← Quay lại trang sách

I.C phần 3 LIÊN LẠC GIỮA HỒ CHI MINH VÀ HOA KỲ 1945-1946

LÝ LỊCH

Liên lạc đầu tiên của Hồ Chí Minh với Hoa Kỳ là thông qua cơ quan O.S.S được trao trách nhiệm làm việc với Việt Minh. Người Mỹ tìm thấy Hồ vui tính, và hợp tác. Một viên chức Mỹ sau đó báo cáo kinh nghiệm của mình với Hồ đến Robert Shaplen:

"Có rất nhiều khía cạnh quanh câu chuyện quan hệ của Hồ Chí Minh với phương Tây trong và sau Thế chiến thứ hai. Hãy bắt đầu với câu chuyện tiết lộ phần nào ngây thơ bởi một cựu trung úy trẻ của quân đội Hoa Kỳ - tôi chỉ nêu tên anh ta như là John - năm 1945 đã nhảy dù xuống Tổng hành dinh của Hồ nằm ở một khu rừng gần làng Kim Lung ở Việt Bắc với nhiệm vụ thiết lập một đường giây ngầm để giúp người của Đồng minh [chủ yếu là Phi công bị Nhật bắn rơi] đào thoát tìm về tự do. Kim Lung nằm cạnh bìa một khu rừng nhiệt đới mưa rất nhiều, bụi rậm dày đặc. Giữa dãy núi rừng chập chùng là những thung lũng nhỏ, và cạnh một con suối nằm ở lung chừng đồi vào là khu trại của Hồ Chí Minh, gồm bốn túp lều, nằm ​​cô lập. Những túp lều to khoảng mười hai sãi [feet] vuông, nằm trên bốn cọc tre cao khoảng bốn sãi, và căn của Hồ cũng trống trải như những căn khác.

"Trong cái nôi cách mạng thô sơ này, sâu trong lãnh thổ Nhật [Nhật chiếm Đông Dương], John đã có một kinh nghiệm độc đáo sống và làm việc với Hồ trong vài tháng và thấy Hồ hoàn toàn hợp tác trong việc cho du kích của mình hổ trợ để các đợt trinh sát và tấn công, trong đó có việc giải cứu một số người Pháp bị tập trung gần biên giới Trung Quốc. John sử dụng đài truyền tin di động của mình để giúp Hồ liên lạc sơ bộ với các nhà thương thuyết Pháp đang ở Côn Minh, Trung Quốc, và những người sẽ sớm đi vào thảo luận về tương lai của Đông Dương sau chiến tranh với Hồ tại Hà Nội, nhưng John mình đã đặt mình vào một vai trò trực tiếp hơn trong các vấn đề của Việt Nam bằng cách giúp Hồ viết một sơ bản Tuyên ngôn Độc Lập [của Việt Nam].

"Ông ấy cứ mãi yêu cầu nếu tôi có thể nhớ ngôn ngữ của bản Tuyên Ngôn [Độc Lập] của chúng ta", John nói: "Tôi là một người Mỹ bình thường, tôi không nhớ nhưng tôi có thể điện về Côn Minh và nhận được một bản sao gửi xuống cho tôi, tất nhiên, nhưng những điều ông thực sự muốn là hương vị của vấn đề [Độc lập]. Càng thảo luận.về chuyện đó [Bản Tuyên Ngôn], mới thấy có lẽ như ông thực sự biết về nó nhiều hơn tôi đã biết. Về thực tế, ông biết nhiều về hầu như tất cả mọi thứ hơn là tôi đã biết, nhưng khi tôi nghĩ rằng yêu cầu của ông là quá khó, tôi liền nói ngay với ông. Điều kỳ lạ là ông đã lắng nghe. Ông là một người hết sức ngọt ngào. Nếu tôi phải chọn ra một chất lượng mà ông già nhỏ con đang ngồi trên một ngọn đồi của mình trong rừng, thì đó là sự dịu dàng của ông.

"Ông ấy và John đã chúc mừng rượu lẫn nhau và chia sẻ gan hổ hầm. John thừa nhận là mình đã ngây thơ sẵn sàng tin rằng Hồ không phải là một người cộng sản. Tuy nhiên, ngay cả khi ông là thế John vẫn cảm thấy chắc chắn rằng Hồ đã chân thành trong mong muốn hợp tác với phương Tây, đặc biệt là với Pháp và Hoa Kỳ. Một số người của Hồ gây ấn tượng cho John khi họ đi quanh hùng hổ nhiệt tình la hét "độc lập, nhưng 75% trong số họ không biết ý nghĩa của chữ ấy là gì" John đã viết trong nhật ký của mình và John vẫn còn hai lá thư bằng tiếng Anh mà Hồ gửi cho ông khi còn trong rừng. Một trong số đó, được viết ngay sau khi Nhật đầu hàng, khi mà Việt Minh đã gần như sắp nắm quyền kiểm soát phong trào dân tộc, đọc như sau:

Trung Úy [John] thân mến,

Tôi cảm thấy yếu hơn kể từ khi bạn rời nơi đậy. Có thể tôi phải tuân theo lời khuyên của bạn mà di chuyển đến nơi khác, nơi mà thức ăn được dễ dàng kiếm được, để cải thiện sức khỏe của tôi...

Tôi gửi cho bạn một chai rượu, hy vọng bạn thích nó.

Xin vui lòng gửi cho tôi những tin tức nước ngoài mà bạn có.

… Xin vui lòng gửi đến Trung Ương của anh những điện tín sau đây

Đại Việt [một nhóm quốc gia chống Việt Minh] đã lên kế hoạch để thực hiện khủng bố rộng rãi chống Pháp và đổ trách nhiệm lên vai của VML [Việt Minh League]. Việt Minh đã ra lệnh cho 2 triệu thành viên và tất cả dân chúng theo dõi và ngăn chặn kế hoạch tội ác của Đại Việt khi nào có thể. Việt Minh tuyên bố trước thế giới mục đích của nó nhắm là độc lập dân tộc. Sẽ chiến đấu bằng chính trị - nếu cần thiết sẽ là những phương tiện quân sự. Nhưng không bao giờ dùng tới những hành vi phạm tội và không lương thiện.

Ký tên - Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc, Liên Đoàn Việt Minh

Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc của Việt Minh khẩn cầu nhà chức trách Mỹ thông báo cho Liên Hợp Quốc như sau đây. Chúng tôi đã chiến đấu người Nhật bên cạnh Liên Hợp Quốc. Bây giờ Nhật đã đầu hàng. Chúng tôi khẩn xin Liên Hợp Quốc thực hiện lời hứa long trọng của họ rằng tất cả các quốc gia sẽ được dân chủ và độc lập. Nếu Liên Hiệp Quốc quên lời hứa long trọng của họ và không cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, chúng tôi sẽ tiếp tục tranh đấu cho đến khi chúng tôi đạt được nó.

Ký tên - Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc, Liên Đoàn Việt Minh

Cảm ơn bạn về tất cả những gì khó khăn mà tôi đã gây ra cho bạn.... Những lời chúc tốt đẹp nhất!

Trân trọng, Hồ [Sic]." ° (Robert Shaplen, The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1965), 28-30.)

