← Quay lại trang sách

I. B phần 3 Chủ Nghĩa Quốc Gia trong cuộc chiến Pháp – Viêt Minh

Cả Hiến Pháp và chính phủ nước VNDCCH, năm 1946, đã nhanh chóng bị chìm lắng khi Việt Minh chuyển hướng dần đến chiến tranh với Pháp. Một loạt các đụng độ vũ trang trong tháng mười, tiếp theo bằng một cuộc chiến quy mô lớn tại Hà Nội vào cuối tháng Mười Hai, phá hủy những gì còn lại của tình trạng giữ nguyên nguyên trạng giữa Pháp-Việt. Chính phủ VNDCCH đã rút lui lên vùng rừng núi và duy trì một nhà nước vô hình. Việt Minh, chính là Mặt Trận Liên Việt – tự mình biến thành một tổ chức kháng chiến nữa bí mật, và quyết tâm đánh bại quân Pháp. Trong năm đầu của cuộc chiến tranh năm 1947, VNDCCH đã đi những bước để nâng cao tính chất liên minh của mình, và mở rộng lời kêu gọi của Việt Minh. Cộng sản, bao gồm cả Võ Nguyên Giáp, đã được loại bỏ khỏi nội các, và những người Công giáo và và những người không đảng phái lỗi lạc được thêm vào. Sau đó, chính phủ chuyển mình đều đặn ở về cánh tả. Một năm sau đó, Phạm Văn Đồng, cộng sản cao cấp nhất, đã trở thành Phó Chủ Tịch. Hơn nữa, ban đầu kháng chiến chống Pháp là do nhiều phe nhóm chính trị khác nhau, cuối cùng Việt Minh, do có tổ chức và lãnh đạo cao, đã chiếm lại độc quyền của họ trên phe quốc gia kháng chiến.

Trong một cuộc khảo sát về các phong trào chính trị chính ở Việt Nam trong giai đoạn 1947-1950. Hai nhóm chính đã tồn tại: nhóm Việt Minh mà cộng sản là trung tâm và các tổ chức phụ thuộc trong kháng chiến chống Pháp, và nhóm quốc gia chung sức trong việc phục hồi Bảo Đại.

Những Phong Trào Chính Trị ở Việt Nam, 1947-1950

Đảng hay Nhóm

Mô tả

Kháng Chiến

Việt Minh (hay Liên Việt)

(Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội)

Là bộ máy chính trị duy nhất có tầm hoạt động rộng khắp Việt Nam và khắp [các tầng lớp] xã hội ở Việt Nam. Có danh tiếng qua Thế Chiến II, nhưng đã đưa ra học thuyết mới cho hoạt động chính trị và quân sự. Lãnh đạo hiệu quả, và dựa nhiều vào uy tín của Hồ là người chủ nghĩa quốc gia ưu tú. Chính thức sáp nhập với Liên Việt vào tháng Ba năm 1949.

Đảng Cộng Sản Việt Nam

Tuy bề ngoài là đã bịgiải thể, nhưng rõ ràng vẫn là chức năng cốt lõi của Việt Minh. CIA ước tính số đảng viên đã tăng trong những năm qua như sau:

1950: 400.000

Đảng tuyệt đối tuân theo đường lối “mặt trận dân tộc”, vẫn duy trì trong bí mật, và làm việc thông qua Việt Minh.

Đảng Dân Chủ

Một nhóm nhỏ trong Việt Minh thuộc tầng lớp trung lưu chủ yếu là người gốc Bắc, trung thành với Hồ Chí Minh, và là những người ủng hộ vững chắc chính phủ VNDCCH.

Đảng Xã Hội

ở Hà Nội, phỏng theo các đảng dân chủ xã hội Âu Châu, chỉ thu hẹp trong một ít người thành lập 1946 trong Việt Minh, và ủng hộ nhất quán của chính phủ VNDCCH.

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Một nhóm nhỏ không đáng kể của VNQDD, hoạt động trong Việt Minh

Đồng Minh Hội

Một nhóm ly khai nhỏ chẳng có chút sức mạnh chính trị

Phong Trào Trốt Kít

Tập trung ở Sài Gòn, là một nhóm cộng sản thuộc phe cánh tả chống đối như nhau cả Pháp lẫn Việt Minh.Ý nghĩa chủ yếu [của nhóm này] là tiếp tục làm suy giảm hiệu quả của cộng sản ở Nam Kỳ

Phong Trào Tái Lập Bảo Đại

Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Liên Hiệp

Được thành lập ở Nam Kinh vào tháng Hai 1947, VNQDD và các nhà lãnh đạo Đồng Minh Hội, đã đạt được sự ủng hộ của Trần Trọng Kim (Thủ Tướng trong chính phủ Bảo Đại từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945), Nguyễn Hải Thần (từng là Phó Chủ tịch cho Hồ trong Đồng Minh Hội), và Nguyễn Tường Tam (VNQDD, có lần đã là Bộ trưởng Ngoại giao của VNDCCH). VNQDD, Đồng Minh Hội, Cao Đài, và các Phật tử khẳng định đoàn kết sau lưng Bảo Đại, nhưng tan đàn xẻ nghé với sự rút lui ủng hộ của giáo phái, và dưới tác động do các hành động chính trị của Pháp.

