← Quay lại trang sách

Chương 4 .

Pella (Jorrdan), năm 58

- Chân cha thế nào rồi, thưa abbou?

Người môn đồ cưng thở dài. Mái tóc ông đã bạc trắng, các đường nét trên mặt hõm sâu. Ông nhìn người đàn ông đang ở tuổi sung sức đứng bên cạnh.

- Thế là đã hai mươi tám năm kể từ khi Jesus chết, mười năm từ khi ta rời Jerusalem. Đôi chân đã đưa ta đến tận đây, Iokhanân ạ, và có lẽ chúng sẽ còn đưa ta đi xa nữa, nếu điều con nói với ta là đúng …

Họ ẩn dưới bóng của hàng cột, nền đất phủ một bức tranh ghép lộng lẫy thể hiện hình ảnh thần Dionysos. Từ đây, có thể thấy thấp thoáng những đụn cát trong sa mạc ngay bên cạnh.

Pella được những cựu binh của Alexandre Đại đế xây dựng trên bờ phía Đông sông Jordan, và đã bị phá hủy gần như hoàn toàn sau một trận động đất. Khi phải trốn khỏi Jerusalem trước sự đe dọa của những người ủng hộ Peter, ông thấy thành phố nằm ngoài Palestine này dường như có thể giúp ông được an toàn. Ông ở đây cùng mẹ của Jesus, sau đó không lâu những người chủ chốt trong số các môn đồ của ông cũng đến ở cùng. Iokhanân đảm nhận việc đi lại giữa Pella và nước Palestine láng giềng, thậm chí cả Syria nữa: Paul đã thiết lập tổng hành dinh của mình tại Antioche, một trong những thủ đô của vùng Tiểu Á.

- Thế còn Marie?

Tình cảm quyến luyến Iokhanân dành cho mẹ của Jesus làm cho người khác phải xúc động: "Đứa trẻ này đã nhận mẹ của một người bị hành hình làm mẹ nuôi, và đã nhận ta để thay thế cho người cha đẻ đã bị đóng đinh câu rút của mình."

- Con sẽ gặp bà ấy sau. Cho ta biết thêm tin tức đi: ở đây, ta quá xa với mọi thứ …

- Mọi chuyện xảy ra cách đây vài tuần: Jacques, em trai của Jesus, cuối cùng đã chiến thắng. Ông ấy trở thành người đứng đầu toàn bộ cộng đồng ở Jerusalem.

- Jacques! Thế thì … còn Peter?

- Peter đã kháng cự hết khả năng của ông ta. Thậm chí ông ta còn định lật đổ Paul tại đất của ông ấy, ở Antioche nữa – nhưng đã bị đánh đuổi như một kẻ xấu xa! Cuối cùng, ông ta vừa xuống tàu đi Roma.

Hai người đàn ông cùng cười. Từ đây, nơi giáp ranh với sa mạc và sự trống trải mênh mông của nó, cuộc chiến vì quyền lực dưới danh nghĩa Jesus có vẻ thật nực cười.

- Roma … ta tin chắc như vậy. Nếu Peter không còn là người đứng đầu ở Jerusalem, Roma sẽ là nơi duy nhất để ông ta thực hiện tham vọng của mình. Chính ở Roma, Iokhanân ạ, ở trung tâm của Đế chế, Giáo hội mà ông ta mơ ước sẽ trở nên hùng mạnh.

- Còn một chuyện nữa: các môn đồ của cha ở Judee càng ngày càng bị gạt ra ngoài lề, thậm chí đôi khi còn bị quấy rối. Họ hỏi cha xem họ có phải trốn chạy như cha, và đến đây ở cùng cha không.

Ông già nhắm mắt lại. Ông cũng đã nghĩ đến cả điều này. Những người Nazareth không theo đạo Do Thái như Jacques, cũng không sẵn sàng thần thánh hóa Jesus như Paul: bị vây bọc giữa hai xu hướng đối nghịch nhau kịch liệt ngay trong lòng Giáo hội đang ra đời, lại không muốn bị đồng nhất vào bất kỳ xu hướng nào, họ có nguy cơ bị tiêu diệt.

- Hãy để những người không chịu đựng nổi các áp lực ấy đến sống cùng chúng ta ở Pella. Tại đây chúng ta được an toàn – trong lúc này.

Iokhanân thân mật ngồi xuống cạnh ông, và chỉ vào bó giấy da nằm rải rác trên bàn.

- Cha đã đọc chưa, thưa abbou?

- Cả đêm. Nhất là tập này, tập mà con nói là đã được truyền bá đến tận châu Á.

Ông chỉ khoảng ba chục tờ giấy được gắn với nhau bằng một sợi dây len ông đang cầm trong tay.

- Trong suốt những năm qua, Iokhanân nói, các tông đồ đã truyền miệng những lời nói của Jesus. Để chuyện cũ không mất đi sau khi họ chết, họ đã ghi lại vào đây nhưng không theo trật tự nào cả.

- Đó đúng là lời dạy của Người, đúng như những gì ta đã được nghe. Nhưng các tông đồ rất khéo léo. Họ không để Jesus nói điều ông chưa bao giờ nói: họ bằng lòng với việc thay đổi chỗ này một từ, thêm vào chỗ khác một sắc thái. Họ bịa ra những lời bình luận, hoặc tự gán cho mình những điều họ chưa từng nói. Chẳng hạn, ta đọc thấy rằng một hôm Peter đã quỳ xuống trước mặt Jesus và tuyên bố: "Người đích thực là Đấng Cứu thế, Con của Chúa trời!"

Ông vứt tập giấy lên bàn.

- Peter mà lại nói một điều như thế! Không bao giờ Jesus chấp nhận chuyện đó, cả ở ông hay ở bất kỳ người nào khác. Hãy hiểu rõ, Iokhanân: bằng cách đày cha đi xa, các tông đồ đã tự gán cho mình quyền làm chứng tuyệt đối. Trong tay họ, kinh Phúc âm đã trở thành khoản đặt cược cho quyền lực. Việc biến đổi Jesus sẽ ngày càng trầm trọng hơn, đó là điều hiển nhiên. Nhưng rồi họ sẽ đi đến tận đâu?

Iokhanân quỳ xuống bên chân ông, thân mật đặt tay lên đầu gối ông.

- Cha không thể để họ làm điều đó. Họ viết ra những ký ức của mình, cha cũng viết ký ức của cha. Những điều cha giảng ở đây cho các môn đồ của mình, cha hãy viết ra, và để văn tự này được truyền bá, giống như họ truyền bá những điều họ viết. Hãy kể lại đi, thưa abbou. Cha kể lại lần đầu tiên cha gặp Jesus bên bờ sông Jordan, chuyện Người chữa khỏi cho kẻ bị bại liệt tại bể nước Bethesda, những ngày cuối cùng của Jesus… Hãy kể về Jesus như cha đã kể cho con nghe, để Người không phải chết thêm một lần nữa!

Anh nhìn đăm đăm vào khuôn mặt người cha nuôi, người đang nhặt một tập giấy khác trên bàn.

- Còn Paul thì rất khôn khéo. Ông ta biết rằng mọi người chỉ có thể chịu đựng được cuộc sống khốn khổ của mình nhờ niềm tin vào việc phục sinh. Ông ta giải thích với họ: các ngươi sẽ được phục sinh, bởi vì Jesus là người đầu tiên đã phục sinh. Và nếu Người đã phục sinh … là vì người là Chúa, chỉ có Chúa mới có thể tự mình sống lại.

- Thế thì, thưa cha … Paul đã viết thư cho các môn đồ của mình phải không? Cha cũng hãy làm như vậy. Ngoài việc kể lại mọi chuyện, cha hãy viết cho chúng con một bức thư. Một bức thư để khôi phục sự thật, để nói rằng Jesus không phải là Chúa trời. Và bằng chứng … sẽ là việc nấm mồ của Người tồn tại.

Gương mặt ông chợt kín bưng, và Iokhanân nắm lấy hai bàn tay ông.

- Con đã không muốn nói với cha: Eliézer Ben-Akkai, thủ lĩnh cộng đồng người Esseni ở Jerusalem, đã chết. Liệu ông ấy có mang theo mình bí mật về nấm mộ của Jesus?

