Chương 32 & 33
“Ồ, sao mà tôi căm ghét bọn quỷ lùn thế,” Perenelle Flamel rên rỉ.
Sinh vật đang lúc lắc bước xuống con đường hẹp bằng đá trông như người nguyên thủy. Thấp chủm, béo ị, nét mặt đần độn, phẳng bẹt, toàn thân phủ đầy lông màu đỏ quạch trơn nhờn, gần như không thể phân biệt được với lớp da thú bao phủ lấy thân mình. Nó mang một lưỡi dao được đẽo gọt từ phần xương chày của loài thú đã tuyệt chủng trước cả khi khủng long còn dạo chơi trên mặt đất này. Hai mắt của sinh vật ấy có màu tuyết bẩn, và khi mỉm cười, hàm răng nhọn hoắt của nó thật đáng kinh sợ.
“Thứ đó vừa liếm môi có phải không?” Nữ Phù Thủy hỏi, ghê tởm.
“Bữa ăn tối kìa,” con quỷ lùn nói, bằng một giọng trong và sáng đến ngạc nhiên. Có một chút trọng âm.
“Hiếm khi nào chúng đi một mình...” Nicholas mới nói tới đó.
Có tiếng lích kích, như móng vuốt cào bới, và rồi thêm hai con, một con là giống cái không lẫn vào đâu được, mái tóc đỏ quạch hoang dã cột thành hai đuôi ngựa, ló ra khỏi màn sương xoắn vặn. Ngay cả trong mùi biển và mùi thịt hôi hôi của sương mù, cái thứ thối um tỏa ra từ lũ sinh vật kia vẫn hoàn toàn áp đảo.
“Không phải quỷ lùn.” Gương mặt phái nữ vặn vẹo kinh tởm. “Chúng là bọn quái thú bẩn thỉu. Còn chúng tôi là Fir Dearg,” mụ nói đầy vẻ tự hào.
“Đúng, nói một cách nghiêm túc, chúng tôi là Fir Dearg,” một tên trong lũ sinh vật kia nói. “Chúng tôi là phái nam. Bà là Mna Dearg. Phái nữ.”
Thở dài, Nữ Phù Thủy tựa vào cây đinh ba bằng đá, biến ba sinh vật kia thành đá chỉ với một động tác duy nhất của bàn tay. “Ít ra thì bọn quỷ lùn cũng còn muốn ăn thịt mình và không nói mình phải chết.”
“Lẽ ra còn tệ hơn,” Nicholas nói. Ông bước về phía các sinh vật đã bị đóng băng và vỗ nhè nhẹ vào một con con giống cái, khi đi ngang qua. Hai con mắt màu vàng trừng trừng nhìn ông qua gương mặt bằng đá. “Đáng ra chúng có thể là lũ yêu tinh.”
Perenelle rùng mình. “Mình biết tôi ghét bọn yêu tinh hơn hầu hết mọi thứ mà.”
Di chuyển cẩn thận, Nhà Giả Kim và Nữ Phù Thủy đi theo con đường hẹp vòng quanh hòn đảo ra tới mảnh đất bên rìa cảng. Họ có thể nghe thấy bọn Nữ Thần Biển dõi theo hướng họ đi, bắn nước tung tóe phía bên phải họ.
“Dee không phải là một tên ngốc,” Nicholas nói. Ông dừng hẳn lại khi họ đến cầu tàu nơi những con tàu chở du khách từng có lần đậu ở đây, ông quay nhìn cầu tàu trống trơn. “Hắn đã quy tụ bọn sinh vật này trên đảo...”
Một đứa bé trai mặt chuột ló ra khỏi màn đêm, lao thẳng vào Nhà Giả Kim, hai bàn tay quắp lại thành móng vuốt. Perenelle xoay tròn, giẫm vào cái đuôi của nó khi nó đi ngang qua bà, khiến nó dừng lại kêu một tiếng két. Hắn quay sang Nữ Phù Thủy, bà lặp lại câu thần chú vừa sử dụng, biến nó thành đá. Thằng nhỏ đông cứng người, một con mắt mở một con mắt nhắm, mãi mãi trong tư thế nháy mắt.
Không xoay người, Nicholas nói tiếp. “Chắc phải có một kế hoạch tương ứng để đưa các sinh vật này lên bờ chứ.”
