← Quay lại trang sách

III: A2 Tham Khảo

1

Công Điện No. 4287của Dillon từ Paris cho Dulles, May 10, 1954 (TOP SECRET).

2

Trong khi chuyển tiếp các điều khoản để Đại sứ quán chuyển tiếp đến Pháp, Dulles đã lưu ý rằng một quyết định nhanh chóng, thuận lợi sẽ là quá sớm để nghĩ rằng vì nó có thể quốc tế hóa chiến tranh theo một cách xúc phạm đến người Anh, để lại một mình người Pháp với sự lựa chọn khó khăn là quốc tế hóa hay đầu hàng. Công điện loại “chỉ được nhìn” của Dulles số NIACT 4023 gửi Paris, ngày 11 tháng 5, 1954 (TOP SECRET). Các điều kiện cũng được trích dẫn trong cuốn “La fin d'une Guerre: Indochine 1954” viết bởi Jean Lacouture và Philippe Devillers, (Paris: Editions du Seuil, 1960), trang 176-77.

3

Lời nói của Dulles được diễn giải. Trong một biên bản ghi nhớ Thảo Luận Bộ Ngoại Giao ngày 11 tháng Năm 1954, một hội nghị Nhà Trắng ngày 10 Tháng 5 tham dự có Tổng Thống, Dulles, Wilson, Phó Bộ trưởng Quốc phòng Anderson, Radford, Robert Bowie, và Douglas MacArthur II (TOP SECRET).

4

Công Điện “chỉ được nhìn” No. 4383của Dillon từ Paris gửi Phó Bộ Trưởng (cho Dulles), May 14, 1954 (TOP SECRET).

5

Dillon nhận xét: "Tôi chắc chắn rằng trừ khi chúng ta có thể tìm thấy một cách nào đó để lách yêu cầu [Việt Nam đã lựa chọn rời khỏi Liên Hiệp Pháp], Pháp sẽ không bao giờ yêu cầu người ngoài hỗ trợ." (Như trên)

Dillon đề nghị là sự phản đối thực sự ở châu Á vào vị trí của các nước Đông Dương không nằm ở vấn đề "thuần túy pháp lý" về quyền rời khỏi Liên Hiệp [Pháp], nhưng Đông Dương thiếu một quân đội quốc gia mạnh. Đại sứ đề nghị việc Mỹ đào tạo Mỹ và trang bị cho Quân đội Quốc gia Việt Nam (VNA), cùng với một tuyên bố về ý định rút quân đoàn viễn chinh Pháp sau khi hòa bình được thành lập và một quân đội quốc gia, sẽ làm giảm đáng kể các đối kháng Á Châu với chế độ Bảo Đại. (Công điện của Dillon từ Paris số NJACT 41 02 gửi Dulles, 17 tháng Năm 1954, TOP SECRET). Tại sao Dillon cho rằng người châu Á sẽ thay đổi đáng kể thái độ của họ đối với Đông Dương thuộc Pháp khi mà, ngay cả với một sự tiếp quản của Mỹ đào tạo và trang bị cho quân VNDCCH, lực lượng Pháp vẫn còn trú đóng trên lãnh thổ Việt Nam trong một thời gian dài là không biết được là bao lâu.

6

Dulles "eyes only" to Paris (Dillon) tel. NIACT 4094, May 15, 1954 (TOP SECRET).

7

Dulles" eyes only" to Smith at Genève tel. TEDUL 75, and. to Dillon at Paris No. 4104, May 17, 1954 (TOP SECRET).

8

PEA memorandum, "Procedural Steps for Intervention in Indochina," undated. ( entered. into FE files May 17, 1954) (TOP SECRET).

9

FEA, Annex on "Studies to be Undertaken Immed.iately within United States Government," attached. to ibid.., (TOP SECRET).

10

OCB, Stud.ies vlith Respect to Possible U. S. Action Regarding Indochina, Tab E, "Plan for Political Warfare in Regard. to Communist China intervention in Indochina," undated, in enclosure to memorandum from E. F. Drumright to Robert Murphy, May 24, 1954 (TOP SECRET).