Đôi mắt ông già ngấn lệ. Cái chết của người đàn ông Esseni cũng có nghĩa là toàn bộ thời trai trẻ của ông đã bị xóa sạch.

- Chính hai con trai của Eliézer, Adôn và Osias đã chuyển thi thể đi. Họ cũng biết, và như vậy chúng ta có ba người biết, thế là đủ. Con đã học được từ cha cách làm thế nào để gặp gỡ Jesus ngay cả khi Người đã chết. Thế thì con được gì nếu biết vị trí phần mộ của Người? Mộ người được sa mạc tôn trọng, nhưng nó sẽ không được như thế trước con người.

Iokhanân nhanh nhẹn đứng lên, rồi biến mất một lát. Khi quay trở lại, anh cầm trên tay một cuộn giấy da mới tinh, còn tay kia là một cái bút làm bằng sừng trâu và một lọ mực bằng đất. Anh đặt các thứ lên bàn.

- Thế thì cha viết đi, abbou. Cha hãy viết để Jesus vẫn còn sống.

36

- Tôi tuyên bố khai mạc buổi lễ trang trọng này.

Hội trưởng Hội Thánh Pie V hài lòng nhận thấy một số đạo hữu của mình không dựa vào lưng ghế phô tơi: những người đó đúng là đã dùng bài Thánh vịnh dài Miserere để đo thời gian thực hiện hình phạt đánh roi kim loại.

Căn phòng cũng vẫn trống trải như vậy, trừ hai thứ gần như ngoại lệ: trước mặt ông, dưới chân thánh giá vấy máu, có đặt một chiếc ghế tựa đơn giản. Và trên mặt bàn trống trơn, chiếc ly đựng rượu mùi có chứa một thứ chất lỏng không màu, tỏa ra mùi đăng đắng nhẹ nhàng của quả hạnh.

- Người anh em, xin mời đến vị trí làm thủ tục.

Một trong những người tham dự đứng dậy, đi vòng quanh bàn và đến ngồi vào chiếc ghế tựa. Tấm vải che mặt ông ta rung động, dường như ông ta đang thở khá khó nhọc.

- Trong nhiều năm dài, ông đã phục vụ trong Hội của chúng ta mà không thể chê trách điều gì. Nhưng mới đây, ông đã phạm một lỗi lầm nghiêm trọng: ông tiết lộ một số bí mật về công việc đang tiến hành, có tầm quan trọng cốt yếu đối với sứ mệnh của chúng ta.

Người đàn ông giơ đôi tay cầu xin về phía cử tọa.

- Da thịt yếu đuối, các anh em, tôi cầu xin các anh em hãy tha thứ cho tôi!

- Không phải chuyện đó – giọng Hội trưởng sắc lạnh. Tội lỗi về xác thịt đã được xóa sạch bằng lễ phạt roi, giống như Thiên Chúa của chúng ta đã xóa tội cho người đàn bà ngoại tình. Nhưng nhân nói đến cô gái gây ra những lo lắng gần đây cho chúng ta …

- Cô ấy không còn khả năng gây hại được nữa!

- Quả vậy. Đã phải làm thế nào đó để cô ta không thể gây hại nữa, đấy luôn là điều đáng tiếc và phải là ngoại lệ.

- Vậy thì … bởi vì ông đã có lòng tốt giải quyết vấn đề này …

- Ông không hiểu, người anh em ạ.

Ông nói với những người tham dự.

- Nhiệm vụ này có tầm vóc rất quan trọng. Cho đến giữa thế kỷ XX, Giáo hội đã giữ quyền kiểm tra việc diễn giải Kinh Thánh. Từ khi Giáo hoàng Paul VI bất hạnh xóa bỏ Cơ quan kiểm duyệt sách cấm vào năm 1967, chúng ta không còn kiểm soát bất cứ thứ gì nữa. Bất kỳ ai cũng có thể xuất bản bất cứ thứ gì, và Danh mục sách cấm, là thứ giam cầm những ý tưởng độc hại trong ngục tù của các thư viện, đã rơi rụng như một ngón tay mắc bệnh hủi của chủ nghĩa hiện đại. Ngày nay, một tu sĩ bình thường ở tận đáy tu viện của ông ta cũng có thể đe dọa nghiêm trọng Giáo hội bằng cách đưa ra bằng chứng chứng tỏ Christ chỉ là một người bình thường.

Một cơn run rẩy lan khắp cử tọa.

- Từ khi Giáo hoàng rất Thánh Pie V thành lập Hội chúng ta, chúng ta đã chiến đấu nhằm giữ gìn hình ảnh của Đấng Cứu thế và Chúa hiện thân trong hài hình con người trước công chúng. Và chúng ta đã luôn thành công.

Các đạo hữu gật đầu.

- Thời thế đã thay đổi và đòi hỏi những phương tiện hiệu quả. Phải có tiền, để cô lập cái xấu, lập những trường dòng thánh thiện, kiểm soát các phương tiện truyền thông trên khắp hành tinh, ngăn chặn một số xuất bản phẩm. Phải có nhiều tiền để tác động tới các chính phủ trong các vấn đề liên quan đến chính sách văn hóa, giáo dục, để ngăn chặn phương Tây Cơ Đốc bị đạo Hồi hoặc các giáo phái khác xâm chiếm. Đức tin có thể nhấc bổng cả núi, nhưng đòn bẩy của nó là tiền. Tiền có thể làm mọi việc, được những bàn tay trong sạch sử dụng, nó có thể cứu cả Giáo hội, hiện bị đe dọa đến thứ quý giá nhất – giáo lý Hiện thân của Chúa và giáo lý Chúa ba ngôi.

Một tiếng thì thầm hưởng ứng nổi lên trong phòng. Hội trưởng nhìn chăm chăm vào thánh giá, dưới đó người bị kết tội đang run rẩy.

- Vậy mà chúng ta đang phải tính toán chuyện tiền bạc một cách khốn khổ. Các anh em có nhớ khối tài sản đột ngột xuất hiện và vô cùng lớn của các Hiệp sĩ dòng Đền không? Chưa bao giờ có ai biết tài sản đó từ đâu ra. Thế mà hiện nay, cái nguồn vô tận của tài sản này có thể đang nằm trong tầm tay chúng ta. Nếu sở hữu được nó, chúng ta sẽ có được những phương tiện không hạn chế để hoàn thành sứ mệnh của mình. Với điều kiện là …

Ông hạ mắt xuống người anh em khốn khổ dường như đang chảy ra thành nước trên chiếc ghế tựa, trong luồng ánh sáng dữ dội tỏa ra từ hai ngọn đền chiếu nhỏ gắn phía trên thánh giá.

- Với điều kiện là không để bất cứ sự hớ hênh nào làm tổn hại đến công việc của chúng ta. Sự hớ hênh này, người anh em ạ, chính ông đã phạm phải: chúng tôi đã nhổ được cái gai mà ông cắm vào thịt da Thiên Chúa, nhưng chỉ nên có ít cái gai như vậy thôi. Chúng tôi không còn tin ông nữa, và hôm nay sứ mệnh của ông chấm dứt. Tôi yêu cầu mười tông đồ đang có mặt ở đây khẳng định lại quyết định tối cao của tôi thông qua biểu quyết.

Mười bàn tay cùng đồng loạt đưa về phía thánh giá.

- Người anh em, tình cảm trìu mến của chúng tôi sẽ đi cùng ông: ông đã biết thủ tục rồi đấy.

Người bị kết tội mở móc cài che mặt. Hội trưởng đã thường xuyên gặp ông với khuôn mặt để lộ, nhưng những người khác mới chỉ nhìn thấy hai bàn tay.

Tấm khăn rơi xuống, để lộ nét mặt của một người cao tuổi. Đôi mắt ông thâm quầng, nhưng cái nhìn không lộ vẻ cầu xin: hành động cuối cùng này là một phần trong sứ mệnh mà ông đã chấp nhận khi trở thành thành viên của Hội. Lòng sùng kính của ông với Chúa Christ là trọn vẹn, hôm nay hẳn nó cũng không giảm đi.

Hội trưởng đứng dậy, và mười tông đồ khác làm theo. Họ chậm rãi đưa tay ra, cho đến khi các ngón tay chạm vào nhau.

Đối diện với thánh giá rỉ máu, mười con người, cánh tay bắt tréo, nhìn chăm chú vào người anh em của họ đang đứng dậy. Ông ta không run nữa: khi nằm trên giá gỗ, Jesus đã không run.