“Cách duy nhất để tới hoặc rời hòn đảo này là bằng thuyền,” Perenelle nói, “Có lẽ kế hoạch thay đổi chăng, hoặc các biến cố chuyển dịch quá nhanh khiến hắn không thể điều chỉnh theo thang thời gian mới. Mình nhớ không, từ khai thiên lập địa, các Elder đâu có được đến Vương quốc Bóng Tối Trái Đất mà phải đợi tới thời Litha. Mà thời Litha vẫn còn hai tuần nữa lận.”
“Chắc hẳn Dee đã có những kế hoạch để đối phó với tình huống bất ngờ. Hắn phải mất nhiều tháng trời để mang lũ sinh vật kia đến đây cơ mà. Nhưng làm thế nào nhĩ? Chẳng có đường tuyến nào trên hòn đảo này cả.”
Perenelle gật đầu. “Mà không ai trong chúng ta cảm thấy bất kì quá trình sử dụng năng lượng nào hết. Phải dùng thuyền thôi.”
“Theo mình nói thì đâu là cách duy nhất để rời khỏi đảo.” Nicholas suy nghĩ một lát. “Hắn đã sai Lotan lên bờ để giáng cơn thịnh nộ khắp đường phố. Khi đã có được sự chú ý của mọi người rồi, tôi cược là một chiếc thuyền chở nặng các sinh vật được đưa vào lịch trình để từ Alcatraz chạy qua và tham gia vào cuộc vui ấy cho xem.”
“Và khi Dee biến mất, sẽ để lại Rắn Lông thay thế?”
“Hoặc Bastet,” Flamel gợi ý. “Chúng ta đều biết Dee hợp tác với cả hai mà.”
“Tôi tưởng Dee làm việc với Quetzalcoatl chứ. Rắn Lông sống ở đây, đúng, ít ra thì cũng rất gần,” Perenelle nói. “Và mình nhớ không, khi tôi bị nhốt trên đảo, Areop Enap đã bị bầy ruồi tấn công. Chắc Quetzalcoatl sai đến đấy.”
“Vậy là Quetzalcoatl đang sai một chiếc thuyền đến,” Nicholas chợt nói, “nhưng chúng ta đâu có thấy gì trên biển. Không có thứ gì đi ngang qua chúng ta hết.”
“Có một chọn lựa khác,” Perenelle bỗng xen vào.
Nicholas nhìn bà, rồi gật đầu. “Trừ phi là nó đã ở đây sẵn rồi,” ông thều thào.
“Nhưng nó có thể ở đâu được chứ?” Perenelle hỏi, chợt cảnh giác. “Không thể có nhiều chỗ cập bến trên Alcatraz được.”
Chụp lấy tay vợ, Nicholas kéo Perenelle qua cái giá đứng trước tiệm sách bên trên có sơ đồ hòn đảo, bề mặt tráng nhựa mỏng lốm đốm sương, ông rà rà bàn tay lên đó. Một tấm bản đồ đơn giản vẽ hòn đảo với tất cả các tòa nhà đều được tô màu xám, con số ghi màu đỏ. Phía trên, trong những dải đỏ đen luân phiên là phần giải thích những con số ấy.
“Chúng ta đang ở cầu tàu này đây,” ông vừa nói, vừa chạm vào đáy bên phải của sơ đồ. Có một con số hai nằm dọc theo vòng tròn màu đỏ ghi hàng chữ BẠN ĐANG Ở ĐÂY.
Perenelle lần ngón tay lên dọc theo bờ biển, đi ngang qua tháp canh và nhà gác, lên tới xưởng phát điện. “Số sáu đâu?” bà hỏi. “Trông có vẻ như là một kiến trúc trọng yếu.”
Nicholas kiểm tra con số. “Sáu là đường Bắc. Có ghi Các khu chức năng nhà tù đây này.”
“Nhìn Nhà kho Hậu cần xem,” bà nói. “Nó to lớn, nằm gần nước, cạnh bên nhà máy điện ấy. Mình có thể mang một con thuyền lên thẳng trên đảo, và trong màn sương thế này thì không ai khôn ngoan hơn.”
“Nó cách bao xa?”
“Nicholas, đây là Alcatraz mà. Cách mười phút thôi.”
“Trong sương mù thế này?” ông hỏi đầy hồ nghi.
“Đúng.” Bà trợn mắt. “Có thể chúng ta thì phải mất mười lăm phút đấy.”