11

Khái niệm này xuất phát từ các cuộc thảo luận của Ban Kế hoạch NSC, và là một phần của một chương trình nghiên cứu dự phòng rộng hơn. Xem tuyên bố của ban Giám Đốc trong phần kết luận một biên bản ghi nhớ gửi Robert Bowie (Chủ tịch Hội đồng), ngày 19 tháng năm 1954 (TOP SECRET).

12

Memorandum from JCS to the Secretary of Defense, May 20, 1954 (TOP SECRET).

13

Các kết luận này sau đó đã được khẳng định, dưới sự chỉ đạo của Tướng Ridgvray, một đội ngũ kỹ thuật gồm bảy cán bộ đại diện cho Quân Đoàn Kỷ Sư Quân Đội Mỹ [US Army Corps of Engineers], Giao Thông Vận Tải, và Quân Đoàn Truyền Tin đã đến Đông Dương trong một nhiệm vụ bí mật để xác định các nguồn lực quân sự và có liên quan đến quân sự nếu Hoa Kỳ can thiệp đã được thực hiện. Nhóm nghiên cứu đã dành khoảng thời gian từ 31 Tháng Năm - 22 tháng 6 trong lĩnh vực này. Kết luận của họ, nói chung, Đông Dương đã không có các nguồn lực hậu cần, địa lý, và các liên quan cần thiết để một nỗ lực mặt đất như Ridgway đã cảm thấy phảo có cho một thành công đáng kể của Mỹ. Những khá phá của nhóm ghi trong một báo cáo của Đại tá David. W. Heiman gửi chỉ huy của họ là Tướng Ridgway, ngày 12 tháng 7 năm 1954 (MẬT)

Tuy nhiên, kết luận của các Tham Mưu Trưởng đã gây tranh cãi do Drumright (trong một bản ghi nhớ MacArthur, 24 Tháng năm 1954, TOP SECRET). Ông lập luận rằng nếu như tất cả mọi người đồng ý, Đông Dương là quan trọng đối với an ninh của Mỹ, Mỹ không nên xem xét gì nhiều hơn là cam kết một lực lượng bộ binh thay vì một sự phân trí nghiêm trọng về khả năng của chúng ta. Trong khi không tranh cãi cho một cam kết quân sự đáng kể, Drumright đề nghị rằng kế hoạch đó của Mỹ cho tình huống đó chứ không phải dựa vào phòng thủ bằng vũ khí nguyên tử hoặc các cuộc tấn công phi hạt nhân trên lãnh thổ Trung Quốc. Bằng cách nào đó, tuy nhiên, mối quan tâm của Drumright về Trung Quốc đã không được mở rộng để xem xét các cam kết quân đội rộng lớn của Mỹ, điều mà ông nói đâu đó trong bản ghi nhớ có thể chứng minh rằng lực lượng biệt kích [token force] cần thiết không hoàn tất được nhiệm vụ, có nguy cơ dẫn đến [chiến tranh với] Trung Quốc.

14

Smith from Genève "eyes only" tel. DULTE 100 to Dulles, May 23, 1954

15

Dulles to Smith at Genève tel. TEDUL 116, May 24, 1954 (TOP SECRET).

16

Ngày 28 tháng 4 đại diện Pháp và Việt Nam tại Paris ký tắt điều ước riêng biệt về độc lập, và liên kết. Tuy nhiên, các điều ước quốc tế không có hiệu lực cho đến ngày 4 tháng 6, khi Quốc hội Pháp sau cùng đã phê duyệt các tài liệu.

17

Dulles tel. to American Embassy - Paris No. 4272, May 26, 1954 (TOP SECRET). See also Lacouture and. Devillers, p. 192.

18

Dillon priority telegram from Paris No. 4596, May 29, 1954 (TOP SECRET). See also Smith from Genève SEC TO 331, May 28, 1954 (TOP SECRET) and. Dillon from Paris (reporting talks with Schumann) No. 4580, May 28, 1954 (TOP SECRET).