Hội trưởng cất giọng lạnh lùng:

- Người anh em, Chúa Ba ngôi biết rõ ông đã phục vụ sự nghiệp của một trong ba ngôi tận tụy đến đâu. Chúa Ba ngôi sẽ đón ông về với Người, trong ánh sáng thần thánh mà ông đã không ngừng tìm kiếm suốt cuộc đời.

Ông chậm rãi nhấc chiếc ly đặt trên bàn, nâng lên cao một lát như một bình rượu lễ rồi đưa cho ông già.

Với một nụ cười, người này bước lên trước một bước, và đưa bàn tay gầy guộc về phía chiếc ly.

37

Chào mừng cha đến San Girolamo! Tôi là cha Jean, tu sĩ tiếp khách.

Ra khỏi tàu Roma Express, cha Nil thấy lại dấu ấn của thời sinh viên và không chần chừ tiến về phía bến xe buýt đưa ông tới hầm mộ Priscilla. Rất vui sướng vì được trở lại thành phố, ông không nghĩ gì đến những biến cố trong chuyến đi nữa.

Ông xuống ở bến gần cuối, phía trên một con dốc ở đường Salaria. Nằm trong một khung cảnh vẫn còn xanh rờn, tu viện San Girolamo là một công trình nhân tạo của Giáo hoàng Pie XI, với mong muốn tập hợp các học giả uyên bác trên thế giới để biên tập lại Kinh Thánh – nhưng bằng tiếng Latin. Hội Thánh Pie V theo dõi sát sao từng người trong số các tu sĩ này, cho đến khi họ buộc phải thừa nhận rằng tiếng Latin chỉ còn được sử dụng tại Vatican: thế giới hiện đại chỉ trích công việc của họ. Từ đó, San Girolamo chỉ còn tồn tại bằng những kỷ niệm.

Cha Nil đặt va li ở lối vào hành lang màu vàng bẩn thỉu của tu viện, ở giữa có đặt một bồn phun nước, bên trên là một cụm tre rủ xuống buồn bã. Chỉ có mùi mì ống và hương hoa trúc đào thoang thoảng nhắc cho người ta nhớ mình đang ở Roma.

- Hôm qua, Cơ quan truyền bá đức tin đã báo cho tôi biết cha sẽ đến. Hồi đầu tháng, chúng tôi cũng đã nhận được yêu cầu như vậy đối với cha Andrei ở tu viện của cha, cha ấy đã sống ở đây nhiều ngày …

Cha Jean cũng nói liến thoắng như bất cứ người dân Roma nào sống ở Trastevere. Ông dẫn khách đi về phía cầu thang dẫn lên các tầng.

- Đưa va li của cha cho tôi … Ôi! Nó nặng thế! Tội nghiệp cha Andrei, chẳng biết chuyện gì đã xảy ra với ông ấy, sáng đó ông ấy ra đi mà không báo trước. Và chắc là ông ấy đã thu xếp hành lý vội vàng, vì đã để quên nhiều thứ trong phòng. Tôi vẫn để chúng đấy, trong phòng cha sẽ ở. Không ai đặt chân vào đó kể từ khi ông bạn bất hạnh của cha ra đi. Thế nào, cha đến để nghiên cứu về những bản thảo thời Grégoire à?

Cha Nil không nghe thấy làn sóng ngôn từ đó nữa. Ông sẽ ở trong phòng mà cha Andrei đã ở!

Cuối cùng cũng được giải thoát khỏi cha Jean, ông đưa mắt nhìn quanh phòng. Trái ngược với các phòng trong tu viện của ông, căn phòng này chất đầy đồ đạc nằm rải rác. Một cái tủ lớn, hai giá sách, một giường có trải đệm và giát lò xo, một cái bàn rộng với ghế tựa, một ghế phô tơi … Phảng phất cái mùi không thể xác định của các tu viện, mùi hôi của bụi khô và xi đánh gỗ.

Trên một trong hai giá sách, người ta để vài thứ đồ đạc cha Andrei bỏ quên. Một máy cạo râu, vài chiếc mùi soa, một bản đồ thành phố Roma, một sổ ghi chép … Cha Nil mỉm cười: sổ ghi chép của một tu sĩ, chẳng có gì nhiều để ghi lại!

Ông gắng sức đặt vali lên bàn. Va li gần như đầy ắp những ghi chép quý giá của ông. Lúc đầu, ông định xếp chúng lên giá, nhưng lại thay đổi: cái tủ có khóa. Ông xếp giấy tờ vào đó, nhét cuộn phim chụp ở Germigny xuống dưới cùng. Quay chìa khóa một vòng rồi bỏ vào túi, không chút tin tưởng.

Rồi ông dừng lại: trên bàn có một chiếc phong bì. Gửi cho ông.

Nil thân mến,

Cậu đến giúp mình trong việc nghiên cứu. Welcome in Roma! 1 Nói thật, mình không hiểu gì cả: mình chưa bao giờ yêu cầu họ triệu tập cậu đến đây! Nhưng dù sao mình cũng rất vui được gặp lại cậu. Qua văn phòng mình ngay khi có thể nhé: Văn phòng Quan hệ với người Do Thái, nằm trong tòa nhà của Cơ quan truyền bá đức tin. See you soon! 2

Bạn cũ của cậu, Rembert Leeland.

Một nụ cười rạng rỡ sáng lên trên mặt ông: Remby! Hóa ra ông ấy chính là nhạc sĩ mà ông đến giúp việc! Lẽ ra ông đã có thể nghĩ đến điều đó, nhưng từ hơn mười năm nay, ông chưa gặp lại người bạn học cùng ở Roma, và ý nghĩ cho rằng ông được triệu tập đến Roma là vì ông ấy không hề thoáng qua đầu ông. Remby, thật là vui! Ít nhất chuyến đi cũng có điều này là tốt đẹp, vì đã cho phép họ gặp lại nhau.

Rồi ông đọc lại lá thư: Leeland cũng có vẻ ngạc nhiên như ông. Mình chưa bao giờ yêu cầu... Không phải ông ấy yêu cầu triệu tập ông đến đây.

Vậy thì, là ai?

38

Ông già mặc áo lễ trắng cầm chiếc ly hội trưởng đưa cho, đưa lên môi rồi uống một hơi thứ chất lỏng không màu. Ông nhăn mặt, và lại ngồi xuống ghế.

Mọi chuyện diễn ra rất nhanh chóng. Trước mặt mười một tông đồ, những cách tay vẫn đưa ra thành hình chữ thập, ông già nấc lên, rồi gập người làm đôi cùng một tiếng rên rỉ. Mặt ông chuyển sang màu tím, co rút lại thành một cái cười nhăn khủng khiếp, và ông ngã sụp xuống đất. Những cơn co giật kéo dài trong khoảng một phút, rồi người ông vĩnh viễn cứng đơ. Cái miệng há ra như để thở, một dòng nhớt dãi chảy xuống cằm. Đôi mắt ông mở to hết cỡ, nhìn trân trối lên cây thánh giá bên trên.

Các tông đồ chậm rãi hạ tay và ngồi xuống. Trước mặt họ, trên nền đất, hình thù màu trắng nằm bất động.

Người ngồi xa nhất bên tay phải hội trưởng đứng lên, tay cầm một mảnh vải.

Chưa đâu! Người anh em của chúng ta phải trao lại ngọn đuốc cho người kế vị mình. Làm ơn ra mở giúp tôi cánh cửa.

Tay vẫn cầm mảnh vải, đạo hữu đó đi ra mở cánh cửa bọc sắt ở cuối phòng.

Trong bóng tối lờ mờ, một dáng người màu trắng đang đứng, có vẻ chờ đợi.

- Bước lên trước đi, người anh em!

Người mới đến cũng mặc áo lễ trắng giống như những người tham dự, đầu đội mũ trùm, mảnh khăn màu trắng cài khuy hai bên mặt. Người đó bước lên trước ba bước rồi dừng lại, có vẻ khiếp sợ.

"Antonio, Hội trưởng nghĩ thầm, một chàng trai trẻ thật duyên dáng! Mình tiếc cho anh ta. Nhưng anh ta phải tiếp nhận ngọn đuốc, đó là luật lệ kế nhiệm của Tòa Thánh."