Chương 33Xuyên qua màn sương bao phủ, âm thanh leng keng của kim loại khua ngang qua cầu Cổng Vàng. Niten thu mình vào tư thế ngồi ngay giữa cầu, có thể cảm nhận được cơn chấn động rung lên qua mặt đất. Anh mỉm cười trước hình ảnh bất chợt hiện đến, Prometheus đang quăng mấy chiếc xe hơi từ bên này cầu sang bên kia cầu để làm rào chắn. Nghe tiếng lanh canh nho nhỏ của kính xe, anh tự hỏi không biết bị một Elder ném qua cầu Cổng Vàng thì chúng có được bảo hiểm không nhỉ.
Người bất tử Nhật Bản nhỏ nhắn ngồi xếp bằng, hai thanh kiếm của anh nằm dài trên khoảnh đất trước mặt. Anh xếp hai tay để trên lòng, nhắm mắt, thở bằng mũi, ép không khí đêm lạnh buốt xuống sâu vào ngực. Anh giữ hơi đếm đến năm, rồi há miệng hình chữ O thổi hơi ra trở lại, đâm thủng một lỗ trong màn sương xoắn vặn trước mặt.
Mặc dù chưa bao giờ thừa nhận với mọi người, nhưng Niten thích thời điểm này lắm. Anh không yêu thích những gì sắp xảy đến, nhưng thời gian ngắn ngủi này, khi mọi chuẩn bị cho cuộc chiến đã được thực hiện và không còn gì phải làm nữa ngoài việc chờ đợi, khi toàn bộ thế giới rơi vào im lặng, như thể nín thở, thì thật đặc biệt. Thời điểm này, khi anh sắp đối mặt với cái chết, là khi anh cảm thấy được sống hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất.
Anh vẫn được gọi là Miyamoto Musashi và hẵng còn là thiếu niên khi lần đầu khám phá ra vẻ đẹp chân thật của giờ khắc yên tĩnh trước trận chiến. Từng hơi thở chợt nghe có vị như một món ăn tinh tế nhất, từng âm thanh đều dễ nhận diện và siêu phàm, thậm chí trên những chiến trường hôi hám bẩn thỉu nhất, mắt anh luôn bị thu hút bởi điều gì đó thật giản dị và thanh cao: một đóa hoa, một cành cây tạo dáng, hay chỉ là một lọn mây.
Nhiều trăm năm trước, Aoife đã tặng anh một cuốn sách làm quà sinh nhật. Anh đã không nỡ nói với cô rằng cô đã lỡ sinh nhật anh gần cả tháng rồi, mà anh trân quý cuốn sách ấy lắm, ấn bản lần đầu của cuốn The Professor viết bởi Charlotte Brontë. Có một dòng anh không bao giờ quên: Giữa lúc đang sống là chúng ta đang chết. Nhiều năm sau, anh nghe Gandhi cũng lấy những chữ ấy, đổi lại một chút để tạo ra một ý tưởng âm vang sâu thẳm trong lòng anh: Giữa cái chết sự sống vẫn kiên gan.
Niten đem lòng yêu chiến đấu đã từ lâu lắm rồi.
Không có danh dự trong chiến tranh, càng ít hơn nữa trong giết chóc và tuyệt đối không có trong cái chết dần mòn. Nhưng có phẩm giá chân chính nơi cách người ta xử sự với nhau trong trận chiến. Và lúc nào cũng tìm thấy danh dự trong thái độ ủng hộ chính nghĩa và bảo vệ những kẻ không được bảo vệ.
Khum khum hai bàn tay đang đặt trên lòng, Niten triệu hồi một chút luồng điện. Luồng điện đọng lại trong lòng bàn tay anh, một chất lỏng xanh lam sẫm rung rung trên lớp da thịt sậm màu, da anh đầy những vết sẹo và chai sần vì nhiều thế kỉ cầm kiếm. Anh thổi vào đó, chất lỏng đặc lại. Niten dùng lòng bàn tay lăn như nhào bột, tạo ra một khối cầu màu xanh lơ nhỏ xíu, rồi ép dẹp lại thành một hình hơi có dạng chữ nhật, trông như miếng giấy màu xanh cứng đơ đơ. Hết sức cẩn thận, người bất tử nắn nót gấp các cạnh của tờ giấy ấy vào, xếp một lần rồi xếp một lần nữa làm thành con kame, một con rùa tinh xảo theo nghệ thuật gấp giấy origami.