Đồng Minh Hội

Tái thành lập ở Trung Quốc vào năm 1946, nhưng không bao giờ một lần nữa đạt ảnh hưởng ởi Việt Nam; có lẽ số thành viên là 5.000 hoặc ít hơn. Khi chiến tranh nổ ra, ĐMH đã tìm cách hòa giải với Việt Minh, nhưng đã bị từ chối. Đong đưa với Bảo Đại, mặc dù chủ trương một đường lối cứng rắn với Pháp

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Thừa hưởng những uy tín truyền thống từ những năm 1930, nhưng liên quan chặt chẽ với vận may suy yếu của Tưởng Giới Thạch. Có lẽ con số là 5.000 hoặc ít hơn, và ảnh hưởng ở Việt Nam chủ yếu chỉ đến Hà Nội, và phía bắc miền Bắc, trong vùng trung tâm của Việt Minh. Hỗ trợ cho Bảo Đại của họ là nặng tính dự kiến ​​và đòi hỏi nhiều điều kiện.

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng

Một nhóm ly khai của Việt Minh ở Nam Kỳ từ cuộc tranh cãi với các nhà lãnh đạo Việt Minh. Bao gồm Cao Đài, Hòa Hảo, và các nhà lãnh đạo Bình Xuyên, và [nhóm này] tham gia trong Liên minh Mặt trận Quốc Gia. Đảng này bị gãy đổ trong vào mười một năm 1947, trong một tranh chấp với Hòa Hảo, và sau đó không còn tồn tại nữa

Phong Trào Bình Dân

Một nhóm gốc Bắc ở Hà Nội chống VNDCCH nhưng không hậu thuẩn rộng rãi, và đến 1949 dường như đã bị tan rả.

Việt Nam

Một phong trào nhỏ gốc Bắc không đáng kể

Đoàn Thể Cao Đài

Đứng đầu là Phạm Công Tắc, Giáo Chủ của Cao Đài (năm 1946 Pháp đưa ông đang sống lưu vong ở Madagascar về nước). Liên đoàn tuyên bố co 1.000.000 đến 2.000.000 thành viên ở Nam Kỳ và duy trì một lực lượng vũ trang (với một số trợ giúp của Pháp). Đụng độ giữa quân đội Cao Đài và Việt Minh đã thường xuyên xảy ra trong các khu vực chi phối bởi Cao Đài. Cao Đài bị chia về vấn đề hỗ trợ của Pháp, khi tinh thần bài ngoại đã là phổ biến trong giáo phái. Vào tháng Giêng năm 1948, Cao Đài đã ký một hiệp ước hòa bình với Hòa Hảo, và cam kết hỗ trợ cho Bảo Đại. Phạm Công Tắc công khai liên kết chính với chính phủ Bảo Đại vào tháng Bảy năm 1949. Tuy nhiên, với các giáo phái, tôn giáo chứ không phải là do chính trị định hướng, và nuôi dưỡng đủa thứ quan điểm chính trị.[khác nhau]. Sự dấn thân là cho Đạo Cao Đài...

Phật Giáo Hòa Hảo

Là một giáo phái vũ trang có khoảng từ 200.000 đến 1.000.000 thành viên. Trong Thế Chiến thứ II, các giáo phái, với sự hỗ trợ của Nhật, rao giảng một tín ngưỡng chống người nước ngoài, và năm 1945 tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Anh. Năm 1947, Huỳnh Phú Sổ, lãnh đạo của giáo phái, đã bị ám sát bởi Việt Minh, đã dẫn đến việc Hòa Hảo từ bỏ kháng chiến, và giáo phái quay ra hỗ trợ việc phục hồi Bảo Đại. Vẫn căng thẳng trong quan hệ với Pháp, và với các phe phái đối thủ Việt khác

Tịnh Độ Cư Sĩ

Một phong trào tập trung chủ yếu vào cộng đồng người Hoa sống ở nước ngoài [tức ở Việt Nam], và ủng hộ Việt Minh một cách thụ động.

Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam

Tổ chức xung quanh các giáo xứ Công giáo, Liên đoàn ảnh hưởng ở mức độ khác nhau trên một số khoảng 2.000.000 người Công giáo, chủ yếu ở Trung Bộ. Liên đoàn ủng hộ VNDCCH trong những năm 1945 và 1946, và thông qua cuộc đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Ngô Đình Diệm đã đưa Liên Đoàn vào Mặt trận Liên minh quốc gia [Liên Việt], nhưng Liên Đoàn đã chia tay với Mặt trận vì mong muốn của đa số là trở lại cuộc kháng chiến, và sự ghê tởm của số người còn lại bao gồm cả Diệm, là Bảo Đại không có khả năng phá vỡ vòng kiểm soát của Pháp trên toàn Việt Nam.