Trước cảnh tượng ông già bị co giật vì cái chết đột ngột, đôi mắt của người hội viên mới vẫn mở to. Một đôi mắt rất kỳ lạ: mống mắt gần như đen tuyền, đôi đồng tử mở to vì ghê sợ mang lại cho anh một cái nhìn lạ lẫm, lại càng nổi bật dưới vầng trán phẳng phiu và xanh xao.

Hội trưởng đưa tay ra hiệu cho anh lại gần.

- Người anh em, anh có nhiệm vụ phải tự tay phủ mặt cho tông đồ này, người mà hôm nay anh sẽ kế nhiệm. Hãy nhìn kỹ mặt ông ấy: đó là khuôn mặt của một người hoàn toàn tận tụy với sứ mệnh của mình. Khi không còn khả năng làm tròn sứ mệnh đó nữa, ông ấy đã tự nguyện chấm dứt chức vụ. Hãy nhận lại ngọn đuốc từ tay ông ấy, để phụng sự như ông ấy đã phụng sự, và chết như ông ấy đã chết, trong niềm vui của Chúa.

Người mới đến quay sang phía người đã mở cửa và giờ đang đưa cho anh mảnh vải. Anh cầm lấy, quỳ xuống bên người chết và ngắm nhìn rất lâu khuôn mặt tím tái. Rồi anh lau chỗ bọt bẩn trên miệng, trên cằm ông, và cuối xuống hôn rất lâu lên đôi môi đã ngả sang màu xanh của người chết.

Rồi thẳng người, phủ mảnh vải trên khuôn mặt đang trương dần lên, và cuối cùng quay về phía những người anh em đang bất động.

- Tốt, Hội trưởng nói với giọng nồng nhiệt. Anh vừa trải qua thử thách cuối cùng, thử thách này khiến anh trở thành tông đồ thứ mười hai ở bên Chúa của chúng ta trong căn phòng lớn tại Jerusalem.

Antonio đã phải trốn khỏi vùng Andalusia quê hương: Opus Dei không dễ dàng để cho thành viên của mình rời bỏ tổ chức, giữ một khoảng cách nhất định với tổ chức này có lẽ là sự cẩn trọng cần thiết. Tại Viên, các cộng tác viên của Hồng y Catzinger đã phát hiện ra chàng trai trẻ trầm mặc có đôi mắt đen láy này. Sau nhiều năm quan sát, hồ sơ của anh được chuyển đến những người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, ông này đã đặt nó lên bàn của Calfo mà không bình luận gì.

Phải thêm hai năm điều tra cẩn thận do Hội Thánh Pie V tiến hành. Hai năm theo dõi, nghe trộm điện thoại, giám sát gia đình và bạn bè của anh vẫn đang sống ở Andalusia... Khi Calfo hẹn gặp anh trong căn hộ của mình tại Lâu đài San Angelo để tiến hành một loạt phỏng vấn, có lẽ ông đã biết rõ về anh hơn anh tự hiểu mình. Tại Viên, thành phố ưa khoái lạc, người ta đã thử thách anh bằng mọi cách: anh đã cư xử tốt. Anh không màng đến lạc thú cũng như tiền bạc, mà chỉ quan tâm đến quyền lực và bảo vệ Giáo hội Công giáo.

Hội trưởng đưa tay ra hiệu cho anh. "Anh chàng người Andalusia, dòng máu Moritani. Chỉ trích các phương pháp của Opus Dei. Ưu tư kiểu Ả Rập, hư vô kiểu Viên, vỡ mộng kiểu phương Nam: Một tân binh tuyệt vời!"

- Hãy về vị trí của mình trong số Mười hai người, người anh em.

Đối diện với bức tường trống trơn chỉ có hình ảnh rướm máu của người bị đóng đinh câu rút, Mười hai người lại một lần nữa tập hợp đầy đủ quanh Thầy.

- Anh đã biết sứ mệnh của chúng ta. Anh sẽ đóng góp vào sứ mệnh này ngay từ bây giờ, bằng việc giám sát chặt chẽ một tu sĩ người Pháp đến ở San Girolamo hôm nay. Tôi vừa được biết rằng một điệp viên nước ngoài suýt làm đứt đoạn một quá trình quan trọng liên quan đến tu sĩ này, trên tàu Roma Express. Một rắc rối đáng tiếc, anh ta đã không nhận được bất kỳ mệnh lệnh nào theo hướng này, tôi không trực tiếp kiểm soát anh ta.

Hội trưởng thở dài. Ông chưa bao giờ gặp người này nhưng có hồ sơ đầy đủ về anh ta: "Không thể lường trước. Bị ám ảnh về nhu cầu được náu mình trong hành động. Nếu không phải là một thách thức âm nhạc thì phải là trạng thái kích động do nguy hiểm- Mossad 3 đã tước bỏ giấy phép giết người của anh ta."

- Đây là những chỉ dẫn đầu tiên cho anh – ông đưa một phong bì cho người anh em mới. Những chỉ dẫn tiếp theo sẽ đưa cho anh vào thời điểm thích hợp. Và hãy nhớ anh đang phụng sự ai!

Bàn tay phải của ông chỉ lên cây thánh giá nổi bật trên tấm ván bằng gỗ gụ. Viên ngọc thạch anh màu xanh lục trên chiếc nhẫn của ông tỏa ra một tia sáng.

"Thưa Thầy! Có lẽ từ thời cái Hiệp sĩ dòng Đền, Người chưa bao giờ bị nguy hiểm như thế này. Nhưng Mười hai tông đồ của Thầy, khi có được vũ khí giống như của họ, sẽ dùng nó để bảo vệ Người!"

39

Hồng y Emil Catzinger ra hiệu cho một người đàn ông cao lớn, dong dỏng, có vầng trán rộng bên trên cặp kính vuông ngồi xuống.

- Mời Đức ông ngồi...

Phía sau cặp kính, đôi mắt Rembert Leeland linh lợi. Khuôn mặt dài kiểu người Anglo-Saxon, nhưng lại có cặp môi dày của một nghệ sĩ. Ông đưa mắt nhìn Đức Hồng y với vẻ dò hỏi.

- Hẳn là ông đang tự hỏi tại sao tôi lại triệu tập ông…Trước tiên cho tôi biết: quan hệ với các anh em Do Thái của chúng ta có chiếm hết thời gian của ông không?

Leeland mỉm cười, khiến khuôn mặt của ông có vẻ của một sinh viên tinh nghịch.

- Không hẳn thế, thưa Đức Hồng y. Thật may mắn là tôi còn có việc nghiên cứu âm nhạc!

- Precisamente, 4, chúng tôi có biết điều đó. Đức Thánh Cha cũng rất quan tâm đến các nghiên cứu của ông. Nếu ông có thể chỉ ra rằng Thánh ca Grégoire có nguồn gốc từ nghệ thuật hát Thánh vịnh của đạo Do Thái vào thời Trung cổ, đó sẽ là một yếu tố quan trọng chứng tỏ quan hệ gần gũi giữa chúng ta và đạo Do Thái. Chúng tôi cũng đã tìm cho ông một phụ tá là chuyên gia để giải mã các văn bản cổ mà ông phải nghiên cứu… Một tu sĩ người Pháp, chuyên gia chú giải tuyệt vời. Cha Nil, đến từ tu viện Saint-Martin.

- Tôi đã được biết tối qua. Chúng tôi từng học đại học cùng nhau.

Hồng y mỉm cười.

Vậy là hai người đã quen biết nhau, đúng không? Thế nghĩa là vừa dễ chịu lại vừa hữu ích, tôi rất phấn khởi trước những cuộc hội ngộ bạn bè. Ông ấy vừa mới đến, hãy gặp gỡ ông ấy thường xuyên như ông muốn. Và hãy nghe ông ấy nói. Cha Nil là một cái giếng kiến thức, ông ấy có nhiều điều để nói, và ông sẽ học được rất nhiều khi ở bên ông ấy. Hãy để ông ấy nói về điều ông ấy quan tâm. Và rồi… thỉnh thoảng, ông soạn cho tôi một báo cáo về nội dung những lần trò chuyện của các ông. Báo cáo viết nhé: tôi sẽ là người nhận duy nhất. Ông hiểu chứ?