19

Công điện số 2468 của McClintock từ Sài Gòn gửi Dulles, 19 tháng 5 1954 (bí mật); công điện “chỉ được xem” số 4566 của Dillon từ Paris gửi Dulles, Smith, và McClintock, ngày 27 tháng Năm 1954 (TOPSECRET), báo cáo vê cuộc đàm phán Trapnell-Ely. Ely và.O'Daniel vẫn còn xung đột ý kiến, Dillon lưu ý về thay đổi cơ cấu trong chiến lược VNDCCH, chiến tranh, và vai trò của cố vấn Mỹ

20

Ibid.. ; also, Dillon priority telegram from Paris No. 4612, May 31, 1954 (TOP SECRET).

21

Murphy (acting Secretary) to American Embassy - Paris NIACT 4325, May 29, 1954 (TOP SECRET).

22

Dillon from Paris No. 4607, May 30, 1954 (TOP SECRET). See also Dillon from Paris No. 4625, June 1, 1954 (TOP SECRET).

23

Murphy to American Embassy - Paris NIACT 4332, May 31, 1954 (TOP SECRET).

24

Thái độ vững chắc của Eisenhower về việc [Mỹ] chỉ hành động ở châu Á chung với các đồng minh làm ông mâu thuẫn với Dulles, người đã chuẩn bị hành động đơn phương ít nhất là trong những trường hợp bị xâm lược công khai. Khi vấn đề can thiệp bằng Không Quân của CPR [Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa] có thể xảy ra được đưa lên Tổng Thống, có báo cáo rằng ông đã có phản ứng mạnh. Rõ ràng giả thiết rằng cuộc xung đột bằng Không Quân sẽ có nghĩa là một cuộc chiến tranh Trung-Mỹ, Tổng thống Hoa Kỳ cho biết Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào Trung Quốc trên bất kỳ cơ sở nào, ngoại trừ với “hành động thống nhất”. Ông sẽ không chịu trách nhiệm một mình đi vào Trung Quốc trừ khi một Nghị Quyết chung của Quốc hội yêu cầu ông làm như vậy. Trong bất cứ trường hợp nào Hoa Kỳ không nên một mình hỗ trợ Thực Dân Pháp. Đơn phương hành động của Hoa Kỳ trong loại hình này sẽ tiêu diệt chúng ta. Nếu chúng ta can thiệp một mình trong trường hợp này, chúng tôi dự kiến sẽ can thiệp một mình ở nơi khác của thế giới. Ông đã làm rõ ràng rằng yêu cầu thống nhất hành động là một điều kiện cho việc can thiệp của Mỹ không chỉ liên quan đơn thuần với các nhóm quốc phòng khu vực của vùng Đông Nam Á, nhưng cũng là một điều cần thiết nếu Mỹ phải can thiệp để chống lại sự xâm lược công khai của Cộng sản Trung Quốc.

Tuy nhiên, khi được nhắc nhở bởi trợ lý đặc biệt của mình, Robert Cutler, vị trí NSC5405 rằng hành động đơn phương của Mỹ có thể không được loại trừ trong trường hợp xâm lược Trung Quốc công khai chống lại Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, và ngày 2 tháng chín năm 1953 Dulles cảnh báoTrung Quốc về một can thiệp trực trực tiếp của Mỹ nếu Trung Quốc xâm lược Đông Dương, Tổng Thống tuyên bố rằng không có sự khác biệt tồn tại giữa mình và Dulles (Biên bản ghi nhớ cuộc trò chuyện giữa Eisenhower và Cutler, 01 Tháng Sáu 1954, TOP SECRET).

Tổng Thống, tóm lại, có những quan tâm về chính trị cũng như về những logic của việc tham gia một cuộc xung đột với Trung Quốc. (Bản ghi nhớ hội nghị tại văn phòng Tổng Thống, 02 tháng Sáu năm 1954, liên quan đến Tổng Thống, Dulles, Anderson, Radford, MacArthur, và Cutler, TOP SECRET) Tại cuộc họp thứ 200 của mình vào ngày 03 tháng 6, NSC nhận được xem xét, và đồng thuận với quan điểm của Tổng thống.

