← Quay lại trang sách

II. A. 1 Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại-♦-Mục Lục

Giải Pháp Bảo Đại Những khó khăn của Pháp Hiệp định Vịnh Hạ Lòng năm 1948 Hiệp định Elysée năm 1949 Chính phủ Bảo Đại Cuộc đàm phán Pau, 1950 Chính Sách của Hoa Kỳ đối với Bảo Đại Đủ điều kiện phê duyệt, 1947-1949 Công nhận năm 1950 Mỹ Viện trợ cho Đông Dương Pháp không khoan nhượng

(1) 1950-1951: De Lattre và "năng động"

(2) 1951-1953: Letourneau và "độc tài"

Bảo Đại chờ đợi Các khó khăn của Mỹ

A.5

A.5

A.5

A.7

A.7

A.9

A.11

A.11

A.13

A.17

A.18

A.18

A.20

A.22

A.26

Giải Pháp Bảo Đại

Những khó khăn của Pháp

Nhận thức Pháp vê cuộc xung đã đột nổ ra trong tháng Mười Hai, 1946, giữa lực lượng của họ ở Đông Dương và các lực lượng Việt Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã dắt đầu thay niềm lạc quan vô bờ bằng nỗi u ám không kiềm chế được. Trong tháng Năm, năm 1947, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Coste-Floret tuyên bố ở Paris: "Đã không còn bất cứ vấn đề quân sự gì ở Đông Dương... sự thành công của quân lực Pháp là hoàn tất". 1/ Trong sáu tháng, mặc dù hàng loạt tấn công bằng tầu đổ bộ bọc thép, xe lội nước, đánh bom vào vùng núi phía Bắc và dọc bờ biển miền Trung, Việt Minh vẫn đưa ra các cuộc tấn công và phá hoại các trục lộ giao thông qua những [kế hoạch] dàn dựng vững chắc, và lúc ấy Paris đến lúc nhận ra họ đã mất chủ động trên chiến trường. Trong khi đó, Pháp đã tung ra những đột phá chính trị đầy tham vọng và cùng mức độ không hiệu quả. Leon Pignon cố vấn chính trị của chỉ huy Pháp ở Đông Dương, và sau đó thành Cao Ủy [Đông Dương], đã viết vào tháng Giêng, năm 1947, đó là:

"Mục tiêu của chúng ta là rõ ràng: hoán vị [chúng ta] vào lĩnh vực chính trị ở Việt Nam mà chúng ta đang tranh cãi với Việt Minh, và để bản thân chúng ta càng ít tham gia càng tốt vào những chiến dịch quân sự và trả đủa, nó phải là công việc của những đối thủ người bản xứ của đảng đó [Việt Minh] "

Trong vòng một tháng, một sứ giả được gửi vào rừng để giao cho chính phủ Hồ Chí Minh một đòi hỏi tương đương với việc đầu hàng vô điều kiện. Khoảng cùng thời gian đó, đại diện Pháp tiếp cận Bảo Đại, cựu Hoàng đế An Nam, với đề xuất hình thành một chính phủ Việt Nam như một giải pháp thay thế cho Hồ Chí Minh. Vừa không có khả nằng áp đặt một giải pháp quân sự, vừa đã khóa kín mọi đàm phán có ý nghĩa với Hồ, người Pháp đã chuyển sang Bảo Đại như khách hàng tiềm năng duy nhất có thể giúp họ thoát khỏi tình thế tấn thối lưỡng nan ở Việt Nam. 2/

Hiệp định Vịnh Hạ Long năm 1948

Triều đình phong kiến của Bảo Đại ở Huế, Việt Nam, là một cái gì chút ít cao hơn một công cụ trong chính sách thuộc địa của Pháp, và - sau khi bị Nhật Bản chiếm đóng – lại [là công cụ] nằm trong chính sách của Nhật Bản. Bảo Đại trở thành Hoàng đế ở tuổi 12, năm 1925, nhưng đến năm 1932 mới thực sự lên ngôi sau khi được giáo dục tại Pháp. Tháng Tám năm 1945, khi Việt Minh đến Huế, Hoàng Đế thoái vị nhường quyền cho Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và nhận chức vụ "Cố vấn tối cao" cho nhà nước mới. Năm 1946, cựu hoàng rời Việt Nam, và đến Hồng Kông. Ở đó, cựu hoàng bản thân đã được thu hút không chỉ bởi đại diện của Pháp, mà cả VNDCCH, phía nào cũng tìm cách mời ông nhân danh họ mà hành động [thương thuyết] với Pháp.