Leeland mở to mắt kinh ngạc. "Điều này có nghĩa là gì? Ông ta yêu cầu mình gợi cho Nil nói chuyện, rồi sau đó viết báo cáo? Ông ta coi mình là ai chứ?"

Hồng y quan sát khuôn mặt sinh động của tu sĩ người Mỹ. Ông đọc được ngay những điều đang diễn ra trong ông này, liền nở một nụ cười hiền từ:

- Đừng sợ, Đức ông ạ, tôi không yêu cầu ông phải tố giác ai cả. Chỉ là thông báo cho tôi về những nghiên cứu và công việc của bạn ông. Tôi rất bận, và có lẽ không có thời gan tiếp ông ấy. Mà tôi lại cũng rất tò mò muốn biết những tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực chú giải Kinh Thánh… Ông sẽ giúp tôi qua việc góp phần thông tin cho tôi.

Khi thấy rằng mình chưa thuyết phục được Leeland, giọng ông trở nên khô khan hơn:

- Tôi cũng nhắc thêm về tình trạng hiện nay của ông. Chúng tôi đã phải lôi ông ra khỏi nước Mỹ bằng cách bổ nhiệm ông về đây, ở hàng Giám mục, để chấm dứt ngay vụ bút chiến bê bối ông đã gây ra ở đó. Đức Thánh Cha không dung thứ cho người nào đó đòi xem xét lại việc Người từ chối – một cách tuyệt đối và có cơ sở - phong chức linh mục cho những người đàn ông đã kết hôn. Vì sau đó hẳn sẽ đến lượt phụ nữ, sao lại không chứ? Người lại càng không dung thứ cho việc một tu viện trưởng dòng Benedict, người đứng đầu tu viện danh giá St.Mary, dám công khai khuyên ngài về vấn đề này. Đức ông ạ, ông đang có một cơ hội chuộc lại lỗi lầm trong mắt Giáo hoàng. Vậy nên tôi tin tưởng vào sự hợp tác kín đáo, hiệu quả và không sai sót của ông. Ông đã hiểu tôi chưa?

Đầu cúi xuống, Leeland không trả lời. Lúc đó, Hồng y lại lấy lại giọng điệu của cha mình, khi ông ta từ mặt trận phía Đông trở về:

- Thật khó cho tôi khi phải nhắc ông, Đức ông ạ, rằng còn vì một lý do khác mà chúng tôi phải khẩn cấp đưa ông rời bỏ đất nước mình, và khoác lên người ông phẩm tước Giám mục là thứ vừa bảo vệ lại vừa mang lại vinh dự cho ông. Bây giờ ông đã hiểu chưa?

Lần này, Leeland ngước lên nhìn Hồng y bằng đôi mắt của một đứa trẻ buồn rầu, và ra hiệu ông đã hiểu. Chúa tha thứ mọi tội lỗi, nhưng Giáo hội bắt các thành viên của mình phải gánh hậu quả của những tội lỗi này.

Lâu dài.

40

Pella, cuối năm 66

- Cha ạ, con đã nghĩ sẽ không bao giờ có thể đến được đây!

Hai người đàn ông ôm hôn nhau tràn đầy âu yếm. Những nét mệt mỏi của Iokhanân cho thấy anh đã kiệt sức.

- Quân đoàn số XII của La Mã đã dìm vùng bờ biển trong lửa và máu. Chúng vừa rút lui trước Jerusalem, với những thiệt hại đáng kể. Người ta nói rằng hoàng đế Néron sẽ đưa tướng Vespasien từ Syria về để củng cố lực lượng cùng với quân đoàn V và X – quân đoàn Fretensis đáng gờm. Hàng nghìn binh lính tinh nhuệ đang đổ về phía Palestine: đó là màn bắt đầu của hồi kết!

- Thế còn Jerusalem?

- Tạm thời được cứu thoát. Ở đó, Jacques đã chiến đấu hết sức mình chống lại việc thần thánh hóa anh trai mình, nhưng rồi cuối cùng đã công khai thừa nhận chuyện đó. Đối với chính quyền Do Thái, đó là một sự báng bổ. Shanhédrin 5 đã xử ông ấy bị ném đá đến chết. Những người Cơ Đốc đang lo lắng.

"Jacques! Cùng với ông ta, phanh hãm cuối cùng đối với tham vọng của các Giáo hội cũng đã mất."

- Có tin tức về Peter không?

- Ông ta vẫn ở Roma, từ đó lan ra tin đồn về những vụ thanh trừng. Néron căm thù cả người Do Thái lẫn người Cơ Đốc. Cả Giáo hội của Peter cũng bị đe dọa. Có thể ở đó mọi chuyện cũng đang đi đến hồi kết.

Anh chỉ vào chiếc túi đeo có đựng vài mảnh giấy da

- Jacques, Peter … Họ thuộc về quá khứ rồi, abbou. Từ nay trở đi sẽ có nhiều kinh Phúc âm được truyền bá, cùng với những bức thư khác của Paul…

- Cha đã nhận được tất cả những thứ đó, nhờ những người lánh nạn – ông đưa tay chỉ về phía chiếc bàn trong hàng cột, nơi ngổn ngang tài liệu. Matthieu đã viết lại văn bản của ông ta. Cha thấy ông ta phỏng theo Marc, người đầu tiên sáng tác theo một kiểu chuyện kể về Jesus, từ khi gặp Người ở bờ sông Jordan cho đến nấm mộ rỗng. Thật ra, không phải Matthieu viết ra, bởi vì – con thấy đấy – đây là tiếng Hy Lạp. Hẳn là ông ta đã soạn thảo bằng tiếng Aramaic 6 rồi cho dịch lại.

- Chính xác. Một bản kinh Phúc âm thứ ba đang được lưu hành, cũng bằng tiếng Hy Lạp. Các bản sao đến từ Antioche, nơi con đã gặp tác giả của nó. Đó là Luc, một người họ hàng của Paul.

- Cha đã đọc ba bản kinh Phúc âm này. Càng ngày họ càng cho Jesus nói những điều Người chưa bao giờ nói: rằng Người tự coi mình là Đấng Cứu thế, thậm chí là Chúa trời. Đó là điều không thể tránh khỏi, Iokhanân ạ. Thế… thế còn câu chuyện của cha?

Cuối cùng ông đã đồng ý viết ra không phải bản kinh Phúc âm vẽ ra như Marc và những người khác, mà là một câu chuyện kể - Iokhanân đã cho chép lại rồi truyền bá. Trong câu chuyện trước tiên ông kể lại những kỷ niệm của chính mình: lần gặp gỡ bên bờ sông Jodan, lòng thán phục của ông trong những ngày đầu. Nhưng ông đã không rời khỏi vùng Judee, trong khi đó Jesus trở về sống và giảng đạo ở phía Bắc, vùng Galilee. Những chuyện xảy ra ở đó, ông hầu như không nói gì đến. Câu chuyện của ông tiếp tục từ khi Mười hai tông đồ và Thầy của họ quay trở lại Jerusalem, vài tuần trước khi Jesus bị đóng đinh câu rút. Cho đến tận nấm mồ rỗng.

Đương nhiên, không có chi tiết nào về chuyện xảy ra sau đó, tức là chuyện thi thể Người được Adôn và Osias, hai con trai của Elíezer Ben-Akkai mang đi. Vai trò của những người Esseni trong việc thi thể của người bị hành hình biến mất phải là một bí mật tuyệt đối.

Cũng như vị trí ngôi mộ của Jesus.

Giữa hai giai đoạn đầu và cuối, ông đã thêm vào những kỷ niệm của bạn bè mình ở Jerusalem: Nicodème, Lazare, Simon người bị hủi. Một câu chuyện được viết trực tiếp bằng tiếng Hy Lạp, mô tả Jesus mà ông đã biết: trước tiên là một người Do Thái, nhưng sáng lòa khi được là hóa thân của Cha Người, vị Chúa mà Người gọi là abba. Chưa bao giờ có một người Do Thái dám dùng ngôn từ thân mật này để chỉ Thần Moise. Ông nhắc lại:

- Thế còn câu chuyện của cha, Iokhanân?

Gương mặt người đàn ông trẻ tuổi tối sầm lại.

- Nó đươc lưu truyền. Giữa các môn đồ của cha, họ thuộc lòng câu chuyện này, nhưng cả trong các Giáo hội của Paul nữa, hình như đến tận Bithynie 7.