Những trình bày tương tự cũng được chuyển đến Mỹ qua những người Việt Nam ở Côn Minh (xem biên bản ghi nhớ của Tướng Donovan, Giám đốc của O.S.S, đính kèm)

Trong tháng mười, chiến tranh giữa các lực lượng Việt Nam và Pháp bắt đầu ở miền Nam Việt Nam. Hồ Chí Minh liền gửi đi một loạt thư sang Mỹ, Trung Quốc, và các cường quốc khác, phủ nhận quyền của Pháp đại diện cho Việt Nam tại Liên Hợp Quốc hoặc tại các diễn đàn quốc tế, và tố cáo Pháp "xâm lược" Việt Nam. Hồ, trong bức điện tín ngày 17 Tháng Mười năm 1945, kêu gọi Tổng thống Truman lưu ý về "sự kiện" mà Ủy ban Tư vấn Liên Hợp Quốc về Viễn Đông được thành lập mà đã bỏ qua Việt Nam như là một thành viên, và Pháp đã không có quyền trở thành một thành viên, và rằng VNDCCH có đủ điều kiện là một quốc gia theo Hiến chương Đại Tây Dương. Yêu cầu Hoa Kỳ truyền đạt ý kiến của mình lên Liên Hiệp Quốc. Hồ đe dọa rằng sự vắng mặt của Việt Nam sẽ mang lại sự bất ổn ở vùng Viễn Đông. Các điện tín được Nhà Trắng chuyền đến Bộ Ngoại Giao và nơi đây ghi nhận “SEA [Bộ Tư Lệnh Đông Nam Á] cho rằng không một hành động nào được thực hiện...” Trong vòng một tuần, Hồ Chí Minh đưa ra lời kêu gọi thông qua Đài phát thanh Hà Nội đến Truman, Attlee, và De Gaulle và tuyên bố rằng" Chính phủ Việt Nam Quốc Gia" dự định tổ chức một phổ thông đầu phiếu để đưa ra một Hiến Pháp cho Đông Dương. (Quan điểm của Pháp là bản thân họ sẽ không phản đối, nhưng muốn được đảm bảo rằng Hồ đại diện cho toàn bộ nhân dân Đông Dương). Hồ nhiều lần đề cập đến bài phát biểu của Tổng thống Truman nhân Ngày Hải Quân về chính sách đối ngoại [của mình] vào ngày 27 Tháng Mười năm 1945, và yêu cầu áp dụng các nguyên tắc trong bài phát biểu đó cho Việt Nam và VNDCCH. Trong bài diễn văn đó, Tổng thống Truman không đề cập đến Đông Dương trong bất kỳ kiểu nào, nhưng đoạn văn sau đây rõ ràng khuấy lên hy vọng của Hồ Chí Minh:

"Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ dựa vững chắc trên các nguyên tắc cơ bản về sự công bình và công lý. Thực hiện những nguyên tắc đó, chúng ta chắc chắn phải tuân thủ theo những gì chúng ta tin là đúng, và chúng ta không cho phép chúng ta chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào với cái ác.

"Nhưng chúng ta biết rằng chúng ta không thể nào đạt được một thế giới hoàn hảo chỉ qua một đêm. Chúng ta không để việc tìm kiếm một sự hoàn hảo làm cản trở sự hợp tác quốc tế được phát triển mau chóng. Chúng ta phải được chuẩn bị tốt nhất với những gì chúng ta có thể để hoàn thành trách nhiệm của mình, trong khuôn khổ các nguyên tắc cơ bản của chúng ta, mặc dù chúng ta nhận ra rằng chúng ta phải hoạt động trong một thế giới không hoàn hảo.

"Hãy để tôi nhắc lại các nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ rằng:

"1 - Chúng ta không tìm kiếm việc mở rộng lãnh thổ hay một lợi thế ích kỷ. Chúng ta không có kế hoạch xâm lược chống lại các nước khác, dù lớn hay nhỏ.. Chúng ta không có mục tiêu nào xung đột với các mục tiêu hòa bình của bất kỳ quốc gia nào khác.

"2 - Chúng ta tin rằng quyền tự quyết và chính phủ tự trị đã bị tước đoạt bằng vũ lực cuối cùng sẽ trở lại với tất cả các dân tộc.

"3 - Chúng ta sẽ không phê duyệt những thay đổi về lãnh thổ ở bất cứ phần thân thiện nào của thế giới, trừ khi phù hợp với mong muốn được tự do bày tỏ của người có liên quan.

"4- Chúng ta tin rằng tất cả các dân tộc đang chuẩn bị một chính phủ tự quyết phải được phép lựa chọn hình thức chính quyền theo cách mà họ muốn một cách tự do mà không có sự can thiệp từ bất kỳ nước ngoài nào. Đó là sự thật cho Âu Châu, Á Châu, cho Châu Phi. cũng như ở [các nước] ở Tây bán cầu.

"5. Bằng cách phối hợp hành động và hợp tác với các đồng minh chiến tranh của chúng ta, chúng ta sẽ giúp các quốc gia địch bị đánh bại thành lập chính phủ hòa bình dân chủ với sự tự do lựa chọn của mình. Chúng ta sẽ cố gắng để đạt được một thế giới mà trong đó chủ nghĩa phát xít Đức, chủ nghĩa phát xít và xâm lược quân sự không thể tồn tại.

“6- Chúng ta sẽ không công nhận bất kỳ chính phủ áp đặt nào lên bất kỳ quốc gia nào bởi sức mạnh của bất kỳ thế lực nước ngoài nào. Trong một số trường hợp, có thể không thể ngăn chặn được việc áp đặt bằng vũ lưc một chính phủ như vậy.. Nhưng Hoa Kỳ sẽ không nhận bất kỳ chính phủ như thế.

"7 - Chúng ta tin rằng tất cả các quốc gia phải có quyền tự do [đi lại] ở các vùng biển và quyền bình đẳng về giao thông trên các dòng sông và đường thủy biên giới và trên các con sông và đường thủy đi qua nhiều quốc gia.

"8- Chúng ta tin rằng tất cả các nước được chấp nhận trong Liên Hiệp Quốc có quyền tiếp cận thương mại và các nguyên liệu thô của thế giới một cách bình đẳng.

"9- Chúng ta tin rằng các quốc gia có chủ quyền của Tây bán cầu, không có sự can thiệp từ bên ngoài Tây bán cầu, phải làm việc với nhau như những người hàng xóm tốt tìm ra giải pháp cho các vấn đề chung của họ.

"10- Chúng ta tin rằng sự hợp tác kinh tế giữa tất cả các quốc gia lớn và nhỏ, là điều cần thiết để cải thiện điều kiện sống trên toàn thế giới, và để thành lập Tự Do từ sự sợ hãi và Tự Do từ sự cần thiết.

"11 - Chúng ta sẽ tiếp tục phấn đấu để thúc đẩy tự do ngôn luận và tự do tôn giáo trên khắp các nơi yêu chuộng hoà bình trên thế giới.

"12 - Chúng ta tin rằng việc bảo tồn hòa bình giữa các quốc gia đòi hỏi Tổ chức Liên Hợp Quốc gồm tất cả quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới cùng nhau, sẵn sàng sử dụng vũ lực nếu cần, để đảm bảo hòa bình." ° (°Public Papers of the Presidents of the United States (Harry S. Truman, April-December 1945), 433-434.)