Ban đầu Bảo Đại giữ vị trí trung lâp đứng giữa hai phe đối thủ nhưng đã sớm được phe quốc gia không cộng sản thuyết phục từ chối lời đề nghị của Việt Minh. Một nhóm các phe này [quốc gia], bao gồm các thành viên của Cao Đài, Hòa Hảo, Đồng Minh Hội, Đại thú, và các VNQPD thành lập một Liên Minh Quốc Gia, và tuyên bố hỗ trợ cho Bảo Đại. Một người uy tín đã đánh giá Liên Minh Quốc Gia là "một liên minh mong manh bao gồm những kẻ hợp tác [với Tầu, với Nhật] mất uy tín, những bậc thầy tham vọng đầy âm mưu, những giáo phái không năng lực, và một số lãnh đạo trung thực nhưng nông cạn không người theo" Trong số những người vừa kể có Ngô Đình Diệm, người đã "lần đầu tiên và lần duy nhất, gia nhập một nhóm mà ông không phải người sáng lập", và đã thề nguyền ủng hộ Hoàng đế miễn là ông ta theo đuổi độc lập cho Việt Nam. 3/

Bây giờ, khi đã loại bỏ được việc chọn ủng hộ Việt Minh, Bảo Đại đã trở nên dễ phục tùng hơn trong các cuộc thương thuyết với người Pháp, và tương ứng, người Pháp trở thành gay gắt hơn trong thái độ của họ đối với Việt Minh. Tuy nhiên, ít cam kết được đúc kết từ các cuộc đàm phán. Ngày 07 tháng 12 năm 1947 trên một tàu chiến của Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại đã ký Hiệp định với Pháp, người Pháp đã cam kết quá ít độc lập chính trị cho Việt Nam đến nỗi ngay tức khắc Hiệp Ước đã bi lên án không chỉ bởi Diệm, mà cả nhiều đồng nghiệp cơ hội chủ nghĩa trong Liên minh Quốc gia. Bảo Đại, trong một hành đông mà được xem như là một rút lui chính trị, tự tách mình ra khỏi những mưu đồ đang khai diễn, và bỏ chạy sang tìm vui trong những điểm giải trí ở Châu Âu trong một chuyến đi chơi bốn tháng, việc làm đã cho ông cái mệnh danh là "Hoàng Đế câu lạc bộ đêm."

Thỏa Thuận Elysée, 1949

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau nhiều tháng đàm phán, Tổng thống Pháp Auriol, trong những trao đổi thư tín với Bảo Đại, đã tái khẳng định để Việt Nam độc lập cho như một nước nằm trong Liên Hiệp Pháp và [đưa ra] những]thủ tục chi tiết cho một Việt Nam thống nhất và đặt nó dưới chính quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, trong Hiệp định Elysée, Pháp lại không giao lại quyền kiểm soát cả quân đội lẫn ngoại giao cho phía Việt Nam, và một lần nữa lại hoãn việc sắp xếp cho gần như tất cả các khía cạnh khác của quyền tự chủ. Tuy nhiên, Bảo Đại dường như đã tự thuyết phục rằng Pháp là đủ tuyệt vọng ở Đông Dương để phải tôn trọng Hiệp định, tuyên bố rằng:

… Một thời kỳ tái thiết và đổi mới sẽ mở ra tại Việt Nam. Đất nước sẽ có những định chế dân chủ được đưa ra chủ yếu là để phê duyệt các thỏa thuận hiện tại.... Cải cách sâu sắc về kinh tế và xã hội sẽ được định chế hóa để nâng cao đời sống của nhân dân và thúc đẩy công bằng xã hội là những điều kiên và bảo đảm cho trật tự... [Tôi tìm cách] đoàn kết tất cả người Việt Nam, không phân biệt khuynh hướng chính trị và tôn giáo, và [nhận được] những hỗ trợ hào phóng của nước Pháp mà tôi có thể tin tưởng vào... " 5/

