III: D1 THÀNH QUẢ CHO PHE CỘNG SẢN
Qua đánh giá từ các bài bình luận công khai của lãnh đạo các phái đoàn cộng sản - Molotov và Chu – [đã cho thấy] Trung Quốc và Liên Xô hài lòng với kết quả tại Genève. Giải pháp chung cuộc dường như là đã đáp ứng hầu hết các mục tiêu riêng của họ, không chỉ đơn giản là về quyền lợi nhỏ của họ ở Đông Dương, mà còn rộng hơn nhìn về lợi ích toàn cầu của họ. Việt Minh, tuy nhiên, chấp nhận, một giải pháp mà nó xem ra khác rất đáng kể không những so với yêu cầu ban đầu của họ và sánh với mức kiểm soát bằng quân sự trên thực tế của họ tại Việt Nam, nhưng khác ngay cả với vị trí thỏa hiệp của họ. Tuy nhiên, ngay cả Việt Minh đã tỏ ra hài lòng với kết quả của Genève. Lý do là - niềm tin rằng thời gian sẽ đứng về phía họ.
Cộng sản xem việc tiếp quản toàn bộ [VN] là không thể tránh khỏiTrong phiên họp khoáng đại cuối cùng vào ngày 21 tháng 7, các đại biểu Liên Xô, Trung Quốc và VNDCCH đều đồng ý, Hiệp định, nếu được thực hiện, chiến sự sẽ kết thúc, và VNDCCH được chính thứa có một vùng lãnh thổ cơ sở ở miền Bắc. Phạm vi hoạt động sau đó là xếp đặt cho cuộc tổng tuyển cử tại Việt Nam và đưa đến việc tiếp quản mà cộng sản mong muốn. Tình hình chính trị ở Nam Việt Nam là bấp bênh. Ngoài ra, còn nhiều đơn vị vũ trang của các giáo phái và của các nhóm khác thù địch với chính quyền trung ương của Bảo Đại, người liên tục dựa trên Pháp. Những người cộng sản chắc chắn có lý do chính đáng đi đánh giá rằng miền Nam Việt Nam không thể trở nên đủ vững trong thời hạn hai năm, trước khi có cuộc tổng tuyển cử là điều đã được quy định trong bản Tuyên bố cuối cùng, đặt ra như là một giải pháp thay thế khả thi cho VNDCCH. Những người cộng sản đã có lý do tốt để tin rằng một chế độ ổn định trong khu vực phía Nam sẽ không bao giờ được hình thành, vì vậy việc VNDCCH sẽ nắm quyền kiểm soát trên cả nước là gần như mặc định.
Trung Quốc không chống việc phân vùng vĩnh viễnĐiều thú vị, tuy nhiên, Trung Quốc chấp nhận quan điểm cho rằng Hiệp định Genève đã, ít nhất là tạm thời - và, có lẽ sẽ là vĩnh viễn, tạo ra hai thực thể chính trị riêng biệt. Vào đầu tháng Sáu, Chu nói với Jean Chauvel rằng Trung Quốc công nhận sự tồn tại cả của Việt Minh và chính phủ Việt Nam. Trong lần nói chuyện về một giải pháp chính trị cuối cùng, Chu Ân Lai lại một lần nữa tuyên bố rằng phải cần đạt được điều này qua các cuộc đàm phán trực tiếp giữa hai chính phủ của Việt Nam. 1/ Cho đến nay, như Trung Cộng đã quan tâm, việc phân vùng không phải chỉ đơn giản là một sự phân chia vùng trách nhiệm hành chính - nó dính líu đến điều khoản của hiệp ước đình chiến tại Việt Nam (Điều 14a) đưa ra việc thành lập các "chính quyền dân sự" của "các bên" được tập kết trong hai khu vực, nhưng đó là việc thành lập các cơ quan chính phủ ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Điều vẫn còn chưa rõ ràng, tất nhiên, là [phân vùng] thường trực sẽ như thế nào mà Chu đã riêng tư sắp xếp [với ai] đó.