Hồ Chí Minh chuyển đến Bộ Trưởng Ngoại Giao [Mỹ] bảng Tuyên Ngôn Độc lập của VNDCCH, quyết định thoái vị Bảo Đại, báo cáo tổng quát về chính sách ngoại giao của VNDCCH, và trình bày thế đứng của mình trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Ông đã trích dẫn Hiến chương Đại Tây Dương như "nền tảng tương lai của Việt Nam" và Hiến Chương San Francisco để xóa bỏ sự áp bức thuộc địa. Hồ kêu gọi một "sự can thiệp ngay lập tức" và đệ trình những yêu cầu - một trong những điều đó, điều quan trọng chính là Liên Hiệp Quốc phải công nhận độc lập của Việt Nam. Một lần nữa, trong tháng mười một, ông đã đưa ra ba điểm: (1) người Pháp đã bỏ qua tất cả các điều ước quốc tế vào cuối chiến tranh và đã tấn công Sài Gòn trong tháng Chín, (2) người Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Liên Hiệp Quốc, nhưng sẽ chống lại bất kỳ quân Pháp nào vào lãnh thổ Việt Nam; và (3) bất kỳ đổ máu nào sẽ là trách nhiệm của người Pháp. Hai tuần sau, Hồ kêu gọi Tổng thống Truman và UNRRA [The United Nations Relief and Rehabilitation Administration tức Cơ Quan Cứu Trợ Nhân Đạo Liên Hiệp Quốc] hỗ trợ để chống nạn đói gây ra bởi lũ lụt, hạn hán, và xung đột với Pháp. Cũng trong tháng mười một, Hồ viết cho Bộ Trưởng Ngoại Giao [Mỹ] yêu cầu thiết lập quan hệ văn hóa với Mỹ bằng cách gửi năm mươi sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ, và phàn nàn về sự vắng mặt của đại diện Việt Nam tại Hội nghị Washington cho vùng Viễn Đông. Xuất phát từ việc Truman bổ nhiệm Tướng Marshall làm đại diện đặc biệt ở Trung Quốc, đầu năm 1946 Hồ Chí Minh một lần nữa kêu gọi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ nhằm đưa ra một giải pháp trước mắt cho vấn đề Việt Nam. Ngày 16 Tháng Hai 1946, một giọng văn khó chịu xuất hiện: Hồ viết một lần nữa gửi Tổng thống Truman ngụ ý có sự "đồng lõa, hoặc ít nhất, thông đồng của các cường quốc dân chủ lớn" với sự xâm lăng của Pháp, nhưng Hồ vẫn xin Mỹ có một "bước quyết định" để hỗ trợ cho Việt Nam độc lập, chỉ yêu cầu được hưởng như những gì đã được "ân cần cấp cho Philippines". Hồ phát sóng khẩn cấp dến Mỹ, Trung Quốc, Nga, và Anh yêu cầu Tứ Cường "can thiệp" để ngăn chặn đổ máu và đưa vấn đề Đông Dương ra trước Liên Hiệp Quốc.

Chuyện đã trở nên rất rõ, tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn không phải làm gì để hỗ trợ Việt Minh. Giả sử những kêu gọi của Hồ Chí Minh là chân thành, thời gian thuận lợi nhất đối với Mỹ để can thiệp vào Việt Nam là trong mùa thu năm 1945, và triển vọng hành động của Mỹ đã bị mờ đi giống như việc VNDCCH đàm phán với Pháp tiến hành trong tháng hai, tháng ba năm 1946. Nghịch lý thay, khả năng [lúc ấy] là cộng sản sẽ lên nắm quyền ở Pháp sẽ thêm ưu đãi cho Hồ Chí Minh để đàm phán với Pháp, và [đồng thời] kích thích Mỹ hỗ trợ cho Pháp mạnh hơn. Cuối cùng, Mỹ đã không ủng hộ Việt Minh chống chủ nghĩa thực dân (mặc dù Hoa Kỳ đã áp lực Pháp nhượng bộ cho dân tộc Việt), vì lợi ích của mình dường như là tham gia trực tiếp hơn trong việc củng cố Pháp như là một phần quan trọng để giúp [Mỹ] hổ trợ phục hồi Âu Châu. Mặt khác, Hồ Chí Minh tiếp tục hy vọng có một nước Pháp mới, phá vỡ các chính sách thực dân cũ của nó dưới một chính phủ Xã Hội hay Cộng Sản.

Trao đổi giữa Hồ Chí Minh với Hoa Kỳ chấm dứt sau Hiệp Định tháng 6 năm 1946 với Pháp, mặc dù Hồ Chí Minh đã thăm Đại sứ quán Mỹ tại Paris vào ngày 11 tháng Chín năm 1946.

TÓM LƯỢC

Thời điểm

Sự việc

Trang

22 tháng 8/1945

Biên bản ghi nhớ gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao từ Giám đốc O.S.S báo cáo thái độ hào phóng của Pháp đối với Đông Dương (dựa trên khẳng định của chính Sainteny) và mong muốn của người Việt Nam được hưởng chế độ bảo hộ bởi Mỹ (dựa trên những xác nhận của đại diện của Việt Minh và Đồng Minh Hội)

C-66

29 tháng 9/1945

Điện tín từ Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh, gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, ngày 18 Tháng Mười, 1945. Tóm tắt thư từ của Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống Mỹ, bày tỏ sự cảm thông ở cái chết của Đại Tá Peter Dewey, Tư lệnh O.S.S ở Sài Gòn. Yêu cầu Tổng Thống thông báo trước việc di chuyển của các công dân Mỹ [ở VN], nhưng đánh giá cao việc Mỹ đứng lên cho công lý và hòa bình quốc tế

C-69

17 tháng 10/1945

Điện tín, Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman. Kêu gọi VNDCCH trở thành thành viên của Ủy ban Tư Vấn Liên Hợp Quốc Cho Vùng Viễn Đông. Trích dẫn Hiến chương Đại Tây Dương để thúc đẩy đòi hỏi của mình được làm thành viên phó cho [phái đoàn] Pháp

C-71

22 tháng 10/1945

Thư, Hồ Chí Minh gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, kêu gọi sự can thiệp trực tiếp của Liên Hợp Quốc. Hấp dẫn đối với Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Liên Hợp Quốc, và cảnh báo chiến tranh mở rộng trong khu vực Viễn Đông, Hồ kêu gọi hành động của Liên Hợp Quốc can thiệp với Pháp, bao gồm một "Ủy ban Điều Tra."..

C-80

23 tháng 10/1945

Đại sứ Mỹ ở Paris báo cáo về những bài viết của báo chí về lời kêu gọi của Hồ trên đài phát thanh gửi cho Tổng thống Truman và các nhà lãnh đạo phương Tây khác, thông báo kế hoạch tổ chức tổng tuyển cử. Chính phủ Pháp tuyên bố sẽ không phản đối về nguyên tắc một tổng tuyển cử nếu Hồ Chí Minh đại diện cho tất cả Đông Dương và chứ không đơn thuần là Việt Minh

C-75

01 tháng 11/1945

Thư từ Hồ Chí Minh gửi James Byrnes, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đề nghị gửi một đoàn đại biểu 50 thanh niên Việt sang Mỹ để thúc đẩy quan hệ hữu nghị văn hóa và học tập tại các trường đại học Mỹ …

C-90

05 tháng 11/1945

Thông điệp, Philip D. Sprouse, lãnh sự Mỹ, Côn Minh, gửi Bộ trưởng Ngoại giao. Gộp chung với lá thư ngày 22 tháng 10 của Hồ, khảo sát tình hình tại Việt Nam dựa trên các báo cáo của Đại tá Nordlinger, Mỹ, và báo cáo về việc Hồ và Bảo Đại tìm cách đến thăm Tưởng Giới Thạch

C-76

08 tháng 11/1945

Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh tóm tắt bức thư của Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống Truman và Tưởng Giới Thạch nhấn mạnh việc mất chủ quyền của Pháp, VNDCCH lấy lại chủ quyền, và sự xâm lược của Pháp để tái chiếm nó. Khẳng định Pháp chịu trách nhiệm khi tiếp tục chiến tranh xâm lược ở Viễn Đông

C-84

23 tháng 11/1945

Điện tín từ Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh, diễn giải các thư từ Hồ Chí Minh gủi Tổng Thống Truman và Tổng giám đốc của UNRRA, mô tả nạn đói ở Bắc Việt Nam, và kêu gọi cứu trợ

C-87

26 tháng 11/1945

Thông báo từ Đại sứ quán Hoa Kỳ, Trùng Khánh, gộp chung lá thư 1 tháng 11, lá thư của 28 Tháng Mười của Hồ gửi Tưởng Giới Thạch đôn đốc Tưởng ngăn chặn các hành động của Anh-Pháp-Nhật tại Nam Kỳ; và điện tín không ghi ngày gửi Bộ trưởng Ngoại giao phản đối rằng Pháp không có quyền nói chuyện thay cho Việt Nam trong các Hội đồng quốc tế, và kêu gọi tất cả các quốc gia tự do trên thế giới giúp ngăn chặn chiến tranh ở Nam Việt Nam

C-89

18 tháng 01/1946

Điện tín từ Đại sứ quán Mỹ, Trùng Khánh, ngày 13 tháng hai 1946, diễn giải lá thư của Hồ gửi Tổng Thống Truman, ngày 18 Tháng 1 năm 1946, nhắc nhở rằng hòa bình là không thể chia cắt và yêu cầu Tổng thống can thiệp để giải quyết ngay lập tức vấn đề Việt Nam. Telegram mô tả thư giống hệt từ Tướng Marshall, cùng một ngày

C-93

16 tháng 02/1946

Thư có chữ ký của Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Hoa Kỳ trích dẫn các nguyên tắc mà Hoa Kỳ ủng hộ trước, trong và sau chiến tranh, và cả Liên Hợp Quốc, kêu gọi Mỹ viện trợ cho Việt Nam đối mặt với xâm lược Pháp. Hồ yêu cầu cho Việt Nam được hưởng những gì như Philippines được hưởng "như Philippines, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với HOA KỲ."