- Và ở đó, nó không được tiếp nhận theo cùng một cách đúng không?

- Vâng, ở Judee, người Do Thái chỉ trích cha mô tả Jesus như một nhà tiên tri cao hơn cả Moise. Còn người Hy Lạp thì thấy Jesus của cha quá con người. Không ai dám hủy bỏ lời chứng của môn đồ cưng, nhưng trước khi đọc nó cho công chúng, họ sửa lại câu chuyện, họ "bổ sung", theo như cách nói của họ, và ngày càng nhiều.

- Họ không thể mổ bụng ta như mổ bụng Judas, thế nên họ loại bỏ ta bằng ngòi bút. Câu chuyện của ta sẽ trở thành một bản kinh Phúc âm thứ tư, theo đúng tham vọng của họ.

Giống như trước đây, Iokhanân quỳ xuống trước mặt abbou của mình, và nắm lấy tay ông.

- Vậy thì, thưa cha, cha hãy viết một bức thư cho chúng con, các môn đồ của cha. Con sẽ mang nó để ở một nơi an toàn, chừng nào việc đó còn có thể: những người Do Thái cuồng tín ở Jerusalem sẽ không chống cự được lâu nữa. Cha hãy viết sự thật về Jesus, và để không ai có thể xuyên tạc được, cha hãy nói điều cha biết về nấm mộ của Người. Không phải nấm mộ ở Jerusalem, nó trống không; nấm mộ thật sự, nấm mộ trong sa mạc, nơi di hài của Người đang yên nghỉ.

Giờ đây, những người lánh nạn từ khắp nơi đổ về Pella. Ngồi trên mép bờ tường thành, ông già lặng ngắm thung lũng. Từ bờ bên kia sông Jordan, đã thấy mọc lên những cuộn khói bốc ra từ những trang trại bị cháy.

Bọn kẻ cướp, những kẻ luôn đồng hành với tất cả các đội quân xâm lược. Đã đến hồi kết rồi. Ông cần phải truyền lại cho các thế hệ tương lai.

Ông cả quyết ngồi vào bàn, lấy một mảnh giấy da và bắt đầu viết: "Ta, môn đồ cưng của Jesus, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…"

Ngày hôm sau, ông đến bên Iokhanân lúc đó đang thắng yên cho con la:

- Nếu con qua được, hãy cố gắng trao bức thư này cho những người Nazareth ở Jerusalem và Syria.

- Thế còn cha?

- Cha sẽ ở lại Pella cho đến giờ phút cuối cùng. Khi nào quân La Mã đến gần, cha sẽ dẫn những người Nazareth của chúng ta đi về phía Nam. Ngay khi trở về, con hãy đi thẳng đến Qumran, họ sẽ nói cho con biết phải tìm cha ở đâu. Con trai, con hãy cẩn thận nhé.

Cổ họng nghẹn lại, ông lặng lẽ đưa cho Iokhanân một ống sậy rỗng, chàng trai nhét nó vào thắt lưng. Bên trong là một mảnh giấy da đơn giản, cuộn tròn, được buộc lại bằng một sợi dây lanh.

Bức thư của tông đồ thứ mười ba gửi cho hậu thế.

41

Men theo trang viên Doria Pamphili, cha Nil đi dọc theo đường Salaria Antica nằm lọt giữa những bức tường. Ông thích dẫm chân lên bề mặt gồ ghề của những con đường cũ kỹ trong hòang cung, nơi cách lát đá của đế chế La Mã vẫn còn hiện hữu. Trong những năm là sinh viên, ông đã say mê thám hiểm thành phố này, Mater Praecipuce – mẹ của tất cả các dân tộc. Ông quay lại con đường Aurelia, con đường dẫn ra phía sau Thành Vatican, và không ngần ngại tiến về phía tòa nhà của Cơ quan truyền bá đức tin.

Văn phòng Quan hệ với người Do Thái nằm trong khu phụ của tòa nhà, về phía nhà thờ Thánh Peter. Ông phải trèo lên tầng ba, để đến được một hành lang có những căn phòng như những cái hốc nằm ngay dưới mái nhà: văn phòng của các thư lại.

Đ.ông Rembert Leeland, O.S.B. Ông khẽ gõ cửa.

- Nil! God bless, so good to see you! 8

Văn phòng của bạn ông nhỏ xíu, ngăn cách với các phòng khác bằng một vách ngăn đơn giản. Ông chỉ có đủ một chỗ để lách vào ngồi trên chiếc ghế tựa duy nhất đặt trước một chiếc bàn trống trơn đến lạ lùng. Thấy vẻ ngạc nhiên của ông, Leeland ngượng nghịu mỉm cười.

- Tớ chỉ là một thư lại nhỏ bé trong một văn phòng không có gì là quan trọng… Thật ra, tớ chủ yếu làm việc ở nhà, ở đây tớ không có đủ không khí để thở.

- Điều này hẳn khiến cậu phải đánh đổi những bình nguyên ở Kentucky!

Mặt người đàn ông Mỹ sa sầm.

- Tớ bị đày đi, Nil ạ, vì đã nói to lên điều mà nhiều người nghĩ…

Cha Nil nhìn ông trìu mến.

- Cậu chẳng thay đổi gì, Remby ạ.

Là sinh viên ở Roma trong những năm ngay sau hội nghị Giám mục, họ đã chia sẻ với nhau những hy vọng của cả một thời tuổi trẻ tin tưởng vào sự đổi mới của Giáo hội và xã hội: những ảo tưởng đã bị gió cuốn đi, nhưng vẫn để lại dấu ấn trong họ.

- Tỉnh ngộ đi, Nil, tớ đã thay đổi nhiều, nhiều hơn tớ có thể nói: tớ không còn như trước nữa. Nhưng còn cậu? Tháng trước, chúng tớ được biết về cái chết đột ngột của một trong các tu sĩ ở tu viện của cậu, trên chuyến tàu Roma Express. Tớ nghe nói đó là một vụ tự sát, thế rồi tớ lại thấy cậu đến đây mặc dù tớ không hề yêu cầu. Có chuyện gì xảy ra thế, friend 9?

- Tớ biết rõ cha Andrei. Ông ấy không phải típ người có thể tự sát, ngược lại ông ấy đang say sưa với việc nghiên cứu chúng tớ tiến hành từ nhiều năm nay, không phải cùng nhau mà là song song. Ông ấy đã phát hiện ra những điều mà ông ấy không muốn- hoặc không thể- nói rõ ràng với tớ, nhưng tớ có cảm giác ông ấy thúc đẩy để tớ tự mình tìm ra. Tớ là người chính thức nhận diện xác chết, tớ đã phát hiện trong bàn tay ông ấy một mảnh giấy nhỏ ông ấy viết ngay trước khi chết. Cha Andrei đã ghi lại bốn điều ông ấy muốn nói với tớ ngay khi về đến tu viện. Đó không phải là bức thư của một người sẽ tự sát, mà là bằng chứng cho thấy ông ấy có những dự định cho tương lại, và muốn tớ tham gia. Mảnh giấy ấy tớ không hề cho ai biết, nhưng nó đã bị lấy cắp trong phòng riêng của tớ, và tớ cũng không biết ai lấy.

- Lấy cắp?

- Đúng, mà còn chưa hết đâu, họ còn lấy cắp một số tờ ghi chép của tớ.

- Thế còn vụ điều tra về cái chết của cha Andrei?

- Trên báo địa phương, có một mục nhỏ đăng tin về cái chết đột ngột của ông ấy, còn trên báo La Croix chỉ có một mẩu tin báo tử đơn giản. Chúng tớ không nhận được bất kỳ một loại báo nào khác, không nghe đài mà cũng không xem ti vi; các tu sĩ chỉ biết điều mà Cha tu viện trưởng muốn nói với họ trong cuộc họp. Viên cảnh sát phát hiện thi thể của ông ấy nói rằng đó là một vụ giết người, nhưng anh ta đã bị loại khỏi vụ điều tra.

- Một vụ giết người!

- Đúng, Remby ạ. Cả tớ cũng không thể nào tin nổi. Tớ muốn biết chuyện gì đã xảy ra, tại sao ông bạn của tớ lại chết. Ý nghĩ cuối cùng của ông ấy là dành cho tớ, tớ có cảm giác ông ấy gửi gắm lại cho tớ. Những ước nguyện cuối cùng của một người đã chết là thiêng liêng, nhất là khi đó lại là một người ở tầm như cha Andrei.