Đặt con rùa màu xanh lơ lên cây cầu trước mặt, Niten cầm hai thanh kiếm lên và nhòa dần vào vùng bóng tối ngay khi con Spartoi đầu tiên vừa ló ra khỏi màn sương.
“Minikui,” Niten thì thào. “Đồ xấu xa.”
Trước đây, người bất tử đã chiến đấu với nhiều loài quỷ sứ và từ lâu đã học biết rằng không bao giờ được đánh giá theo vẻ bề ngoài. Khái niệm về cái đẹp thay đổi từ đất nước này sang đất nước kia và thậm chí từ thế hệ này sang thế hệ kia, nhưng anh nghi ngờ không biết có ai lại cho loài Spartoi là xinh đẹp không. Thậm chí một con Spartoi nào khác cũng được.
Lùn tịt, béo ị, trông như một con cá sấu đang đi bộ bằng hai chân. Nó cao chừng một mét rưỡi, thân mình tròn trịa, da ú nần và đầy vảy, cùng với một cái đầu hình thù như cái nêm của loài cá sấu. Hai con mắt vàng chóc to tướng, con ngươi là hai cái khe màu đồng nằm tách xa nhau trên đỉnh đầu, lúc này đang nhìn xuyên qua màn tối. Khi nó há miệng, từng hàng răng lởm chởm khoe ra cùng với cái lưỡi dày màu trắng xác nằm bất động.
Niten đã trông thấy họ hàng nhà rắn trước kia. Chúng xuất hiện trong truyện thần thoại gần như chỉ vài quốc gia trên trái đất này, và phần nhiều các Vương quốc Bóng Tối gần kề đều có các sinh vật thằn lằn cư trú. Hầu như không có ngoại lệ, loài thằn lằn khinh rẻ loài có vú, còn loài có vú lại kinh sợ loài thằn lằn.
Đầu để trần, sinh vật này được bao phủ trong một chiếc áo choàng khoét lỗ dài ngang gối trông như được làm bằng chính da của nó. Nó cầm một cái khiên nhỏ hình tròn được bao phủ cùng một loại chất liệu, và hai hàn tay gần giống tay người của nó nắm chặt một cây gậy chiến đồ sộ đầu lớn bè.
Niten đánh giá sinh vật ấy bằng con mắt của một chiến binh.
Con Spartoi mang một bộ giáp nhẹ, phần đầu dễ tổn thương. Nó chỉ được trang bị một cây gậy tày, không dài bằng thanh đoản kiếm của Niten, vì thế anh được lợi thế là có thể tấn công mà không áp quá gần. Người bất tử hơi thất vọng. Anh đã mong đợi thứ gì đó ghê gớm hơn một chút. Có lẽ Quetzalcoatl nghĩ chỉ cần nhìn thấy con Spartoi đã khiến con người kinh khiếp mà quy phục chăng. Vả lại, theo kinh nghiệm của Niten, các Elder vẫn thường có thông tin sai lệch một cách đáng kể về giống loài họ muốn thống trị và về thế giới họ cần kiểm soát.
Niten chăm chú nhìn sinh vật đang tiến đến gần con rùa giấy origami màu xanh lơ. Nếu nó thông minh - đúng, giá mà nó thông minh, thì chắc hẳn nó sẽ không bao giờ đến gần con rùa trước tiên như vậy, nếu nó thông minh, nó sẽ lẩn trở lại vào bóng đêm và chờ quân tiếp viện. Cái đầu xoay qua xoay lại, con Spartoi bò tới gần con rùa xanh. Nếu nó thật sự ngu ngốc, Niten dự đoán, có thể nó sẽ đứng xuống trên bốn chân để hít hít ngửi ngửi vật đó. Tay người bất tử nắm chặt chuôi kiếm khi anh đánh giá được điểm yếu của sinh vật. Anh sẽ nhắm nó vào dưới cánh tay, hoặc xuyên qua miệng.
Con Spartoi thả mình xuống trên bốn chân và đong đưa cái đầu qua hình giấy origami.
Vậy là ngu ngốc rồi.
Màn sương xoáy tít quanh anh như tấm áo choàng, Niten phóng ra khỏi màn đêm, thanh katana giơ lên, rồi hạ xuống trong tiếng rít chết người.
Con Spartoi chuyển động.