C-95

18 tháng 02/1946

Thư từ VNDCCH gửi các chính phủ Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô, và Anh, kêu gọi họ quan tâm đến việc Vichy-Pháp hợp tác với Nhật ở Đông Dương, và các chính sách đã dẫn đến nạn đói trong dân chúng Việt Nam. Một lần nữa vào ngày 09 tháng 3 1945, người Pháp đã chấp nhận Nhật chiếm giữ chính quyền. Ngược lại, cuộc kháng chiến Việt Nam đã chiến đấu Nhật trong những năm qua, và vào tháng Tám, năm 1945, lật đổ chế độ Nhật [Nippon], và thành lập VNDCCH dựa trên những nguyên tắc đề ra bởi Tôn Dật Tiên và Tổng thống Truman. Những bước phát triển rất ấn tượng đã đạt được của VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam, nhưng ở miền Nam Việt Nam, Pháp xâm lược đã áp đặt. VNDCCH khẩn trương kêu gọi sự can thiệp của Đồng Minh để ngăn chặn chiến tranh, và đưa vấn đề Đông Dương ra trước Liên Hợp Quốc.

C-98

27 tháng 02/1946

Điện tín của phụ tá trưởng của Phòng Các Vấn Đề Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (Landon), gửi Bộ trưởng Ngoại giao, từ Hà Nội, nhận được ở Washington ngày 27 Tháng Hai. Tóm tắt về tình trạng các cuộc đàm phán giữa Pháp (Sainteny) và VNDCCH. Báo cáo rằng Hồ Chí Minh trao hai lá thư để gửi cho Tổng thống Hoa Kỳ, khẳng định rằng người Việt sẽ chiến đấu cho đến khi có can thiệp của Liên Hợp Quốc vào Việt Nam. Yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam độc lập "theo ví dụ của Philippines."

C-101

11 tháng 09/1946

Biên bản ghi nhớ cuộc trò chuyện với Hồ Chí Minh do Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Mỹ, Paris, ngày 12 tháng chín 1946. Hồ mô tả việc liên lạc với O.S.S. của mình, từ chối mình có kết nối cộng sản và chỉ ra rằng ông hy vọng có được viện trợ từ Hoa Kỳ. Ông đề cập cụ thể những hỗ trợ kinh tế, nhưng gợi ý viện trợ quân sự và hải quân, thí dụ như, ông ta đề cập đến căn cứ hải quân tại Vịnh Cam Ranh.

C-102

22 Tháng 08 năm 1945

Bản ghi nhớ gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao

Đại diện O.S.S ở Côn Minh đã gửi những thông tin liên quan đến thái độ của Pháp đối với Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương. Chính Phủ Lâm Thời cũng đã là chủ đề của hai bản ghi nhớ ngày 21-08-1945.

Chính phủ Pháp đã quyết định chấp nhận một đường lối ngoại giao “thụ động” đối với vấn đề tái chiếm Đông Dương bởi vì họ không có khả năng trở lại đó với một quân đội hùng hậu. Một Ủy Ban gồm ba người đã được chính phủ Pháp ở Paris chỉ định, một người là xếp DGER [cơ quan Tình Báo của Pháp] ở Côn Minh, Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa và Toàn Quyền Đông Dương. Nhiệm vụ của họ là liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam và thương thảo với họ cho có lợi cho Đông Dương, theo lời Thiếu Tá Sainteny là người đại diện cho Ủy Ban tại Hà Nội. Chính sách của Pháp là một chính phủ mỡ rộng với [Pháp] như là cố vấn cho Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương thành lập bởi Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Minh, [hai phe này] đã cùng nhau lập ra Ủy Ban Cứu Quốc. (Việt Minh là đảng 100% cộng sản với khoảng 20% thành viên tích cực chính trị là người bản xứ. Quốc Dân Đảng gồm 6 đảng nhỏ và một số thành viên độc lập). Ủy Ban Pháp được giao trách nhiệm thương thuyết thẳng với lãnh đạo Đông Dương và lấy quyết định nhằm kiếm một phương cách hành động (modus operendi) tốt nhất. Ủy Ban có toàn quyền ký hiệp ước nhân danh nước Pháp. Ủy Ban sau đó báo cáo lại Paris và nơi đây dành đặc quyền sửa đổi những tiểu tiết trong toàn bộ thỏa thuận. Lãnh đạo Việt Nam ở Côn Minh và những người đại diện Ủy Ban Giải Phóng Quốc Gia mới [thành lập] ở Hà Nội đã đưa ra mong muốn là Việt Nam được đặt dưới sự bảo hộ của Hoa Kỳ và hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ can thiệp với Liên Hiệp Quốc để loại Pháp cũng như Trung Quốc ra khỏi việc chiếm đóng Việt Nam.

Theo nguồn tin đáng tin cậy từ Pháp và Việt Nam cho biết Ủy Ban Trung Ương [Việt Minh] đang thảo luận với giới chức quân sự Nhật ở địa phương để mua lại vũ khí đạn dược, với chủ ý là sẽ dùng chúng, nếu một khi Pháp hay Trung Hoa cố tình chiếm đóng các vùng [của VN]. Đông Dương sợ rằng khi người Tầu chiếm đóng họ sẽ ở lại chiếm đất lập nghiệp [squatter], cướp bóc, hiếp dâm, trộm cắp. Người Pháp nhất trí với ý này [nhưng] cho tới nay chỉ muốn những quyền hành chánh là để dành riêng cho họ. Lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc và Ủy Ban Cứu Quốc ở Hà Nội đưa ra tuyên bố như sau vào ngày 15 tháng Tám:

“Nếu người Pháp nhắm trở lại Đông Dương với ý định cai trị Đất Nước này, và hành xử một lần nữa như kẻ áp bức, các dân tộc Đông Dương sẽ chiến đấu cho đến khi sự tái chiếm đó chấm dứt. Mặt khác, nếu họ đến đây như những người bạn nhằm thiết lập thương mại, công nghiệp mà không một ý đồ về quyền hành nào khác, họ sẽ được chào đón như bất cứ các nước nào khác. Ủy Ban Trung Ương cũng muốn thông báo với Hoa Kỳ là nhân dân Đông Dương trước hết là Đông Dương Độc Lập và, hy vọng rằng Hoa Kỳ là nước vô địch về Dân Chủ sẽ hổ trợ họ để đạt nền Độc Lập theo những phương cách sau: (1) ngăn cản hay không yểm trợ cho Pháp trở lại Đông Dương; (2) kiểm soát [quân] Tầu để những chuyện cướp phá, trộm cắp được giữ ở mức tối thiểu; (3) gửi những cố vấn kỷ thuật để khai thác đất đai; và (4) phát triển những công nghiệp mà Đông Dương có khả năng lo toan.