Mặc dù lập trường [đã] công khai của mình, Bảo Đại trì hoãn trở về Việt Nam cho đến khi một quốc hội Nam Kỳ được bầu xong (mặc dù là một trò hề bầu cử), và đã không về Sài Gòn cho đến khi Quốc hội Pháp đã phê duyệt việc Nam Kỳ sát nhập vào phần còn lại của Việt Nam [Nam Kỳ không còn là nhượng địa cho Pháp, Bắc kỳ không còn dưới sự bảo hộ của Pháp]. Cuối tháng Sáu, năm 1949, Việt Nam đã được hợp pháp thống nhất dưới thời Bảo Đại, nhưng việc trao lại quyền lực liên quan đến các chức năng hành chính còn chậm, và thường chỉ có tính chất làm mẫu; không có quyền lực thực sự hoặc cơ quan có thẩm quyền đã được chuyển cho phía Việt Nam. Nhà nước Việt Nam [mới] đã trở thành một thứ ngụy trang cho Pháp tiếp tục cai trị ở Đông Dương. Như Bảo Đại, đã mô tả tình hình vào năm 1950, "Những gì họ gọi là một giải pháp Bảo Đại hóa ra chỉ là một giải pháp Pháp.... Tình hình ở Đông Dương mỗi ngày một càng tồi tệ hơn..."

Chính Phủ Bảo Đại

Nhiều yếu tố không lành mạnh trong Liên Minh ủng hộ Bảo Đại đã chi phối chế độ của ông. Ngô Đình Diệm và một vài người quốc gia chính trực khác từ chối các chức vị cao trong chính phủ, và rút lại sự ủng hộ của họ cho Bảo Đại từ khi mà họ thất vọng cho những mong đợi của họ về quyền tự chủ [của VN]. Diệm tuyên bố công khai chỉ trích sự liêm khiết của những người đã chấp nhận những chức vụ [trong chính phủ]:

"Nguyện vọng quốc gia của người dân Việt Nam sẽ được thỏa mãn chỉ vào ngày mà quốc gia của chúng ta có được cùng một chế độ chính trị như Ấn Độ và Pakistan đang hưởng... Tôi tin rằng đó là điều duy nhất đúng đắn để bổ nhiệm các chức vụ cho [chính phủ] Việt Nam với những người xứng đáng nhất của đất nước; tôi nói về những người đang chống lại... 7/

Tuy nhiên, không chút một cố gắng đi tìm trong giới "kháng chiến", Bảo Đại đã chọn các nhà lãnh đạo cho [chính phủ của] mình trong số những người có những liên hệ mạnh mẽ với Pháp, thường là những người giàu có và đáng nghi ngờ, hoặc có quan hệ với thế giới tân-chủ nghĩa trọng thương của Pháp và những người Việt trụy lạc. Không có người nào có được quần chúng theo sau. Tướng Georges Revers, Tham mưu trưởng của quân đội Pháp, người đã được gửi đến Việt Nam để đánh giá tình hình trong tháng năm và tháng Sáu năm 1949, đã viết rằng:

"Nếu Hồ Chí Minh đã có thể để ngăn chặn sự can thiệp của Pháp quá lâu, bởi vì người lãnh đạo Việt Minh đã được bao quanh mình với một nhóm người mà giá trị là không thể chối cãi... [Bảo Đại, ngược lại] có một chính phủ bao gồm hai mươi đại diện của các đảng ma, đảng tổ chức tốt nhất trong số đó sẽ có khó khăn trong việc tập hợp chỉ 25 thành viên " 8/

Bản thân Bảo Đại, tiếp theo đó, đã không làm gì để làm cho chính phủ của ông có tính đại diện và hiệu quả hơn. Ông chia thời gian của mình trong những niềm vui ở thị trấn nghỉ mát Đà Lạt, Nha Trang, và Ban Mê Thuột, và trên mọi phương diện thực tế, vẫn nằm ngoài sự tiến hành của chính phủ.