Liên Khu Bình Xuyên

Một bộ máy xã hội đen ở Saigon, ban đầu đã chiến đấu như nđồng minh của Việt Minh, nhưng - như Hòa Hảo - đã bất mãn vi Việt Minh đã bắn một số lãnh đạo của họ. Dành một sự hỗ nhạt nhẽo cho Bảo Đại, và vẫn cảnh giác về người Pháp.

Liên Hiệp Quốc Gia Việt Nam

Sự xuất hiện nhanh chóng của Mặt trận Liên minh Quốc gia thành lập vào Tháng Mười Hai, 1947, tại Hà Nội, họ cố gắng tập hợp sự ủng hộ của các bên khác nhau cho Bảo Đại tại Nam Kỳ, Trung Kỳ, và Bắc Kỳ. Nhưng thành công mà họ vui thích chỉ là một vấn đề hình thức hơn là chất lượng, và ảnh hưởng của họ khá hạn chế.

Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội

Nhóm quốc gia theo hướng Nhật, Phục Quốc dưới Hoàng Thân Cường Để đầu tiên cố gắng đưa ra một giải pháp thay thế cho Việt Minh và Bảo Đại. Tháng Sáu năm 1947, và tháng Năm 1948, Hoàng Thân Cường Để khẩn cấp yêu cầu Tổng thống Hoa Kỳ viện trợ để chống Pháp, và kêu gọi hòa giải giữa Hồ Chí Minh và Bảo Đại. Phục Quốc chủ yếu sống lưu vong [ở Nhật], và không thể gây bất kỳ ảnh hưởng nào đáng kể trên các biến cố [chính trị] ở Việt Nam.

Những Phong Trào do Pháp bảo Trợ

Với sự khuyến khích của Pháp, một số của các đảng phái Việt Nam được thành lập để cung cấp nhân sự cho một số chính phủ được thành lập bởi người Pháp. Họ bao gồm Đảng Dân chủ Đông Dương, Đảng Dân chủ Nam Kỳ, Mặt trận Bình Dân Đông Dương, và Phong trào Bình Dân Nam Kỳ. Nói chung, những đảng phái này ủng hộ chính sách của Pháp là duy trì Nam Kỳ riêng rẽ với Trung và Bắc Kỳ và giữ các mối quan hệ chặt chẽ với Pháp. Cuối cùng, những hỗ trợ tối ít ỏi đó mà họ đã tạo dựng chỉ để được ném đằng sau "giải pháp Bảo Đại".

Như gì đã nói ở trên cho thấy sự nghèo nàn của các phong trào Việt Nam quốc gia trong giai đoạn 1946-1950, chỉ có Việt Minh có thể được coi là một phong trào "quốc gia" tại thời điểm bắt đầu của cuộc chiến tranh với Pháp, và tiếng tăm của nó đã được xây dựng trong suốt những năm đấu tranh. Việt Minh nhấn mạnh tính ưu việt của hành động chính trị trong nhân dân và chuẩn bị cẩn thận các cơ sở như là điều kiện tiên quyết cho hành động quân sự. Sự chú ý cẩn thận của ho gồm những nỗ lực phi thường để khắc sâu những thái độ và thói quen vào bộ đội để giành được sự tôn trọng, và cuối cùng sự hợp tác của dân chúng. Trích dẫn từ lý thuyết của Việt Minh ngày 1948:

“Mười hai điều lệnh

“Đất Nước có gốc rễ từ Nhân Dân

“Trong cuộc đấu tranh kháng chiến và tái thiết quốc gia, lực lượng chính nằm trong nhân dân.Vì vậy, tất cả những người trong bộ đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng tiếp xúc hoặc sống với nhân dân phải nhớ và thực hiện các điều lệnh sau đây:

"Sáu điều cấm:

Không làm những gì có thể làm tổn hại đến đất đai và cây trồng hoặc làm hư hỏng nhà cửa và đồ dùng của người dân Không được cố mua bán, mượn những gì mà mọi người không muốn bán hoặc cho mượn. Không mang gà sống vào nhà người dân miền núi. Không bao giờ thất lời hứa. Không làm những hành vi phạm đến đức tin và phong tục tập quán của người dân (ví dụ như nằm xuống trước bàn thờ, để nâng cao chân trên lò sưởi, chơi nhạc trong nhà, vv.) Không được làm hoặc nói những gì có thể làm cho mọi người tin rằng chúng ta đang giữ khinh miệt họ.