“Tóm lại nhân dân Đông Dương muốn được đặt dưới cùng một chế độ như Phi Luật Tân trong một thời gian vô hạn định”

Đại diện Pháp ở Côn Minh, Thiếu Tá Sainteny, hiện đang nhận những giúp đỡ vật chất từ Đội Liên Lạc Vùng Viễn Đông [SLFEO – Section Liaison Francaise Extrême Orient] ở Calcutta để sắp xếp và sẵn sàng nhân sự để tái nhập vào Đông Dương. Nhóm của họ sửa soạn để sẳn sàng lên đường sáng ngày 17 thàng Tám. Tuy nhiên, khi đến phi trường họ đụng độ với người Trung Hoa và quân cảnh Mỹ gác các phi cơ và cấm họ rời phi trường. Trong những cuộc nói chuyện sau này về ngày đó, Sainteny nói rằng ông ta nghĩ rằng người Pháp bị người Mỹ phản bội. Ông ta nhấn mạnh thêm rằng chính người Mỹ ở Trung Quốc đã từ lâu bị người Tầu chơi xấu dù rằng không có chủ tâm. Khi được hỏi về ý định của ông kể từ này về sau, ông ngập ngừng nói là người Pháp không có gì để làm ngoại trừ phải chờ lệnh từ Trùng Khánh. Bộ phận tình báo DGER của Pháp đã đưa toán xâm nhập đi Hải Phòng dưới sự chỉ huy của Đại Úy Blanchard. Ông này liên lạc với Trung Tá Kamiya, cựu liên lạc viên giữa Bộ Chỉ Huy Nhật và chính quyền của Đô Đốc Decoux. Kamiya giữ toán này lại ở Hải Phòng, chỉ giao cho việc lo chuyển tin về những dữ kiện đầu hàng [của Nhật] và tin tức thời tiết về cho Bộ Tư Lệnh của Pháp tạo Côn Minh.

Báo cáo từ Kandy nói rằng Đại Tá Roos, chỉ huy của SLFEO ở Calcutta, hiện nay đang có mặt ở Saigon để phụ giúp việc Nhật đầu hàng trong nhóm nhân viên đại diện Anh Quốc. Cùng với Đại Tá Roos là Đại Tá Fay, cựu tùy viên quân sự của Pháp ở Côn Minh mà vai trò chính xác để làm gì vẫn chưa được biết, nhưng ông ta là thành phần nhân viên của Lord Mountbatten.

William J. Donovan

Giám Đốc

Mật -

Trùng Khánh chuyển qua “War”…[không rõ là gì]

Ngày 18 Tháng 10, 1946

chú giải trước khi chuyền

cho bất cứ ai (Mật)

Gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao,

Washington

1820 18 tháng 10, 10 a.m.

Những gì tiếp sau đâu là tóm tắt một bức thư viết tại Hà Nội ngày 29 tháng Chín gửi Tổng Thống Hoa Kỳ bởi Hồ ký tên là “Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời của nước Cộng Hòa Việt Nam”. Lá thư được giao cho Tướng Mỹ Gallagner, đứng đầu Nhóm Liên Lạc Bộ Tư Lệnh Chiến Đấu Trung Quốc [Chinese Combat Command Liaison Group] với quân đội Trung Hoa ở miền Bắc Đông Dương và được chuyển tới Sứ Quán Hoa Kỳ qua các kênh của Quân Đội.

Đài phát thanh Saigon đưa tin Trung Tá Peter Dewoy của Hoa Ky bị giết, theo cuộc điều tra đang tiến hành của Pháp là có đụng độ giữa các lực lượng Việt Nam quốc gia và kẻ xâm lược Pháp ở Nam Kỳ … Vì Saigon đang nằm trong tay của lực lượng Pháp-Anh nên chưa thể điều tra ngay nhưng chúng tôi thành thật hy vọng đó không phải là sự thật. Nhưng nếu đó là một sự cố có thật thì [lý do] tại vì tình trạng hỗn loạn không rõ ràng, hay trường hợp đáng tiếc đã xảy ra, hay là do sự khiêu khích của Pháp hay Anh.

Không kể bất cứ gì, chuyện này nay đã buộc chúng tôi phải hành động sâu hơn và chúng tôi sẽ tích cực kiếm cho ra thủ phạm để trừng phạt chúng một cách kín đáo. Nhiều biện pháp đã được đưa ra hầu ngăn chận những trường hợp tương tự. Chúng tôi cam đoan với ngài là chúng tôi vô cùng đau đớn cho cái chết của bất cứ công dân Mỹ nào ở đất nước này như những người thân yêu quí nhất của họ.

Chúng tôi chỉ yêu cầu các vị đại diện cho ngài ở nước này [VN] báo trước cho chúng tôi việc đi lại của các công dân [Mỹ] của ngài và phải cẩn thận khi “vượt qua” những chỗ đang đánh nhau. Như thế sẽ tránh được những sự cố và giúp [chúng ta] chào đón những điều vui vẻ (gửi cho Bộ và đồng thời cho Paris)

Chúng tôi cam đoan với ngài lòng ngưỡng mộ và tình hửu nghị mà chúng tôi cảm nghĩ về người Mỹ và những người đại diện [cảa Mỹ] ở đây. Đó là những cảm tình huynh đệ thật sự mà chúng tôi dành cho bản thân người Mỹ mà còn xem bộ quân phục của Mỹ là chứng cớ là Hoa Kỳ đứng về phía công bằng và hòa bình thế giới và “khối cai quản”.

Tôi xin gửi đến Ngài Tổng Thống và nhân dân Mỹ lời chào kính trọng và ngưỡng mộ (HẾT TÓM TẮT]

Ký tên Robertson

Office Memorandom United States Government

Ngày 15 tháng 11, 1945

Nhận: FE - ông Vincent

Gửi : SEA – ông Muffot

Điện tín gửi Tổng Thống Truman của Hồ Chí Minh

SEA cho rằng không cần có hành động gì liên quan đến điện tín đính kèm do Hồ Chí Minh gửi Tổng Thống yêu cầu có thành viên của cái gọi là “Cộng Hòa Việt Nam” trong Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông.

Ký tên

SEA: ALMoffat

[Liên qua đến tài liệu sau]

Điện Tín

Tòa Bạch Cung

Washington

1 N RA. 349 via RCa

Hà Nội, gửi qua Côn Minh, 17 tháng 10 năm 1945

Ông Hồ Chí Minh Chủ Tịch của Tạm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

gửi Tổng Thống Truman, Washington

Việc thành lập Ủy Ban Tham Vấn cho Vùng Viễn Đông được người Việt nức lòng đón nhận trên nguyên tắc. STOP. Quan tâm đến, thứ nhất là tầm quan trọng kinh tế và chiến lược của Việt Nam, thứ hai là Việt Nam ước mong tha thiết nhất và nhất trí mong được hợp tác với các nền dân chủ để xây dựng và củng cố nền hòa bình và thịnh vượng của Thế Giới; chúng tôi kêu gọi sự lưu ý của các quốc gia Đồng Minh về những điểm sau HAI CHẤM