Với một chút ngập ngừng ban đầu, cha Nil kể cho bạn mình nghe những nghiên cứu của ông về kinh Phúc âm theo Thánh Jean, việc ông phát hiện ra môn đồ cưng. Rồi ông kể về những cuộc trò chuyện thường xuyên giữa ông và cha Andrei, nỗi lo lắng của ông ấy ở Germigny, mảnh bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ giấy trong bìa tác phẩm cuối cùng của ông ấy.

Leeland nghe ông nói, không hề cắt ngang.

- Nil, tớ lúc nào cũng chỉ biết đến có một thứ, đó là âm nhạc. Và tin học, để xử lý những bản thảo mà tớ nghiên cứu. Nhưng tớ không hiểu tại sao một nghiên cứu mang tính học thuật lại có thể gây ra những sự kiện bi thảm đến thế, và còn khiến cậu lo sợ như vậy.

Vì cẩn trọng, ông không nói gì với bạn mình về yêu cầu cảu Hồng y đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin.

- Cha Andrei đã không ngừng nói với tớ bằng những câu đầy ẩn ý rằng những nghiên cứu của chúng tớ đụng chạm đến điều gì đó quan trọng hơn nhiều, tớ không hiểu được điều đó. Cứ như là tớ đang phải đối mặt với một bó sợ của một tấm thảm, mà không biết mẫu phác thảo ban đầu. Nhưng bây giờ, Rembert ạ, tớ đã quyết định đi đến cùng; tớ muốn biết tại sao cha Andrei lại chết, tớ muốn biết điều gì ẩn sau bí mật mà tớ tìm kiếm từ bao năm nay.

Leeland nhìn ông, ngạc nhiên trước quyết tâm hoang dại ông đọc được trên một khuôn mặt mà ông vốn thấy điềm tĩnh và bình thản. Ông thức dậy, đi vòng qua chiếc ghế tựa và mở cửa.

- Tớ sẽ dành cho cậu toàn bộ thời gian ở đây để tiếp tục việc nghiên cứu. Nhưng trước mắt, chúng ta phải đến kho sách của Vatican đã. Tớ phải cho cậu thấy công trường nơi tớ đang làm việc, cũng là để mọi người nhìn thấy cậu ở đó; đừng quên lý do cậu có mặt ở Roma là những bản thảo Thánh ca Grégoire của tớ.

Leeland nhớ đến việc ông bị gọi đến văn phòng của Catzinger. Phải chăng cũng còn có một lý do khác nữa? Hai người im lặng đi trên những hành lang và cầu thang quanh co dẫn đến lối ra quảng trường Saint Peter.

Trong văn phòng bên cạnh văn phòng của Leeland, một người đàn ông nhấc ra khỏi đầu đôi tai nghe nối với một chiếc hộp gắn trên vách phòng bằng một giác mút. Anh ta có dáng dấp thanh lịch trong chiếc áo tu sĩ hoàn hảo, và vẫn để tai nghe treo quanh cổ trong khi nhanh nhẹn sắp xếp những tờ giấy ghi đầy những chữ tốc ký nhỏ. Đôi mắt đen đến lạ lùng của anh ta ánh lên vì thỏa mãn. Chất lượng cuộc nghe vô cùng tốt vì vách ngăn không dày lắm. Không mất một từ nào trong cuộc đối thoại giữa Đức ông người Mỹ và vị tu sĩ người Pháp. Hẳn là chỉ cần để hai người với nhau, họ sẽ thao thao bất tuyệt.

Hội trưởng Hội Thánh Pie V hẳn sẽ hài lòng: nhiệm vụ đã bắt đầu một cách tốt đẹp.

42

- Kho sách nằm dưới tầng hầm của Vatican, tớ đã phải đề nghị cấp giấy phép cho cậu, vì việc tiếp cận phần này của tòa nhà được kiểm soát chặt chẽ- khi vào đến nơi cậu sẽ hiểu tại sao.

Họ đi dọc theo bức tường cao của Thành Vatican và vào bên trong qua cửa trên đường Porta Angelica nơi đặt trạm gác chính. Hai người Thụy Sĩ mặc đồng phục xanh để họ đi qua mà không ngăn lại, và họ bước qua một loạt sân trong, cho đến tận sân Belvedere. Được những bức tường thành bao bao quanh, sân này bao bọc Phòng trưng bày đá của các bảo tàng và Thư viện Vatican. Mặc dù mới sáng sớm nhưng đã thấp thoáng những bóng người di chuyển phía sau cửa kính.

Leeland ra hiệu cho cha Nil đi theo mình và tiến về góc đối diện. Dưới chân bức tường đồ sộ của Vatican, một cánh cửa nhỏ bằng kim loại có gắn một chiếc hộp. Tu sĩ người Mỹ bấm mật mã và chờ đợi.

- Một số người được chọn kỹ càng có giấy phép thường xuyên, giống như tớ. Nhưng cậu thì sẽ phải nói đúng mật khẩu để vào.

Một viên cảnh sát thuộc Tòa Thánh mặc thường phục mở cửa, và nhìn chằm chằm vào mặt hai vị khách với vẻ nghi ngờ. Khi nhận ra Leeland, anh ta nở nụ cười.

- Buongiorno, monsignore 10. Tu sĩ này đi cùng ông à? Tôi có thể xem giấy tờ và giấy phép của ông ấy không?

Cha Nil đã mặc lại trang phục tu sĩ của mình; ở đây điều này sẽ làm cho mọi sự dễ dàng hơn, Leeland đã giải thích với ông như vậy. Họ bước vào một phòng kiểu như phòng thông áp, và cha Nil chìa ra một mảnh giấy cho người bảo vệ của Vatican. Viên cảnh sát cầm mảnh giấy, không nói một lời, rồi biến mất.

- Việc kiểm tra rất chặt chẽ, người bạn Mỹ của ông thì thầm. Thư viện Vatican mở cửa cho công chúng, nhưng kho sách ở tầng hầm lưu giữ những bản thảo cổ mà chỉ một vài nhà nghiên cứu hiếm hoi mới được quyền tiếp cận. Cậu sẽ gặp cha Breczinsky, người trông coi chỗ này. Do giá trị không thể ước lượng được của kho báu ở đây, Giáo hoàng đã chỉ định một người Ba Lan đảm nhận chức vụ này, một người nhút nhát và mờ nhạt, nhưng toàn tâm toàn ý tận tụy với Đức Thánh Cha.

Viên cảnh sát quay lại, trả giấy phép cho cha Nil kèm theo một cái gật đầu.

- Cần trình giấy này mỗi lần ông đến đây. Ông không được phép vào một mình, mà chỉ khi đi cùng Đức ông Leeland, người có giấy phép thường xuyên. Hãy theo tôi.

Một hành lang dài, dốc thoai thoải chạy xiên xuống phía dưới tòa nhà và dẫn đến một cánh cửa bọc sắt. Cha Nil có cảm giác bước vào một thành trì sẵn sàng cho một cuộc vây hãm. "Nơi này ẩn kín dưới trọng lượng hàng nghìn tấn của nhà thờ Saint Peter. Lăng mộ của Thánh tông đồ cách đây không xa." Viên cảnh sát đưa vào một tấm thẻ từ và gõ mã số: cánh cửa mở ra với một tiếng rít.

- Đức ông, ông đã biết chỗ rồi. Cha Breczinsky đang đợi các ông.

Người đàn ông đứng sau cánh cửa bọc sắt thứ hai có gương mặt xanh xao, càng nhợt nhạt hơn bên trên chiếc áo dòng màu đen vừa khít. Một cặp kính tròn trên đôi mắt cận.

- Xin chào Đức ông, và đây là ông người Pháp mà tôi đã nhận được một giấy ủy nhiệm của Cơ quan truyền bá đức tin?

- Chính là ông ấy, cha thân mến. Ông ấy đến giúp tôi; cha Nil là tu sĩ ở tu viện Saint-Martin.

Breczinsky giật mình.

- Cha có tình cờ là đạo hữu của cha Andrei không?

- Chúng tôi đã là đạo hữu trong vòng ba mươi năm.