"Sáu điều cho phép:

Giúp dân trong công việc hàng ngày của họ (thu hoạch, lấy củi, chở nước, may vá, vv.) Bất cứ khi nào có thể mua dùm hàng hóa (dao, muối, kim, sợi, bút, giấy, vv.) cho những người sống xa các chợ Trong thời gian rảnh rỗi, để nói cho vui, những câu chuyện đơn giản, ngắn và hữu ích cho kháng chiến, nhưng không phản bội bí mật. Dạy cho dân về chữ viết quốc gia và vệ sinh thường thức. Nghiên cứu phong tục tập quán của từng khu vực để làm quen với họ để tạo ra một bầu không khí cảm thông đầu tiên, sau đó dần dần giải thích cho người dân giảm đi mê tín dị đoan của họ. chứng minh cho dân thấy bạn là người đứng đắn, cần mẫn, và kỷ luật ".

"bài thơ kích thích

Mười hai điều lệnh nói trên

Có tính khả thi cho tất cả

Ai yêu nước mình,

Sẽ không bao giờ quên chúng.

Khi người dân có thói quen,

Tất cả mọi người đều như một

Với bộ đội tốt và dân tốt,

Tất cả mọi thứ sẽ được bao trùm với thành công.

Chỉ khi nào gốc bền vững, cây thời có thể sống lâu,

Và chiến thắng được xây dựng với những người từ cơ sở.

57/

Đánh giá về phe quốc gia Việt Nam mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 1949, vào những ngày trước khi Mỹ tham gia vào chiến tranh Đông Dương, nhìn chung là sâu sắc. Một bài báo được gửi vào tháng Hai, năm 1949, George M. Abbott, một trong vài nhà ngoại giao Mỹ đã nói chuyện với Hồ mặt đối mặt, tóm tắt các vấn đề qua các điều sau đây:

Quan Hệ Quốc Tế

Hoa Kỳ - Mối quan hệ sau chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Đông Dương có một khởi đầu tồi tệ với Tổng thống Roosevelt với quan điểm về ủy trị quốc tế cho các cường quốc nhưng không khả năng bảo vệ họ, tiếp theo là nhiệt tình quá mức của một số nhân viên O.S.S trong thời gian trước và sau khi Nhật đầu hàng. Niềm tin rằng chính sách của Hoa Kỳ là sẽ loại người Pháp ra khỏi Đông Dương vẫn còn tồn tại trong nhiều giới ở Đông Dương và ở Pháp. Chúng ta cũng đổ lỗi là đã cho phép Trung Quốc và Anh chiếm đóng nửa phía Bắc và phía Nam của đất nước để giải giới quân đội Nhật. Từ chối liên tục của chúng ta về việc cung cấp thiết bị và vũ khí cho quân đội Pháp hoạt động ở Đông Dương là một chủ đề đau đớn với hầu hết các sĩ quan quân đội Pháp. Một nguồn kích động khác là các xu hướng gần như phổ biến của các phóng viên người Mỹ đến thăm Đông Dương và viết những bài báo cực kỳ chỉ trích của người Pháp...

“Nếu trong những tuần gần đây người Pháp đã tích cực hỗ trợ đề xuất cho bốn cường quốc hợp tác trong khu vực Đông Nam Á để ngăn chặn sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản, và đã nhiều thảo luận về tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như là một pháo đài chống lại sự lây lan về phía nam của Cộng sản Trung Quốc

"Theo sự quan tâm của người Việt cho tới nay, họ đã được khuyến khích để tin rằng sau khi Nhật bại trận, chúng ta sẽ hỗ trợ cho họ có được độc lập. Rõ ràng rằng sự đồng cảm của chúng ta đã bị giảm đi vì những quan tâm chiến lược của chúng ta ở Âu Châu, sự yêu mến Hoa Kỳ đã giảm bớt. Tuy nhiên, uy tín của Hoa Kỳ vẫn còn cao, và ngay cả Hồ Chí Minh đã cẩn thận ngăn chặn bất kỳ tuyên truyền chống Mỹ công khai nào

“Không ai biết có bao nhiêu người cộng sản ở Đông Dương, nhưng số lượng đảng viên thực sự chắc chắn là nhỏ. Ước tính cao nhất là 20% của quân đội chiến đấu của Hồ Chí Minh và điều này bao gồm cảm tình viên.Tuy nhiên, số lượng chắc chắn là đang phát triển, và cùng lúc, những đơn vị quân đội không cộng sản đã liên tục bị thâm nhập bởi các thành viên [cộng sản] bí mật. Các đơn vị dưới quyền chỉ huy cộng sản nói chung là được trang bị tốt hơn. Do đó, đối với các nhà lãnh đạo có dự tính thay đổi phe nhóm không phải là một vấn đề dễ dàng.

"Một điểm khác là những thông tin cụ thể liên quan đến các đường dây liên lạc giữa Moscow và các trung tâm kiểm soát khu vực... Chắc chắn đường dây liên lạc thỏa đáng đó tồn tại kể từ khi những ấn phẩm của Moscow trong những lúc gần đây thường xuyên bị người Pháp bắt giữ...