Thứ nhất, sự vắng mặt của Việt Nam và sự hiện diện của người Pháp trong Uỷ Ban Tham Vấn sẽ dẫn đến kết luận là Pháp đại diện cho Việt Nam trong Ủy Ban. STOP. Sự đại diện đó là không có cơ sở dù là chỉ một ngày hay đương nhiên. STOP. Trên pháp lý, việc Việt Nam thuộc Pháp từ nay không còn nữa. CHẤM PHẨY. Bảo Đại đã hủy bỏ hiệp ước với Pháp ký năm 1884 và 1863. PHẨY. Bảo Đại đã tự ý thoái vị và nhường chính quyền lại cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. PHẨY. Chính phủ Lâm Thời phê chuẩn việc hủy bỏ các Hiệp Ước 1884 và 1863. STOP. Trên thực tế, ngày 9 tháng Ba Pháp đã trao chính quyền lại cho Nhật đã xé bỏ mọi liên hệ hành chánh với Việt Nam, kể từ ngày 18 tháng Tám 1945, chính phủ lâm thời trên thực tế là một chính quyền độc lập trên mọi phương diện, những sự cố gần đây ở Saigon do Pháp gây ra đã khuấy động nỗi bất bình toàn diện dẫn tới cuộc chiến dành độc lập. Thứ hai, Pháp không còn xứng đáng khi họ bán đứng một cách dơ bẩn Đông Dương cho Nhật và phản bội Đồng Minh. Thứ ba, Việt Nam đủ tiêu chuẩn theo như Hiến Chương Đại Tây Dương và theo như những thỏa thuận hòa bình sau đó, và do thiện ý và không nao núng đứng về phía Dân Chủ [Việt Nam] phải có đại diện trong Ủy Ban Tham Vấn. STOP. Chúng tôi nghĩ rằng sự có mặt của Việt Nam trong Ủy Ban sẽ mang lại những cống hiến có hiệu quả cho những giải pháp cho các vấn đề còn tồn tại ở Viễn Đông, ngược lại, sự vắng mặt của nó sẽ mang lại xáo trộn và và tính tạm bợ cho những giải pháp dù có đạt được. Vì thế chúng tôi tha thiết yêu cầu được góp phần trong Ủy Ban Tham Vấn về Viễn Đông. STOP. Chúng tôi rất biết ơn Ngài Tổng Thống, Thủ Tướng Attlee [Anh], Thủ Tướng Stalin, Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch trong việc chuyển những khao khát của chúng tôi lên Liên Hiệp Quốc.

Trân Trọng

Hồ Chí Minh

Điện Tín Đến

Action: NOE

Paris

ngày 23 Tháng 10, 1945

nhận lúc 12:48 AM ngày 24

cho bất cứ ai ([Phổ biến] giới hạn)

Gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao,

Washington

619G, 23 tháng 10, 7:PM

Nhiều tờ báo đăng tải một tin tức giống nhau cho tin rằng Hồ Chí Minh, chủ tịch của Việt Minh, đã gửi qua đài phát thanh Hà Nội đến Tổng Thống Truman, Thủ Tướng Attlee và Tướng Degaulle và thông báo “Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam” sẽ tổ chức tổng tuyển cử trong vòng hai tháng để lập ra Hiến Pháp Đông Dương.

Những bài báo đăng tiếp “các nhóm người Pháp trong chính quyền” lưu ý rằng dường như là Việt Minh không có khả năng tổ chức tổng tuyển cử. Tuy nhiên, chính phủ Pháp sẽ không phản đối một tổng tuyển cử như thế nếu Hồ Chí Minh đại diện cho toàn Đông Dương chứ chỉ không là Việt Minh.

Chỉ có những tiếp xúc giữa Pháp với Việt Minh, nguồn tin trên kết luận, xảy ra chỉ để ngăn chận được đổ máu và sẽ là không chính xác nếu nói đó là những thương thuyết thật sự.

Ký tên, Caffery

TỔNG LÃNH SỰ HOA KỲ

Côn Minh, Trung Quốc, ngày 24 tháng 10 năm 1945

Vấn đề: Thư từ lãnh đạo Việt Nam;

Tình Hình Đông Dương

Gửi Ngài Bộ Trưởng Ngoại Giao,

Washington

Liên quan đến thông tư của Tổng Lãnh sự số 27 tháng 9 năm 1945 về tình hình Đông Dương, tôi được vinh dự gửi kèm theo đây: (a) bản sao bức thư của Hồ Chí Minh “Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao vào ngày 22 tháng 10 năm 1945; (b) bản dịch của bức thư đề ngày 22 tháng 10 năm 1945 gửi bởi HSIAO Wen, thuộc Sở Các Vấn Đề Nước Ngoài chuyên lo giúp các Lực Lượcng Trung Hoa đang đóng ở Việt Nam, gửi Tướng Chin Cheng, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh của Trung Hoa; và (c) bản dịch của bức thư đề ngày 23 tháng 10 năm 1945 gửi bởi Hồ Chí Minh (gọi theo Tây phương là HU Chih-Ming) và YUAN Yung-jui ( Cựu hoàng Bảo Đại) gửi Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch.

Nguồn gốc của những thư tín này là do hai sĩ Quan Hoa Kỳ mang đến Côn Minh ngày 24 tháng 10 năm 1945, [hai người này] đã làm việc ở Hà Nội từ nữa sau của tháng 10 trong nhóm G-5 lo về việc đào thoát cho những tù binh bị bắt. Đại Tá Stephen Nordlinger, sĩ quan chỉ huy nhóm, cho tôi biết rằng ông đang mang theo để gửi đến Washington lá thư gốc để giao cho Bộ Trưởng Ngoại Giao qua phương cách nào thuận lợi nhất ngay khi ông đến đó. Những lá thư gốc gửi Tướng Cheng Chen và Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch trong các bì thư được niêm phong bởi người gửi đến tướng Cheng đã được nơi đây [Tổng Lãnh Sự] gửi chuyền đến Đại Sứ Quán ở Trùng Khánh để gửi về Hoa Kỳ qua các đường liên lạc của Quân Đội. Những sĩ quan mang thư đến Côn Minh cho biết là họ không được Hồ Chí Minh cho biết trong thư có gì và nội dung thông tin gửi tướng Cheng và Tổng Tư Lệnh nhất thiết chỉ có thẩm quyền Trung Hoa được biết mà thôi. Tòa Tổng Lãnh Sự được yêu cầu thông dịch những thư này trong chừng mực mà có thể tin rằng những thư này có những thông tin có tính cách quân sự mà giới thẩm quyền quân đội Hoa Kỳ quan tâm.

Tóm lược những nội dung: Trong thư gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao này, Hồ Chí Minh nói rằng ông đã chuyển nhiều tài liệu liên quan đến tình hình Đông Dương hiện nay (những tài liệu đó đã được gửi đi trong một chuyến gửi riêng), ông cũng nói đến việc Pháp áp bức người Việt Nam và mong muốn của Việt Nam về việc thực hiện những “nguyên tắc của Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương San Francisco”. Ông kết án người Pháp về những xáo trộn đang xảy ra ở Nam Kỳ và kêu gọi một “can thiệp ngay tức khắc” của Liên Hiệp Quốc e rằng hậu quả sẽ tràn ra khắp vùng Viễn Đông. Ông này đưa ra bốn yêu cầu: (1) Tình hình [Đông Dương] phải được bàn thảo ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông; (2) Đại biểu Việt Nam phải được tham dự để trình bày quan điểm của “Chính phủ Việt Nam”; (3) một ủy ban điều tra phải được gửi đến Đông Dương; (4) Liên Hiệp Quốc phải công nhận Độc Lập cho Việt Nam.

Những viên chức trong Bộ Ngoại Giao Trung Quốc [Chinese Oversea Affaires] phát biểu rằng Hồ Chí Minh và Bảo Đại mong muốn được bí mật gặp Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch và yêu cầu gửi một phi cơ đến Hà Nội cho việc này. Trong những bức thư gửi Tổng Tư Lệnh, lãnh đạo Việt Nam mong muốn được đối xử trân trọng và trả lời cho họ. Hết phần tổng kết.

Những sĩ quan Hoa Kỳ mô tả tình hình Đông Dương như sau:

Tình hình đang bị phức tạp hơn do vấn đề lương thực, lại càng nặng hơn do việc quân đội Trung Quốc không mang thực phẩm theo với họ. Ước tính có khoảng 100 ngàn lính Trung Quốc hiện nay ở Đông Dương và họ đã lấy một lượng lớn lương thực ở Hải Phòng dùng để làm giảm sự khốn khổ [nạn đói]. Pháp đưa ra mong muốn chuyển vận gạo từ Saigòn ra để giao cho các đại lý gạo ở Hà Nội và Hải Phòng mang ra bán, đó là cách hay nhất để phân phối. Hồ Chí Minh sẳn sàng cho phép việc phân phối đó nhưng xem đó là một quà biếu của nhân dân Pháp chứ không phải của chính phủ Pháp. Lũ lụt đã tàn phá 50% mùa màng ở phía Bắc trong khi ở Saigon lượng thóc lúa lại dư thừa. Trung Quốc lại muốn nổ lực vận chuyển bằng đường bộ từ Saigon, dĩ nhiên sẽ rất chậm, tính như tình trạng giao thông hiện nay.

