của Pilate ngay!
Anh kinh hoàng nhìn rõ gương mặt của người đang bị bọn lính thúc cùi chỏ vào lưng để giải đi: chính là Jesus.
Mặt Người xanh tái, các đường nét căng ra. Người đi qua cửa mà không hề nhìn vào bất cứ thứ gì – dường như Người đang nhìn sâu vào chính tâm hồn mình. Judas kinh sợ nhìn chằm chặp vào cổ tay Người: hai cổ tay bị trói rất chặt, một chút máu còn vương trên sợi dây thừng, hai bàn tay co quắp xanh tái.
Cơn ác mộng đã đi qua: nhóm người đằng đằng sát khi vừa rẽ phải, đi về hướng pháo đài Antonia nơi Pilate ở mỗi khi ông ta đến Jerusalem.
Bất cứ ai là người Do Thái đều biết Luật này: ở Israel, kẻ báng bổ bị xử tội chết, và việc hành hình bằng cách ném đá vào người phạm tội sẽ được tiến hành ngay lập tức. Chúng đã không ném đá Người trong sân, thế có nghĩa là Người không nhận tội tự coi mình ngang bằng với Chúa trời, tội báng bổ cao nhất. Vậy là các nhà lãnh đạo nhà nước Do Thái đang tìm cách buộc Người vào một tội danh chính trị nào đó, điều chúng sẽ dễ dàng đạt được nhờ tâm trạng dễ bị kích động của người dân La Mã trong Lễ Vượt qua.
Judas loạng choạng rời khỏi thành phố. Jesus sẽ không được xét xử, Caiphe đã phản bội lời thề của mình và quyết định giết Người. Và để làm được điều đó, chúng sẽ giao Người vào tay người La Mã, vì không thể ép Người nhận tội báng bổ.
Người đang ở rất gần giá chữ thập.
Anh tiến đến đối mặt với khối Đền thờ sừng sững. Ba mươi đồng tiền vàng vẫn đang kêu leng keng trong túi anh – khoản tiền không đáng kể gì để đảm bảo cho cam kết giữa anh và Giáo chủ, cam kết vừa bị phản bội bất chấp lời đã hứa. Caiphe đã chơi anh một vố đau đớn.
Anh sẽ đối mặt với hắn ngay trong Đền thờ để nhắc cho hắn nhớ lời hắn đã hứa. Và nếu hắn vẫn khăng khăng bảo vệ cho tội lỗi của hắn, Judas sẽ cầu xin Đấng Tối cao, nhân chứng giữa anh và Caiphe, đứng ra xét xử.
"Hỡi các giáo sĩ của Đền thờ, đã đến giờ Chúa đưa ra phán xét!"
9
Cha Nil giật mình: tiếng chuông đầu tiên nhắc giờ lễ mixa đã điểm, sắp phải xuống kho đồ thờ để chuẩn bị rồi. Ông đọc lại lần nữa mảnh giấy mà ông đã lấy ra khỏi bàn tay lạnh ngắt của Andrei trước đó mấy tiếng:
Nói chuyện với Nil: bản thảo tiếng Ai cập cổ (Apoc).
Bức thư của Tông đồ.
M M M.
Phiến đá G.
Tìm ra mối liên hệ. Ngay lập tức.
Cố gạt bỏ việc tìm hiểu vai trò của Judas trong cái chết của Jesus ra khỏi đầu, ông lại phải đối mặt với thực tế phũ phàng. Điều này có nghĩa là gì? Đương nhiên đây là một mảnh giấy nhắc việc rồi. Cha Andrei muốn nói với ông về một bản thảo tiếng Ai Cập cổ - bản thảo nào Roma đã gửi đến cho ông ấy, hay một bản thảo khác? Có đến vài trăm bản sao được lưu trữ trong văn phòng của cha Andrei: bản thảo mà ông ấy đang nói đến là bản nào trong số đó? Ông ấy lại còn chú thích trong ngoặc đơn (Apoc): một bản thảo tiếng Ai Cập cổ lấy từ kinh Khải Huyền? Manh mối này quá mỏng manh, có hàng chục cuốn Khải Huyền 4 khác nhau, của cả Do Thái giáo lẫn Cơ Đốc giáo. Và cho dù cha Nil biết đọc tiếng Ai Cập cổ, thì ông cũng thấy mình không đủ khả năng để dịch chính xác một văn bản khó như vậy.
Dòng tiếp theo gợi ông nhớ đến một trong những lần ông nói chuyện với viên thủ thư. Liệu có phải cha Andrei muốn nói đến bức thư của tông đồ mà đã có lần ông ấy đề cập đến một cách e dè, bóng gió như thể chỉ đưa ra một phỏng đoán, một giả thiết mà không có bất kỳ bằng chứng nào? Ông ấy đã không nói thêm điều gì với cha Nil về bức thư này.
Ba chữ M liên tục ở phía dưới có nghĩa là gì?
Chỉ có dòng chữ sát dòng cuối cùng là rõ ràng đối với Nil. Đúng là ông cần phải quay lại chụp ảnh phiến đá Germigny, như ông đã hứa với bạn mình trước khi ông này đi Roma.
Còn dòng chữ cuối cùng, tìm ra mối liên hệ, thì họ đã nói với nhau thường xuyên rồi: đối với cha Andrei, đó chính là công việc chủ yếu của ông ấy với tư cách là nhà sử học. Nhưng tại sao lại ngay lập tức, và tại sao ông ấy lại gạch chân mấy chữ này?
Ông cố gắng tập trung suy nghĩ. Đầu tiên là những điều ông tìm thấy trong kinh Phúc âm mà cha Andrei thương xuyên hỏi đến. Sau đó là chuyện cha Andrei bị triệu tới Roma để trả lời về bản thảo tiếng Ai Cập cổ kia, cuối cùng là điều phát hiện