“Một điều đặc biệt về cộng sản Việt Nam là họ có rất ít tuyên truyền chống Mỹ. Rõ ràng đây không phải là do sự thiếu hiểu biết về đường lối của đảng hiện nay. Dường như nó tiêu biểu cho một niềm hy vọng, một phần của Hồ Chí Minh là ông vẫn có thể được Mỹ hỗ trợ hay ít nhất là sự chấp nhận chính phủ Việt Minh đang dưới sự lãnh đạo của mình. Bằng chứng cho thấy niềm hy vọng này đã giảm bớt trong một chỉ thị địa phương của đảng ngày trong tháng 11 năm 1948, nói rằng hoạt động tuyên truyền chống Mỹ nên được tiến hành trong nội bộ đảng và bằng lối rĩ tai trong nhân dân nhưng chưa [tới lúc] đưa ra trên đài phát thanh, báo chí hay trong các bài phát biểu công cộng...

“Đối đầu với các lực lượng Pháp là khoảng 75.000 binh sĩ Việt Nam đủ mầu sắc chính trị khác nhau, phần lớn là dưới sự lãnh đạo của cộng sản. Có khá nhiều bằng chứng do Pháp cung cấp về các ủy viên chính trị cộng sản và đã được mở rộng đến cấp đại đội. Chắc chắn rằng yếu tố kỷ luật của cán bộ công sản là yếu tố lớn nhất trong việc duy trì sức sống và sự đoàn kết của kháng chiến. Trong việc này, họ đã hưởng lợi rất nhiều từ sự do dự và không có niềm tin và các hành động khủng bố của quân đội Pháp.

"Mặc dù thỉnh thoảng có vài vụ phản bội hay đào ngũ, không có dấu hiệu làm suy yếu quy mô khả năng hay tinh thần của kháng chiến Việt Nam. Trong nhiều vùng rộng lớn dưới sự kiểm soát của kháng chiến rất thiếu các đồ xa xỉ và thuốc men. Nhưng họ hoàn toàn tự cung tự cấp về những nhu cầu cơ bản và quản lý một cách khá tốt, theo như một vài bản báo cáo nhận đươc. Họ tiếp tục xây dựng một nguồn cung cấp tiếp liệu và tân binh mà giới hạn chỉ là con số các vũ khí có sẵn.

“Mặc dù có những tin đồn về một hiệp ước ký giữa Cộng sản Trung Quốc và Hồ Chí Minh, và đã có một viên tướng Cộng sản Trung Quốc và nhân viên của ông ta có mặt ở vùng Việt Bắc, có ít bằng chứng, như đã nêu ra, rằng Trung Quốc đã có bất kỳ sự giúp đỡ nào đáng kể cho kháng chiến. Các nguồn tin của Pháp cảm thấy rằng có rất ít nguy hiểm của một đạo quân thứ 5 Cộng sản Trung Quốc tại Nam Kỳ, hoặc do lời mời gọi từ phía Hồ Chí Minh với quân đội của kẻ thù lâu đời của đất nước vào Đông Dương thành hiện thực, mặc dù họ có chung sự liên kết cộng sản. T​uy nhiên tất cả các ý kiến tham khảo từ quân đội Pháp đều cảm thấy rằng một cuộc xâm lược quy mô lớn của Trung Cộng sẽ làm cho hầu hết Bắc Kỳ, nếu không phải là tất cả, không đứng vững về mặt quân sự.

"Trong nhiều tháng qua, các nhà quan sát cảm thấy rằng lực lượng kháng chiến đã không đưa ra nỗ lực tối đa của họ, có lẽ bởi vì các nhà lãnh đạo đang chờ đợi kết quả của cuộc đàm phán chính trị đang diễn ra giữa Phủ Cao Ủy, Chính phủ Pháp và các yếu tố Xuân-Bảo Đại. Nếu tiến trình này bi đổ vỡ, kháng chiến sẽ được tăng cường bởi sự gắn kết của các yếu tố trung lập hoặc thân Pháp. Nếu các cuộc đàm phán thành công, quân đội kháng chiến chắc chắn sẽ là yếu tố chi phối trong bất kỳ hình thức chính phủ tự trị nào của người Việt Nam..." 58. /

Báo cáo mở rộng về thông tin tình báo của Bộ Ngoại Giao [Mỹ] về "sự sắp xếp chính trị của phe Quốc gia Việt Nam" 59 / tháng Mười năm 1949, nhấn mạnh tầm quan trọng của Việt Minh:

"Liên minh Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội), hoặc Việt Minh, là tổ chức chính trị có ảnh hưởng nhất trong Chính phủ Việt Nam [VNDCCH].. Đó là nhóm chính trị duy nất có tổ chức mở rộng xuống tân đơn vị làng nhỏ nhất. Thành viên của nó bao gồm cả cá nhân và đảng phái thí dụ như Đảng Xã hội Việt Nam, Đảng Dân chủ Việt Nam, v.v… Là một Liên minh, nó tập trung với nhau một liên minh rộng rãi gồm nhiều khuynh hướng chính trị từ phe quốc gia ôn hòa đến người cộng sản giáo điều. Nó khá giống với Trung Hoa Quốc Dân Đảng trong thời gian 1924-1926, khi những người cộng sản và Tưởng Giới Thạch hợp tác trong phong trào dân tộc Trung Quốc.