Phía Việt Nam đáng kết án là đã quá đáng vì họ đã giết từ 20 đến 30 người Pháp, đàn bà và trẻ em, bị bắt giữ con tin ở Saigon, và đã bắt làm con tin nhiều người Pháp khác ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế và Vinh. Ở Hà Nội những đội [Tự Vệ] võ trang liên tục sục kiếm những nhà của người Pháp để kiếm vũ khí cất dấu và cảnh những người đàn ông Pháp bị bắt đứng dựa tường dưới sự canh giữ của những người Viêt võ trang, trong khi những người khác lùng sục trong nhà là những cảnh thường thấy.

Người Mỹ rất được người Việt Nam yêu chuộng, họ [VN] làm tất cả các thứ để thuyết phục người Mỹ về chánh nghĩa của họ. Vẫn còn những chứng cớ hiển nhiên về tình cảm phò Vichy ở vùng Hà Nội, những người Pháp không bị bắt giữ như tù nhân ở thành phố sẽ bị nghi ngờ là có liên hệ với kháng chiến [Pháp].

Lý do mà đại diện Pháp, tướng Allesandri, thất bại trong việc đại diện cho Pháp trong buổi lễ chấp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Hà Nội là vì người Việt trưng tất cả những lá cờ các nước trong Liên Hiệp Quốc trừ lá cờ của Pháp tại nơi hành lễ. Phía Việt Nam từ chối treo cờ Pháp trên cơ sở là Pháp đã hợp tác với Nhật ở Đông Dương và Trung Quốc ủng hộ Việt Nam về chuyện này. Tình cảm chống Pháp được thể hiện qua những cuộc biểu tình khổng lồ thường xuyên xảy ra ở Hà Nội. Người Việt Nam chiếm tất cả các bin đinh hành chánh và các cơ sở công ích ở toàn vùng [Hà Nội]. Họ trương lên những bích chương và biểu ngữ khắp nơi trong thành phố, một vài chỗ đọc thấy “Hãy giết bọn Pháp” và một vài nơi bằng tiếng Anh cho con mắt người Mỹ thấy.

Người Pháp có thể quay lại Đông Dương, dĩ nhiên, nhưng đó là một điều sai lầm trừ khi họ đã được sửa soạn vào lại với sức mạnh đầy đủ để đè bẹp kháng chiến Việt Nam trong một thời gian ngắn. Nếu người Pháp trở lại Việt Nam mà không có một lực lượng áp đảo và không có Không Quân yểm trợ đáng nể thì cuộc chiến sẽ đẫm máu và lâu dài. Người Việt chỉ có vũ khí nhẹ - sung tiểu liên, súng trường và lựu đạn ném tay và không thể chống cự với khí giới hạng nặng. Những vũ khí này do Hoa Kỳ và Nhật cung cấp cho họ; vũ khí Mỹ được giao cho họ để đánh Nhật trước khi Nhật đầu hàng. Những lộn xộn hiện này chỉ xảy ra chủ yếu là ở Hà Nội, Hải Phòng và Vinh – Huế, Saigon chừng mực nào đó khá hơn vì sự có mặt của một số lớn quân Anh. Lào và Cambodge hầu như không bị ảnh hưởng bởi Việt Nam.

Lực lượng chiếm đóng Trung Hoa thì thận trọng và đôi khi, trong một số trường hợp, theo lời yêu cầu của người Mỹ, họ phải buộc người Việt Nam thả những người tù chính trị Pháp. Họ không cho Việt Nam vũ khí dù họ [VN] rất muốn có càng nhiều vũ khí càng tốt cho họ. Tuy thế, người Tầu đưa vào bù nhìn riêng của họ là Nguyễn Hải Thần là một thành viên của Liên Minh Cách Mạng Việt Nam, bảo trợ bởi Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Được biết là ông này đã lưu vong từ hai mươi lăm năm qua. Ông này cộng tác với phong trào độc lập nhưng không có ghế nào trong chính phủ.

Đại Tá Nordlinger, nguồn của hầu hết các tin tức đương thời cho biết rằng ông sẽ tiến hành đi Washington sớm và sẽ gọi Bộ Ngoại Giao liên quan đến việc chuyển giao thư của Hồ Chí Minh gủi Bộ Ngoại Giao.

Trân Trọng

Ký tên,

Philip D. Sprouse

Lãnh Sự Hoa Ky

Đính kèm:

Thư của Hồ Chí Minh gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao ngày 22 tháng 10 năm 1945 Bản dịch lá thư do Hsiao Wen gửi tướng Cheng Chen ngày 22 tháng 10 năm 1945 Bản dịch lá thư của Hồ Chí Minh và Bảo Đại gửi Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch ngày 22 tháng 10 năm 1945

Bản gốc và bản in gửi Bộ

Bản sao gửi Đại Sứ Quán, Trùng Khánh

800 PDSprouse/ pds

CHÍNH PHỦ LÂM THỜI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Hà Nội ngày 22 tháng 10 năm 1945

Bộ Trưởng Ngoại Giao [VN]

Gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao [Hoa Kỳ], Washington, D.C.

Thưa Ngài,

Tình hình Việt Nam đã đạt một mức độ nguy hiểm, và đòi hỏi một sự can thiệp tức khắc từ phía Liên Hiệp Quốc. Tôi ước mong rằng thư này sẽ mang lại cho Ngài thêm một số ánh sáng trong ba tuần qua vào trong ánh sáng của Thế Giới.

Trước tiên, tôi trân trọng gửi đến Chính Phủ của Ngài một số dữ kiện được ghi nhận, trong số đó có Tuyên Ngôn Độc Lập của chúng tôi, Sắc Lệnh Hoàng Triều của Cựu Hoàng Bảo Đại, tuyên bố của chính phủ chúng tôi về chính sách ngoại giao và một thông cáo xác định thái độ của chúng tôi về những sự cố ở Nam Kỳ.

Như những tài liệu này sẽ trình bày cho Ngài, nhân dân Việt Nam từ mấy năm nay đã biết rằng những gì đã xảy ra sẽ tự nhiên đưa quốc gia Việt Nam vào tình trạng ngày hôm nay. Sau 80 năm bị Pháp đàn áp và nhiều cuộc kháng chiến thất bại mặc dù kiên cường, cuối cùng chúng tôi được thấy Pháp thua trận ở Âu Châu, tiếp theo là phản bội Đồng Minh để theo Đức và Nhật. Mặc dù có những trục trặc với Đồng Minh vào thời đó, người Việt Nam đã để qua một bên mọi bất đồng về chính trị, đoàn kết dưới Liên Đoàn Việt Minh và bắt đầu cuộc chiến đấu tàn nhẫn với người Nhật. Trong khi đó, Hiến Chương Đại Tây Dương đã được đúc kết, định ra mục tiêu của chiến tranh của Đồng Minh và đặt cơ sở để làm việc cho Hòa Bình. Những nguyên tắc cao quý của nền công lý và bình đẳng Thế Giới đã được đưa ra trong Bản Hiến Chương đó đã kêu gọi mạnh mẽ người Việt và đã góp phần là cho kháng chiến Việt Minh trong vùng chiến tranh thành một phong trào kháng Nhật trên toàn quốc, [việc này] đã thành một tiếng vang rất lớn cho nỗi khát khao Dân Chủ của nhân dân. Hiến Chương Đại Tây Dương đã được xem như cơ sở cho một Việt Nam trong tương lai. Một chương trình xây dựng quốc gia đã được phát thảo sau đó và thấy rằng nó phù hợp với Hiến Chương San Francisco và nó đã được thực hiện từ mấy năm nay: tiếp tục chiến đấu chống Nhật, giành lại Độc Lập ngày 19 tháng Tám, tự nguyện thoái vị của Cựu Hoàng Bảo Đại, phụ giúp Đồng Minh tước khí giới của người Nhật, bổ nhiệm một Chính Phủ Lâm Thời với nhiêm vụ thi hành Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương San Francisco và giúp [việc thi hành các hiến chương này] được thực hiện bởi các quốc gia khác.