Nhanh như chớp, cái khiên của con thằn lằn đưa lên, thanh kiếm của Niten chát chúa bật ra cùng với từng tia lửa sáng chói. Cây gậy tày của sinh vật kia đánh mạnh ngay giữa ngực người bất tử, và Niten lập tức biết rằng xương sườn đã bị gãy. Lực của cú đánh hất anh quay tít, anh ngã rầm xuống đất tuốt phía xa của cây cầu.
Con Spartoi không thèm đếm xỉa đến người bất tử vừa bị ngã. Nó xúc con rùa xanh lên, thảy vào miệng. “Trà xanh,” nó nói bằng giọng thầm thì khọt khẹt. “Món ưa thích của ta.”
Niten lồm cồm đứng dậy, nhăn mặt vì cơn đau trong ngực. Anh hít thở sâu, áng chừng vết thương. Hai xương sườn, có lẽ ba, bị gãy, có lẽ cũng chừng ấy bị nứt. Anh co mình trong tư thế chuẩn bị và di chuyển trở lại sinh vật kia.
“Mi sỉ nhục ta đấy, người bất tử,” con Spartoi nói. “Mi nhìn ta và tưởng đây là một sinh vật cục súc, mi cho rằng rái bẫy thô thiển của mi sẽ gài được ta sao.”
Bất thình lình Niten ý thức là có các hình thù khác trong vùng bóng tối nữa. Con Spartoi đã bò đến sát anh và vừa đứng vừa quan sát. Rồi anh biết mình đã phạm phải một sai lầm nguy kịch: đánh giá thấp kẻ thù.
Con Spartoi đi trên hai chân sau, tiến về phía Niten, khiên và gậy đan vào nhau theo một kiểu mẫu đầy mê hoặc. Phần còn lại của thân thể thu khép vào để hình thành nên một vòng tròn xung quanh. “Trong thế giới này, mi có được vinh dự làm một chiến binh vĩ đại không?”
“Ta là Miyamoto Musashi. Vào thời này ta được gọi là Niten và không ai biết đến, nhưng người mà ta từng hiện thân thì đến nay vẫn còn được tôn vinh.”
“Mi phải tự xét mình là một chiến binh dũng cảm mới dám đứng đây một mình chống lại chúng ta chứ.”
“Ta xét thấy chuyện này là cần thiết.”
“Mi sẽ chết,” sinh vật kia nói nghe ộp ộp.
“Mọi người mọi thứ đều chết cả,” Niten nói khi anh đã dịch dần tới gần con Spartoi. “Và khi ta ra đi, sẽ có nhiều người hơn nữa chống lại bọn mi.”
“Nhiều người đó cũng sẽ ngã gục thôi.”
Niten tấn công khi sinh vật còn đang nói. Phớt lờ cơn đau nơi lồng ngực, anh chặt, chém liên tục. Động tác thứ nhất là đòn nhử kéo cái khiên giở lên, động tác thứ hai dành để lấy đầu nó.
Con Spartoi dùng gậy chặn cú chém, và vì lực va chạm này, thanh katana của Niten bị gãy. Ba phần tư thanh kiếm văng bật vào bóng đêm. Rìa cái khiên tròn của con Spartoi vung vòng lên đánh trúng cánh tay trái của người bất tử, làm tê liệt hoàn toàn từ vai đến đầu ngón tay, còn thanh đoản kiếm của anh rơi lanh canh xuống đất.
“Chúng ta là Spartoi. Một bộ ba mươi hai. Luôn luôn là ba mươi hai. Chúng ta chiến đấu giỏi hơn con người bọn mi, người bất tử ạ. Chúng ta nhanh nhẹn hơn bọn mi rất nhiều. Ta nhìn mi và thấy mi di chuyển như một con ốc sên. Ta có thể nhìn thấy cơ bắp mi căng lên rất lâu trước khi chúng chuyển thành hành động. Mi tưởng mình im lặng, nhưng từng hơi thở của mi đều là tiếng khò khè ầm ào và mi giậm chân loanh quanh nặng nề như một con voi đi trên cỏ.”
Bàn tay Niten cử động và đầu thanh katana gãy lởm chởm cắm trúng giữa ngực con Spartoi. Hai mắt mở lớn, miệng há hoác kinh ngạc, nó loạng choạng bước trở vào màn sương. “Mi nói nhiều quá đấy,” Niten thì thầm.