Một nhà ngoại giao Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam vào thời điểm đó, biết rõ Bảo Đại, đã đánh giá ông này trong các từ ngữ sau:

"Bảo Đại, trên tất cả, là một người thông minh trí tuệ, ông có thể thảo luận về các chi tiết phức tạp của các hiệp định khác nhau và toàn bộ mối quan hệ liên quan với Pháp cũng bằng hay tốt hơn so với bất cứ người nào mà tôi biết. Ông là một người đã bị làm tê liệt bởi giáo dục Pháp của ông. Tính cách của ông là quá trầm tỉnh [theo nghĩa cóc cần]. Ông tự cho phép mình bị bán bởi người Pháp dựa trên một sai lầm thay vì trên một khái niệm tiến hóa hợp lý, và khi chuyện đó phù hợp cho mình thì ông cũng đồng tình, và ông đã gần như mang bệnh bị xấu hổ, đó là một trong những lý do mà ông luôn luôn thích đeo kính đen. Có lẽ ông đã qua các chu kỳ trầm cảm, và khi ông chán nản, ông sẽ ăn mặc với bộ quần áo Việt Nam [khăn đóng áo dài] thay vì như người châu Âu, và không nói một tiếng nào về Pháp. Chính sách của ông, ông nói với tôi, trong một hoàn cảnh nghiêm trang, về một trong những chính sách đó, đó là một chính sách ‘gặm nhắm’ hay 'cắt tỉa’, và ông đã đau đớn nhận thức được điều đó. Pháp, tất nhiên, không bao giờ hạnh phúc khi người Hoa Kỳ chúng ta có quan hệ tốt với Bảo Đại, và họ đã nói với ông như vậy. Thật không may, họ [Pháp] cũng có một số [thủ đoạn] hăm dọa ông ta, về mối quan hệ của ông với các doanh nghiệp cờ bạc ở Sài Gòn và tình yêu của ông với sự [tiêu xài] hoang phí. " 9/

Dù đức tính của ông ra sao, Bảo Đại không phải là một người có thể kiếm được sự trung thành của nông dân Việt Nam. Ông thậm chí không thể giữ được sự trung thành của những người quốc gia trung chính, một trong số đó, ví dụ, là Bác sĩ Phan Quang Đán - một người lỗi lạc, có khả năng, phi-cộng sản và ban đầu ủng hộ "giải pháp", và là một người bạn riêng của Bảo Đại- (Bác sĩ Đán về sau, là lãnh đạo đối lập thời Diệm). Bác sĩ Đán có một cuộc trò chuyện với mẹ của Bảo Đại, trong đó bà mô tả con trai của mình đã thất bại để tìm ra ai là người đáng tin tưởng, và chán nản với bầu không khí thù địch bao quanh ông. 10/ Thêm nữa, Bác sĩ Đán từ chức Bộ Trưởng Thông tin trong chính phủ Bảo Đại vì [bất mãn] Hiệp định Elysée, và, mặc dù ông vẫn gần gũi với vị hoàng đế, không muốn nhận bất cứ chức vụ gì với vua. Bản thân Bảo Đại đã đưa ra những giải thích mâu thuẩn về triết lý chính trị của ông, điều có thể giải thích lý do tại sao ông không nắm được trái tim của người nông dân đang bị hà hiếp, hay các nhà lãnh đạo chính trị nghiêm túc - không ai trong số những người này có thể tiêu hóa được [ý niệm] "tỉa cắt" khi đòi hỏi phải là một cuộc cách mạng. Bảo Đại nói:

"Làm chính trị giống như chơi một trò chơi, và tôi đã luôn luôn coi là cuộc sống là một trò chơi” 11/

Thương thuyết ở Pau, 1950

Tuy nhiên, Bảo Đại đã làm việc để áp lực Pháp. Các quan chức Pháp trong thực tế, than phiền với một nhà văn Hoa Kỳ rằng Bảo Đại đã dành quá nhiều thời gian vào các mục đích như thế:

"Ông ta đã tập trung quá nhiều vào những gì mà ông có thể đòi từ chúng tôi thay vì lo xây dựng việc nhân dân trong nước hỗ trợ mình.. Lịch sử sẽ phán xét nếu ông ta chỉ lo làm quá về điều đó... " 12/

Từ cuối tháng Sáu, năm 1950, cho đến cuối tháng mười một, Bảo Đại sát cánh chặc chẽ với hàng loạt hội nghị ở Pau, ở Pháp, được triệu tập để sắp xếp việc chuyển giao cho người Việt Nam các ban ngành về di trú, truyền thông, ngoại thương, hải quan,và tài chính. Vấn đề tài chính là đặc biệt là gai góc vì nó,liên quan đến việc kiểm soát ngoại hối hấp dẫn. Trong khi người Pháp đã có thể có nhiều nhượng bộ đáng kể cho Việt Nam, thì Lào và Campuchia trong từng khu vực thảo luận, đòi được quyền "quan sát" và "can thiệp" trong các vấn đề "liên quan Liên hiệp Pháp như một khối chung." Thật vậy, Pháp đã bảo đảm cho họ được quyền truy cập vào toàn bộ thông tin của chính phủ, tự cho phép mình tham gia vào tất cả các quyết định của chính phủ, và chỉ chịu giảm [nhượng bộ] đi một ít lợi ích kinh tế. 13/

Một số nhà bình luận Pháp xem Pau như một thiên tai không thể làm nhẹ và bảo đảm sự sụp đổ sớm của Pháp ở Đông Dương. Như một trong những người viết đã nêu ra:

"Bằng cách chấp nhận những hạn chế [có thể xảy ra] lên thương mại trong Liên hiệp Pháp, mất tất cả các quyền lực thực sự về việc phát hành tiền, bằng cách từ bỏ quyền kiểm soát về ngành ngoại thương, bằng cách cho phép một hệ thống kiểm soát giá cả đối với hàng hoá xuất và nhập khẩu, chúng ta đã cho các nước thành viên [trong Liên Hiệp Pháp] tất cả quyền lực mà họ cần nếu họ muốn đảm bảo việc hủy hoại các doanh nghiệp của chúng ta và buộc họ [doanh nghiệp] rút lui mà không bất kỳ cách nào tránh không xâm hại đến đồng bào của chúng ta.” 14/

Nhưng một nhà bình luận người Việt thời cận đại đã có một cái nhìn khác:

"Tất cả các hiệp định [Pau] là để bảo tồn cho Pháp một vị trí đặc quyền ở Đông Dương, hỗ trợ bởi sự hiện diện của một hạm đội và một quân đội mạnh mẽ. Ngay cả nếu không còn một ai còn nói về một Liên bang Đông Dương, nó vẫn là một liên bang hành chính và kinh tế (Liên minh tiền tệ, Liên minh Hải quan, Liên minh Truyền thông, v.v…) phối hợp các hoạt động khác nhau của ba nước thành viên [Việt, Miên, Lào]. Pháp luôn luôn thực hiện việc kiểm soát thông qua các đại diện của họ có mặt trong tất cả các cơ quan quy hoạch, giám sát liên bang, và thông qua một thứ như quyền phủ quyết, bởi vì chủ tịch hoặc Tổng thư ký của các ban luôn luôn là được lựa chọn bởi quyết định chung của bốn chính phủ [Việt, Miên, Lào và Pháp], và hơn nữa, bởi vì hầu hết các quyết định của ủy ban được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí. "

(Trích dẫn trong cùng một tài liệu tham khảo ở trên)

Đại biểu của Bảo Đại, tuy nhiên, nói chung hài lòng với kết quả của Pau. Thủ tướng Chính phủ của ông, Trần Văn Hữu đã tuyên bố khi ông đã ký các hiệp định rằng "độc lập của chúng tôi bây giờ là hoàn hảo." Tuy nhiên, với những người Việt Nam bình thường, những người Pháp trung thực, và với người Mỹ, Trần Văn Hữu được chứng minh là đã sai một cách thê thảm.