Đứng trên thực tế, việc thi hành Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương San Francisco bao hàm việc xóa bỏ chủ nghĩa Đế Quốc và mọi hình thức áp bức. Tiếc thay đây là những điều trái ngược cho một số người Pháp, và với nước Pháp họ đã che đậy sự thực về Đông Dương, thay vì đi vào những thương thuyết hòa bình họ đã đưa ra sự xâm lăng hung bạo với tất cả … [không đọc được] của một nước văn minh. Hơn nữa, thuyết phục đươc Anh quốc là người muốn người Pháp trở lại nắm quyền ở Việt Nam, họ đã được, trước nhất từ Bộ Chỉ Huy Anh ở Đông Nam Á, sau đó là Luân Đôn, một công nhận ngầm cho họ chịu trách nhiệm về chủ quyền và về hành chánh trên Việt Nam. Người Anh đã làm cho hiểu rằng họ đã thỏa thuận cho Pháp được tái lập chính quyền, kết quả là sẽ có một hợp tác Pháp-Việt sẽ đẩy mạnh việc giải ngũ và giải giới Nhật. Nhưng những biến cố sau đó đã chứng minh rằng đó chỉ là những lý lẽ đầy ngụy biên. Toàn thể nước Việt sẽ đứng lên muôn người như một chống lại xâm lược của Pháp. Những đợt bắn sẻ đầu tiên của Pháp được tung ra sáng sớm ngày 23 tháng Chín đã nhanh chóng trở thành một chiến tranh thực sự đã gây ra nhiều tổn thất nặng nề cho cả đôi bên. Việc đem vào tăng cường những toán lính Pháp quan trọng trên những tầu chiến mạnh nhất còn lại của họ đã mở rộng thêm vùng chiến tranh. Cuộc chiến tàn sát còn đang xảy ra ở Đông Dương [trong tài liệu họ viết là Nam Dương – Indonesia], nhiều hành vi dã man của người Pháp đã được ghi nhận mỗi ngày, chúng tôi chờ đợi sự bùng nổ của một xung đột lớn ở Viễn Đông.

Vì vậy, tình hình Nam Kỳ đòi hỏi một sự can thiệp ngay tức khắc. Việc thành lập Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông được đón nhận với niềm vui ở đây như là một bước đi đầu tiên hiệu quả nhằm vào một giải pháp cân bằng cho những vấn đề còn tồn tại. Nhân Dân Việt Nam chỉ yêu cầu được hoàn toàn độc lập và được tôn trọng bằng sự thật và công bằng xin được đưa ra trước Ngài những khát khao sau đây:

Sự cố xảy ra ở Nam Việt Nam phải được đưa ra ngay trong buổi bàn thảo đầu tiên của lập Ủy Ban Tham Vấn Vùng Viễn Đông Phái đoàn đại biểu của Việt Nam phải được chấp nhận để trình bày những quan điểm của Việt Nam Một Ủa Ban Điều Tra phải được gửi đến Nam Kỳ Độc Lập hoàn toàn của Việt Nam phải được Liên Hiệp Quốc công nhận.

Nhân đây tôi xin gửi đến Ngài những lời chúc lành nhất của tôi.

Trân trọng

Chủ Tịch Hồ Chí Minh

Đính kèm Sô. 2 vào thông tư số 3

Đề ngày 24 tháng 10, 1945 từ Côn Minh

BẢN DỊCH

Phân Bộ Những Vấn Đề Quốc Tế

Quân Đoàn Tiền Phương

Hà Nội ngày 22 tháng 10, 1945

Ngài Bộ Trưởng Chen

Thưa Ngài

Tôi vinh dự báo cáo rằng tất cả các viên chức và dân chúng trong nhiều đảng và phe nhóm ở Đông Dương đã nhất trí liên hiệp với nhau. Tôi đã được tiếp cận bởi Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương và ông Yuan Yung-jui [Nguyễn Vĩnh Thụy] là Cựu Hoàng Pao Ta [Bảo Đại] của Việt Nam với yêu cầu sắp xếp cho họ bí mật đến Trùng Khánh để nhờ Ngài giới thiệu họ gặp Ngài Chủ Tịch Chiang [Tưởng Giới Thạch] và giúp họ một thông dịch viên.

Với sự ưng thuận của Ngài, tôi trân trọng xin một chiếc máy bay được gửi đến Đông Dương để tôi có thể đi kèm với các ông Hồ và Nguyễn trên chuyến đi Trùng Khánh của họ. Kèm đây là những lá thư của các ông Hồ và Nguyễn. Xin Ngài cho những chỉ thị để hướng dẫn để tôi khởi sự.

Tôi vinh dự được làm, thưa Ngài, kẻ phục vụ ngoan ngoãn của Ngài.

Ký tên,

Đóng dấu, HSIAO WEN

Đính kèm Số. 2 vào thông tín số 3

Đề ngày 24 tháng 10, 1945 từ Côn Minh

BẢN DỊCH

Hà Nội ngày 22 tháng 10, 1945

Ngài Chủ Tịch Tưởng Giới Thạch

Thông qua Bộ Trưởng Chen

Thưa Ngài

Tôi vinh dự thông báo rằng chúng tôi – Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương và Cố Vấn Cao Cấp Yuan Yung-jui [Cựu Hoàng Đế Bảo Đại] – ước mong đến Trùng Khánh để kính chào ngưỡng mộ Ngài và gặp Bộ Trưởng Chen. Nếu chuyện này được Ngài đồng ý, chúng tôi sẽ cám ơn Ngài đã chiếu cố trả lời cho chúng tôi.

Tôi vinh dự được làm, thưa Ngài, kẻ phục vụ ngoan ngoãn của Ngài

Ký tên,

HỒ CHÍ MINH

HSIAO WEN

ngày 23 Tháng 10, 1945

nhận lúc 12:48 AM ngày 24

cho bất cứ ai (MẬT)

Bộ Ngoại Giao,

Washington

Số 1948, ngày 8 tháng 11, 6 p.m

Cụ thể tiếp theo đây lá thư gửi Tổng Thống Truman bởi Hồ Chí Minh ký tên là “Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Đông Dương”: lá thư đã được đưa cho Tướng Gallagher và được chuyển tiếp đến Sứ Quán [Hoa Kỳ] thông qua đường dây của Quân Đội (số 1820 của Sứ Quán ngày 18 Tháng 10 gửi Bộ Ngoại Giao đồng gửi Paris).

Tôi mong muốn đưa ra đây những tin tức về tình hình Việt Nam:

(1) Khi Nhật vào Đông Dương tháng Chín nằm 1940 đến tháng 11 năm 1941, Pháp, theo Nghị Định Thư Tháng Bảy 1941 và hiệp ước quân sự bí mật ngày 8 tháng 12, 1941 đã chối bỏ chủ quyền [Việt Nam cho Nhật] và đã đứng vào thế chống lại Đồng Minh. Trước sự săn đuổi của Nhật ngày 9 Tháng 3, 1945 người Pháp hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng cho Nhật trái với những gì đã ký kết trong những Hiệp Ước Tháng Ba 1874 và Tháng Sáu 1884, do đó hủy bỏ mọi ràng buộc về Pháp lý và hành chánh với nhân dân Đông Dương. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập ngày 19 tháng Tám, 1945 sau khi Độc Lập của toàn Nước đã giật lại từ tay Nhật. Sau khi Nhật đầu hàng, trong khi Chính Phủ Lâm Thời với đầy đủ khả năng của một Chính Ph?