“Ban Chấp hành Việt Minh, hoặc Tổng Bộ [Việt Minh], là điểm tập trung quyền lực thực sự trong lãnh thổ Việt Nam. Tờ báo chính phủ có ảnh hưởng, tờ Cửu Quốc, là cơ quan của Tổng Bộ và tiêu biểu đường lối của chính phủ. Một phần lớn của các thành viên Tổng Bộ được tin là thành viên trước đây của Đảng Cộng sản Đông Dương đã giải thể. Trong phong trào dân tộc đại chúng, những người cộng sản chắc chắn là yếu tố chính trị đoàn kết chặt chẽ nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người cộng sản, nhưng có uy tín lớn như một nhà lãnh đạo dân tộc giữa các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Ông có một nhân cách chính trị nổi bật ở Đông Dương. Ông cố giảm nhẹ các kết nối quá khứ cộng sản của mình, nhấn mạnh khía cạnh dân tộc của chương trình của mình, và là phổ biến được coi là một người đứng trên mọi đảng phái.

“Việt Minh kiểm soát toàn bộ phong trào dân tộc thông qua một loạt các tổ chức “phúc lợi quốc gia” như các hội phụ nữ, thanh niên, nông dân, binh sĩ, vv..., bao gồm hầu hết toàn bộ dân Việt Nam. Hoàng Quốc Việt, Tổng Bí thư Việt Minh, tuyên bố rằng tổ chức có một thành viên với tổng số 9.000.000 người..

Sự sụp đổ của Trung Hoa Quốc Gia vào năm 1949 tạo ảnh hưởng vang dội trong phong trào dân tộc Việt Nam. Các bên chủ yếu Quốc Dân Đảng theo định hướng Trung Hoa Quốc Dân Đảng - đã bị mất uy tín, và các phong trào lưu vong ở Trung Quốc bị phân tán. VNDCCH bắt đầu ngã sang khối cộng sản để mong tìm kiếm sự hỗ trợ vật chất, và đồng thời có phong trào nghiêng về phía tả trong Việt Minh. Đến năm 1951, Đảng Cộng sản được "hợp pháp hóa." [mang tên] Đảng Lao Động Việt Nam sau đó đã trở thành quyền lực chính trị chi phối nước VNDCCH. Đảng Lao Động rõ ràng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, và tự hào tuyên bố đã có một đường lối không gián đoạn từ Đảng Cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh sáng lập, bao gồm lãnh đạo của tất cả các "mặt trận" dân tộc lớn xuyên suốt đến 1951. Võ Nguyên Giáp đã giải thích vào năm 1961 rằng:

“Chiến tranh nhân dân giải phóng Việt Nam đã chiến thắng bởi vì chúng tôi đã có một Mặt trận Đoàn Kết Quốc Gia rộng lớn và...được tổ chức và lãnh đạo bởi Đảng của giai cấp công nhân: Đảng Cộng sản Đông Dương nay là đảng Lao Động Việt Nam. Dưới ánh sáng các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin...Đảng đã tìm thấy một giải pháp đúng cho các vấn đề...” 60/

Các sử gia chính thức của Đảng Lao Động đã đánh giá cao những tính toán cộng sản là những mốc khóa quan trọng trong lịch sử Việt Nam cho tới năm 1951:

"Các chính sách thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương từ năm 1936 và 1939, mặt trận Việt Minh từ năm 1941 và 1951, và Liên Việt năm 1946-1951, quyết định ký Hiệp Định Sơ Bộ ngày 06 Tháng 3 năm 1946... [Hồ thích nghi với Pháp]... tất cả những ví dụ điển hình này là những ứng dụng thông minh vào các... chỉ đạo của Lenin. " 61 /

Năm 1951, Hồ Chí Minh giải thích về nguồn gốc Lênin của Việt Minh và vai trò của nó trong sự hình thành của VNDCCH và chiến tranh chống Pháp. Trong tháng hai, năm 1951, ngõ lời trong Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam (Lao Động), Hồ giải thích về diễn tập chính trị của ông trong những thập kỷ trước. Rà soát lại lịch sử của cuộc cách mạng Nga và Trung Quốc, ông đã chỉ ra rằng Việt Nam cũng đã cảm thấy những rung động của thay đổi, và giai cấp công nhân Việt Nam "... đã bắt đầu cuộc đấu tranh và cần một đội ngũ tiên phong, một ban lãnh đạo chung để dẫn dắt. Ngày 06 tháng Một năm 1930, Đảng ta ra đời... " Ông mô tả Đảng đã làm thế nào để mang lại sự hình thành của Việt Minh, và là nền tảng của VNDCCH. Sau đó, vào năm 1945, thực dân Pháp lại xuất hiện ở miền Nam Việt Nam và chính phủ phản động do Trung Quốc tài trợ dường như đã thành tiềm năng ở miền Bắc Việt Nam.