Tiếp theo việc khẳng định quan trọng này của Tổng Thống, Dulles gọi đại sứ Úc và New Zealand về vấn đề Trung Quốc xâm lược công khai khu vực Đông Nam Á. Ông giải thích rằng hành động trực tiếp của Trung Quốc có lẽ là sẽ không xảy ra, nhưng người Pháp đã đã thúc hối một trả lời bảo đảm của Mỹ là sẽ can thiệp nếu Trung Quốc tấn công bằng không lực ở vùng đồng bằng song Cửu Long. Ông báo cáo quan điểm của Mỹ là xâm lược Trung Quốc sẽ phải yêu cầu một phản ứng tập thể và với kêu gọi của Liên Hợp Quốc, và phân biệt thủ tục này với khái niệm hành động thống nhất ngày 29 tháng 3. Một biên bản ghi nhớ ngắn gọn đã được đưa ra bởi Ngoại Trưởng [Mỹ] trong đó sức mạnh của ANZUS sẽ được yêu cầu trong trường hợp CPR xâm lược công khai, yêu cầu quốc hội của họ chấp thuận cho việc sử dụng các lực lượng vũ trang, hỗ trợ lời kêu gọi của Liên Hợp Quốc của bên bị tấn công, và tìm cách thuyết phục các quốc gia khác tham gia vào hành động chống lại Trung Quốc. Các đại sứ, tuy nhiên, chỉ đơn thuần là câu hỏi, rõ ràng, biên bản ghi nhớ được đưa ra đã không được sự đồng thuận của Đồng minh trong diễn trình của Hội nghị Genève. Xem công điện ưu tiên của Dulles Đại sứ quán Mỹ - Canberra số 238, ngày 05 tháng 6 năm 1954 (TOPSECRET).

25

Memorandum from Bidault to Eisenhower, Genève, June 1, 1954 (TOP SECRET).

See also Smith from Genève tel. DULTE 156, June 6, 1954 (TOP SECRET).

26

Dillon công điện gửi Dulles số 4766, ngày 9 tháng 6, 1954 (TOP SECRET). Ngoài ra, Dulles công điện gửi Đại sứ quán Mỹ - Paris số 4286, ngày 27 tháng 5 1954 (TOPSECRET);

ở đây, vị trí của Mỹ là lực lượng Pháp sẽ được duy trì trong suốt quá trình thống nhất hành động ngoại trừ những chuyện thay quân bình thường, luân chuyển của các lực lượng bản địa khi tình hình quân sự cho phép, và tham khảo ý kiến với các đồng minh tham gia vào các hành động thống nhất.

27

Dulles to American Embassy - Paris tel. No. 4421, June 4, 1954 (TOP SECRET).

28

Murphy (acting Secretary) "eyes only" tel. to American Embassy - Paris (Dillon), No. 4508, June 10, 1954 (TOP SECRET).

29

Dulles "eyes onlyll priority to American Embassy - Paris No. 4579, June 14, 1954 (TOP SECRET).

30

Dulles priority to American Consul - Genève (Smith) TEDUL 197,June 14, 1954 (TOP SECRET).

31

Dilion "eyes only" from Paris to Dulles No. 4841, June 14, 1954 (TOP SECRET).

32

See, … Schumann's remarks to Dillon in the latter's cable from Paris No. 4766, June 9, 1954 (TOP SECRET).

33

Dulles to American Consul - Genève (Smith) TEDUL 208, June 16, 1954 (TOP SECRET).

34

Smith "eyes only" for the Secretary from Genève DULTE 164, June 9, 1954 (TOP SECRET).

35

Dillon công điện ưu tiên gửi Dulles số 4424, ngày 18 Tháng Năm 1954. Cf.Dulles bình luận trong một công điên ngày 07 tháng 6 gửi đến Genève (ưu tiên TEDUL 169, TOP SECRET): "Từ lâu tôi đã cảm thấy và vẫn còn cảm thấy rằng người Pháp đã không xem xét đề xuất của chúng ta một cách nghiêm túc nhưng chơi đùa với nó, chỉ đủ để sử dụng nó như là một điểm nói chuyện tại Genève.

36

Dulles priority tel. to American Consul - Genève TEDUL 175, June 8, 1954 (TOP SECRET).