Breczinsky mở miệng như để hỏi cha Nil một câu, nhưng lại thôi và giấu vẻ bối rối của mình bằng một cái gật đầu nhẹ. Ông quay sang Leeland.

- Đức ông, phòng làm việc đã sẵn sàng. Mời các ông theo tôi…

Họ im lặng đi theo ông qua một dãy những căn phòng có mái vòm, thông với nhau bằng một cửa vào rất rộng cũng hình vòm. Các bức tường phủ đầy những kệ sách có lắp kính, ánh sáng tỏa ra đều khắp, và âm thành vo vo báo hiệu sự có mặt của thiết bị đo độ ẩm là thứ cần thiết cho việc bảo quản những bản thảo cổ. Cha Nil lướt ánh mắt nhìn những giá sách mà họ đi qua: Cổ đại, Trung cổ, Phục hưng, Risorgimento… Những cái nhãn cho phép đoán ra đây là những bằng chứng quý giá nhất của Lịch sử phương Tây, mà ông có cảm giác vừa trải qua toàn bộ chỉ trong vài chục mét.

Vui thích trước vẻ ngạc nhiên của ông, Leeland thì thầm:

- Trong khu âm nhạc, nơi duy nhất tớ có quyền sử dụng, tớ sẽ chỉ cho cậu những bản thảo dàn bè tự viết của Vivaldi, những trang Messie của Haendel, và tám khuôn nhịp đầu tiên trong bản Lacrymosa của Mozart: những nốt nhạc cuối cùng do chính tay ông viết khi đang hấp hối. Chúng ở đây….

Khu âm nhạc nằm ở phòng cuối cùng. Ở giữa, dưới hệ thống chiếu sáng có thể điều chỉnh được, là một chiếc bàn trống trơn mặt kính, trên đó kiếm không ra một hạt bụi.

- Ông đã biết chỗ rồi, Đức ông. Tôi sẽ để các ông ở đây. Ờ…- dường như ông đang phải gắng sức – cha Nil, ông có thể qua văn phòng tôi không? Tôi phải tìm cho ômg một đôi găng đúng cỡ tay ông, ông cần đến nó để lật giở bản thảo.

Leeland có vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn để cha Nil đi theo viên thủ thư vào một văn phòng trông thẳng ra phòng họ. Breczinsky cẩn thận đóng cửa sau lưng họ, lấy một cái hộp trên giá rồi quay sang cha Nil, vẻ bối rối.

- Cha ạ… tôi có thể hỏi ông thực chất mối quan hệ giữa ông và cha Andrei là thế nào không?

- Chúng tôi rất thân thiết, nhưng tại sao?

- Thì là tôi… tôi có trao đổi thư từ với ông ấy, thỉnh thoảng ông ấy hỏi ý kiến tôi về những bản khắc thời Trung cổ mà ông ấy đang nghiên cứu.

- Vậy là…Là ông à?

Cha Nil nhớ lại: "Tôi đã gửi ảnh chụp phiến đá Germigny cho một người làm việc ở Vatican. Ông ấy trả lời là đã nhận được, không bình luận gì thêm."

- Cha Andrei đã nói với tôi về người trao đổi thư từ với ông ấy ở Thư viện Vatican, tôi không biết đó là ông và không nghĩ là có dịp được gặp ông!

Breczinsky cúi đầu mân mê những chiếc găng tay đựng trong hộp theo phản xạ.

- Ông ấy thường nhờ tôi giải thích kỹ hơn về chuyên môn, giống như những nhà nghiên cứu khác, dù cách xa nhau nhưng chúng tôi đã thiết lập được một mối quan hệ tin cậy. Rồi một hôm, khi đang sắp xếp kho bản thảo tiếng Ai Cập cổ, tôi thấy một mảnh bản thảo rất nhỏ, nhìn như đến từ Nag Hamadi, chưa được dịch. Tôi đã gửi cho ông ấy, hình như ông ấy rất bối rối vì mảnh bản thảo này, và gửi trả lại tôi mà không dịch. Tôi đã viết thư cho ông ấy về vấn đề này, thế là ông ấy fax cho tôi bức ảnh chụp một bản khắc từ thời Carolingien, được tìm thấy ở Germigny và hỏi tôi nghĩ gì về nó.

- Tôi biết, chúng tôi đã cùng chụp bức ảnh đó. Cha Andrei có cho tôi biết về công việc của ông ấy. Hầu như toàn bộ.

- Hầu như?

- Vâng, ông ấy không nói hết với tôi, và không che giấu điều đó, điều này luôn khiến tôi ngạc nhiên.

- Sau đó, ông ấy đã đến đây. Đó là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, một cuộc gặp… rất ấn tượng. Rồi ông ấy biến mất, tôi không bao giờ gặp lại ông ấy nữa. Tiếp đó tôi được biết về cái chết của ông ấy đăng trên tờ La Croix, một vụ tai nạn, hay là một vụ tự sát…

Breczinsky có vẻ rất lúng túng, mắt ông lẩn trốn ánh mắt cha Nil. Cuối cùng ông cũng đưa cho cha Nil một đôi găng tay.

- Ông không thể ở cùng tôi quá lâu, ông phải quay về phòng. Tôi… chúng ta sẽ nói chuyện với nhau sau, cha Nil ạ. Sau này, tôi sẽ tìm ra cách. Ông hãy đề phòng mọi thứ ở đây, kể cả Đức ông Leeland.

Cha Nil mở to mắt kinh ngạc.

- Ông muốn nói gì? Chắc là ở Roma, tôi sẽ không gặp gỡ ai khác ngoài ông ấy, và tôi hoàn toàn tin tưởng. Chúng tôi đã cùng học đại học với nhau, tôi biết ông ấy từ lâu rồi.

- Nhưng ông ấy đã sống ở Vatican một thời gian. Nơi này biến đổi tất cả những người đến gần nó, họ không bao giờ còn là mình nữa… Thôi nào, quên điều tôi vừa nói với ông đi, nhưng ông hãy cẩn thận nhé!

Trên bàn, Leeland đã trải một bản thảo ra.

- Ông ta tìm cho cậu một đôi găng tay mới lâu làm sao! Trong khi có một ngăn tủ đầy ở phòng bên cạnh, tất cả các cỡ…

Cha Nil không đáp lại ánh mắt lo lắng của bạn mình, và lại gần chiếc kính lúp to tướng hình chữ nhật nhô ra bên trên bản thảo. Ông liếc mắt nhìn vào.

- Không có phần chữ trang trí, chắc là trước thế kỷ X rồi. Làm việc thôi, Remby!

Buổi trưa, họ ăn một chiếc sandwich Breczinsky mang cho. Bỗng nhiên, với vẻ rất niềm nở, người Ba Lan này đề nghị cha Nil giải thích công việc của ông.

- Trước hết là đọc hiểu văn bản bằng tiếng Latin của các bản thảo chép Thánh ca Grégoire. Sau đó dịch văn bản bằng tiếng Hê brơ của các bài hát Do Thái cổ có giai điệu gần giống, rồi so sánh… Tất nhiên, tôi chỉ phụ trách phần văn bản, Đức ông Leeland chịu trách nhiệm phần còn lại.

- Đối với tôi, tiếng Hê brơ cổ thật khó hiểu, cũng như những chữ viết thời Trung cổ, người bạn Mỹ của ông vừa cười vừa giải thích.

Khi họ ra đến bên ngoài, mặt trời đã ở thấp dưới chân trời.

- Tớ quay về San Girolamo luôn đây, cha Nil cáo lỗi, không khí điều hòa khiến tớ đau đầu.

Leeland chặn ông lại: họ đang ở giữa quảng trường Saint Peter.

- Tớ có cảm giác cậu đã gây ấn tượng mạnh cho Breczinsky. Bình thường, ông ta không nói quá ba câu liên tục. Thế nên, ông bạn ạ, tớ phải nhắc cậu: hãy đề phòng ông ta.

"Lại đề phòng! Chúa ơi, con rơi vào nơi nào thế này?"

Vẻ mặt nghiêm trọng, Leeland nhấn mạnh:

- Cậu hãy cẩn thận để không sơ suất gì. Nếu ông ta nói chuyện với cậu, thì là để thăm dò cậu thôi. Ở đây, không có gì, không có ai là vô hại cả. Cậu không biết Vatican nguy hiểm