Trung Quốc dự kiến tạo ra một vùng đệm (thường trực)Ngoài Việt Nam ra, Trung Quốc dường như tin rằng thỏa thuận cuối cùng sẽ ngăn cản được việc ba nước Đông Dương tham gia vào hệ thống an ninh của Mỹ. Khi Chu truyền đạt đến Eden mối quan tâm của mình về sự tham gia của Lào, Việt Nam và Campuchia trong tổ chức Hiệp ước khu vực Đông Nam Á, Bộ trưởng Ngoại giao [Eden] nói rằng theo ông biết, không có đề nghị nào cho những quốc gia [đó] tham gia. 2/ Ngày hôm sau, Eden nói với Molotov rằng một hiệp ước an ninh trong khu vực Đông Nam Á là không thể tránh khỏi và hoàn toàn phù hợp với chính sách của Anh, nhưng ông nói thêm rằng không có đánh giá nào được đưa ra mà bao gồm cả Cam-pu-chia và Lào (một bình luận mà Smith coi như là một "sai lầm ", vì Mỹ hy vọng sẽ sử dụng ý tưởng bao gồm họ [Campuchia, Lào] như là một đe dọa hầu đạt được một giải quyết tốt hơn [hiệp định Genève]). 3/ Khi hội nghị bế mạc, Trung Quốc cảm thấy đủ yên tâm về vấn đề này; ngày 23 tháng 7, một nhà báo Trung Quốc tâm sự: "Chúng tôi đã giành được chiến dịch đầu tiên là làm cho tất cả các khu vực Đông Nam Á trung lập." 4/
Kinh tế nội địa của Trung Quốc được bảo vệTrung Quốc, vào thời điểm này, đã lo lắng rất nhiều với các vấn đề nội bộ của mình, và lo lắng để củng cố ở nhà trước khi tiến xa hơn vào châu Á. Chiến tranh Triều Tiên đã làm trầm trọng thêm những bức xúc về vấn đề kinh tế và chính trị bên trong Trung Quốc, Bắc Kinh đã có những nỗ lực để thúc đẩy tái thiết kinh tế vượt ra ngoài khả năng giới hạn của Trung Quốc. Họ đã hài lòng rằng tình hình Đông Dương sau Genève đã cho phép, ít nhất là tạm thời, đảm bảo rằng mọi nỗ lực lớn của họ có thể được chuyển vào trong nước mà không sợ những xáo trộn dọc theo biên giới phía Tây Nam của Trung Quốc.
Ngăn ngừa được mối đe dọa Mỹ sẽ can thiệp mạnh mẽLiên Xô và Trung Quốc đã thận trọng theo dõi các nỗ lực lẻ tẻ của Mỹ, đầu tiên, để giữ cho vấn đề Đông Dương ở Genève, và thứ hai, để ngăn chận các quốc gia phương Tây tham gia vào hành động thống nhất nhằm ngăn chặn toàn bộ Đông Dương lọt vào tay Cộng Sản. Có một yếu tố không thể tiên đoán được liên quan đến hành động của Mỹ ở Đông Nam Á, là Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã cố tình nuôi dưỡng đến một mức độ lớn (với những bước đi có tính toán như các cuộc đàm phán quân sự song phương tại Washington), nhưng cũng được nhấn mạnh bởi số lượng quá mức và đa dạng của những tuyên bố công khai về Đông Dương đã được Washington đưa ra, chính thức và bán chính thức, trong tháng Sáu và tháng Bảy, trong khi Hội nghị Genève đang diễn ra. Bắc Kinh và Moscow, sau đó, đã có một số lý do để tin rằng họ đã đi bước trước bằng ngoại giao trong việc ngăn chận can thiệp quân sự của Mỹ.