"Trước tình hình nghiêm trọng và cấp bách, Đảng ta đã làm mọi thứ có thể để giữ cho bản thân được tồn tại, để làm việc và phát triển một bộ phận lãnh đạo thận trọng và hiệu quả hơn để dành thời gian dần dần củng cố sức mạnh các lực lượng nhân dân và để tăng cường công tác Mặt trận Thống Nhất Quốc gia.

"Vào thời điểm đó, Đảng không thể chần chừ: do dự có nghĩa là thất bại. Đảng đã đưa ra quyết định nhanh chóng và có biện pháp – biện pháp đau đớn - để cứu vãn tình hình. Lo lắng lớn nhất là tuyên bố giải thể Đảng. Nhưng trong thực tế Đảng đã đi vào bí mật và mặc dù sống trong bí mật, Đảng vẫn tiếp tục lãnh đạo chính quyền và nhân dân...

“Phải đề cập đến [thỏa thuận với Pháp vào năm 1946] bởi vì họ được coi là cực hữu và gây ra nhiều tai tiếng. Tuy nhiên, theo ý kiến ​​của các đồng chí và đồng bào của chúng ta ở miền Nam, họ đã đúng. Thật vậy, bởi vì các đồng chí và đồng bào của chúng ta đã khéo léo tận dụng những cơ hội để xây dựng và phát triển lực lượng của họ.

“Lenin nói rằng ngay cả khi phải thỏa hiệp với kẻ cướp mà thuận lợi cho cách mạng, ông cũng sẽ làm điều đó... " 62/

Hồ sau đó đã đi vào thảo luận về những điểm mạnh và yếu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mô tả tình hình thế giới trong khung một khối đồng nhất các quốc gia "dân chủ" chống lại sự dàn trận của Hoa Kỳ, và những thế lực phản động khác, và mô tả, như bộ phận của một cuộc xung đột lớn hơn, là chiến tranh của Việt Nam cùng với Lào và Campuchia nhằm chống Pháp và Hoa Kỳ. Ông kêu gọi "một đảng hợp pháp phù hợp với tình hình thế giới và trong nước - để lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân ta đến thắng lợi. Đó là đảng Lao Động Việt Nam. Về thành phần, đảng sẽ thu nhận những công nhân nhiệt tình và giác ngộ, nông dân, trí thức. Về lý thuyết, nó tuân thủ chủ nghĩa Marxism Leninism, về kỷ luật đảng có một kỷ luật sắt... "

Như thế, Việt Minh đã chấm dứt không còn là một Liên Minh quốc gia không cộng sản.

I. B Tham Khảo

Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Praeger, 1967, 2 vols), I, 172-174.

Ibid.

Dữ liệu chính trị về Việt Nam rút ra chủ yếu từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, sự sắp xếp chính trị của phe Quốc gia Việt Nam (Văn phòng nghiên cứu Tình Báo, Báo cáo số 3708, ngày 01 Tháng 10 năm 1949), passim

Ibid., trang 138 và kế tiếp

Ibid.

Ibid. trang 31-32

Ibid., trang 136

Ibid, trang 138

Ber nard B. Fall, ed., flo Chi Minh on Revolution (New York: Praeger,1967 ), 130-131.

The Hitler-Stalin Pact was signed in August, 1939. On 26 September 1939, France outlawed the Communist Party. Ibid., and Buttinger, ~ cit., I, 224-226.

Ibid., 236-250.

Ibid., 242-244.

U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 58.

Fall, ed., Ho Chi Mirili on Revolution, op. cit., 133-134

George Modelski, "The Viet Minh Complex," in Cyril E. Black and Thomas P. Thorton, eds., Communism and Revol ution (Princeton: Princeton University Press, 1964), 189-190. Cf. Bernard B. Fall, The Two Viet- Nains (New York: Praeger, 2nd Edition, 1963 ), 62.

Vo Nguyen Giap, People's War, Peo~le's Army (Hanoi, 1961), 75, quoted in ibid.

U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 60.

Fall, The Two Viet-Nams, op. cit., 62-63.

U.S. Dept of State, Political Alignments..., Ope cit., 54-55

Ibid.

I. Milton Sacks, "Marxism in Vietnam," in Frank N. Trager, ed., Marxism in Southeast Asia (Stanford: Stanford University Press, 1959), 150.

22. Modelski, l oco cit., paraphrasing the official Vietnamese Communist Party history, Thiry Years of Struggle of the Party.

23. Bert Cooper, John Killigrevl, Norman La Charite, Case Studies in Insurgency and Revolutionary Warfare: Vietnam 1941-1954 (Washington: Special Operations Research Office, The American University, 1964), 87-88.

Modelski, Ope cit., 189, quoting Thirty Years...

Cooper, et al, 01). cit., 88-89. French sources estimated 50,000 Viet Minh in Tonkin as of August, 1944; U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 61.

Cooper, et al, loco cit

Some French authors have been prone to credit the U.S. for Ho Chi Minh and the Viet Minh; e. g., Lucien Bodard, The Quicksand War (Boston: Little, Brown, 1967),221-222. The ranking American official in northern Vietnam in 1945, Brigadier General Philip E. Gallagher, has attested: "... throughout the months before the Japanese capitulation, O.S.S. officers and men operated behind Japanese lines, to arm, lead and train native guerrillas who were organized by the Viet Minh." (A situation report, undated, in the Gallagher Papers, quoted in Bert Cooper, John Killigrew, and Norman La Charite, Case Studies in Insurgency and Revolutionary Warfare: Vietnam 1941-1954 [Washington, D. C.: SpecialOperations Research Office, The American University, 1964]; 107.) But O.S.S. assistance to the Viet Minh-led guerrillas was quite limited, although it gave the Viet Minh the opportunity to proclaim that they were part of the Allied effort against the Japanese. Cf., Fall, Le Viet-Minh: La Republique Democratique du Viet-Nam [Paris: Librairie Armand Colin, 1962], 34. Fall, Two Viet-Nams, Op. cit., 66-71, details the case for the postwar American aid and comfort to the Viet Minh, which adds up to a more substantial charge but similarly is without foundation in the record.

Quoted in ibid., 63.

U.S. Dept of State, Political Alignments..., Ope cit., 66-67, quoting The Factual Record of the August Revolution (Hanoi, September, 1946).

Fall, ed., Ho Chi Minh on Revolution, Ope cit., 141-142.

Buttinger, Ope cit., I, 435-436.

U.S. Dept of State, Political Alignments..., Ope cit., 146-147.

Hammer, Ope cit., 104.

Marvin E. Gettleman, ed., Viet Naill (New York: Fawcett, 1965),57-59.

Buttinger, Ope cit., I, 325-327.

Ibid., 328-331; Hammer, Ope cit., 115-116.

Hammer, op. cit., 117, quoting Suprem~ Allied Command, Southeast Asia, Commission No.1, Saigon, Political History of French Indochina South of 160, 13 September - 11 October 1945.

U.S Dept of State,.Political Alignments..., op. cit., 73-74.

Hammer, op. cit., 117

Hammer, op. cit., 120.

Buttinger, op. cit., I, 337

Buttinger, op. cit., 351-354.

Ibid.

Buttinger, OF' cit., 356, 634.

Ibid; Sacks, 0p. cit., 157; Fall, ed., Ho on Revolution, op. cit., 146.

Sacks, op. cit., 158.

Ibid.

U.S. Dept (·f State, Political Alignments..., 77-78.

Hammer, op. cit., 150

Buttinger, OF' cit., 371-372.

Ibid., 399-401; U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., ~ George A.. Carver ~ Jr., "The Faceless Viet Cong," Foreign Affairs (Vol. 44, No.3, Aprll, 1966 ), 350.

Buttinger, Op. cit., I, 402-403.

U.S. Dept of State, Political Alignments..., op. cit., 81-82.

Fall, Two Viet-Nams, ~it., 131.

Hammer, op. cit., 179.

Pham Van Dong (presently Premier, then Vice President) announced in 1950 that promulgation of the 1946 Constitution had been postponed "because several of its provisions require for their application the cessation of the state of war," and in 1951, after Ho had openly aligned with the Sino-Soviet powers, the Viet Minh radio explained that "a gang of traitors" had been evolved in its formulation, and hence a "progressive character ·was lacking." During the "Rectification of Errors,1l in late 1956, after the peasant uprisings of that year, the DRV set up a constitutional reform committee. In December, 1958, Ho invited the public to submit recommendations on a new draft basic law, and the second Constitution was promulgated in 1960. Ibid., 178-181; U.S. Dept of the Army, Pamphlet 550-40, u.s. Army Area Handbook for Vietnam (Washington: Government Printing Office, 1962), 235.

Gettlemen, ed., op. cit., 88-89.

American Consulate General, Saigon, Despatch 34, February 12, 1949.

Op. cit., 90-91.

Vo Nguyen Giap, People's War,People ' s Army (Hanoi: Foreign Languages Publishing House, 1961), 35, also 67-108; Cf., rtLet Us Step Up The Theory-Formulating Task of The Party, ”Hoc Tap (No.9, September 1966), in Joint Publications Research Service, Translations from Hoc Tap" (No. 38,660, November 16, 1966), 2.

Ibid.

Fall, Ho on Revolution, 0p, cit., 206 ff.