Triển vọng có được một sự ổn định trong ngắn hạn làm Nga hài lòngChính phủ Liên Xô đã không quan tâm đến việc thúc đẩy các mục tiêu của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Họ cũng không muốn thấy sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực này. Vì những lý do này, lợi ích lớn mà Liên Sô quan tâm là tập trung trong việc Pháp phải rút ra khỏi Đông Dương - nhưng tính toán sao để ngăn cản bất cứ sự lớn mạnh nào của Mỹ hoặc Trung Quốc nhảy vào thay thế cho Pháp. Đo đó, việc tạo ra một nhà nước trung lập tại Việt Nam (hoặc thậm chí tạo ra hai nữa nước đối lập với nhau) là một đáp ứng ngay tức khắc những yêu cầu của Liên Xô, trong những cách tốt nhất có thể trong những tình huống như thế - và nó là giải pháp trong ngắn hạn của Liên Xô, cũng như các đoàn đại biểu khác, đang tìm kiếm tại Genève. Tương lai sẽ tự thân nó giải quyết vấn đề.
Nga dự kiến sẽ ảnh hưởng được quan điểm của Pháp về EDCCho dù không phải là mối quan hệ nhân quả có thể được chứng minh với độ chính xác bất kỳ, thực tế là người Pháp đã không phê chuẩn các hiệp định Cộng Đồng Phùng Thủ Âu Châu (EDC: European Defense Community) đã được đưa ra biểu quyết trước Quốc Hội Pháp một tháng sau khi Hội Nghị Genève kết thúc. Phản ứng tại Liên Xô được mô tả là "tưng bừng", ca ngợi việc Pháp từ chối [EDC] là "một sự kiện quan trọng trong lịch sử chính trị của châu Âu." 5/ Sự kiện này, tiếp theo ngay sau khi Hội Nghị Genève chấm dứt, được Liên Xô nhìn, ít nhất là một phần, đã bị ảnh hưởng bởi chiến lược cộng sản đưa Pháp ra khỏi bị dính cạm bẩy ở Genève.
Các cường quốc Cộng sản chính thấy một số thất bại của họ Không đạt được việc hợp nhất toàn bộ Đông Dương Cộng sảnÍt nhất là trong tương lai gần nhất, việc cộng sản củng cố ở toàn Đông Dương là không cần đặt lại vấn đề. Bất kể như thế nào, việc không thể tránh khỏi cộng sản bành trướng trong vùng, các chuyển biến đã tạm thời ngăn chặn họ ở vĩ tuyến 17. Thực vậy, phe cộng sản không được chuẩn bị để chấp nhận những rủi ro để theo đuổi ưu thế thực sự của mình, nếu không phải trên chiến trường, thì đó là vấn đề tâm lý. Khẳng định của phe cộng sản tại Genève rằng Việt Minh kiểm soát 3/4 diện tích của Việt Nam là gần với sự thật. Quyết định từ bỏ việc vùng kiểm soát địa phương trên khắp Việt Nam phải được xem là một mất mát.
Không ngăn được ảnh hưởng của Mỹ ở Đông DươngMột mục tiêu chính về chính trị và quân sự của Trung Quốc là ngăn ngừa việc thiết lập các căn cứ Mỹ ở Đông Nam Á. Mục tiêu này, song song với mục tiêu của Liên Xô là ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở châu Âu, là một phần quan trọng của chiến lược tổng thể của Trung Quốc tại Genève. Tuy nhiên, nếu Chính phủ Trung Quốc xem các quy định Genève như một bước đầu tiên hướng tới việc trung lập khu vực Đông Nam Á, thì tính toán này đã nhanh chóng bị thất bại. Chính phủ Lào và Cam-pu-chia trong tuyên bố ngày 21 tháng 7, đã dành chỗ cho việc ký kết liên minh và đóng quân của lực lượng nước ngoài trên lãnh thổ của họ. Để giảm bớt sự phản đối kịch liệt của cộng sản, cả hai nước tuyên bố sẽ không liên minh trong bất cứ cách nào mà nó "không phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc", cũng không cho phép căn cứ nước ngoài nào đặt trên đất nước của họ khi an ninh của họ không bị đe dọa. 6/ Tuy nhiên, các đại biểu của họ đã phát biểu, ngay cả trước khi Hội nghị bắt đầu, rằng việc bảo vệ đất nước của họ chống lại xâm lược là điều mong muốn. Hai khu vực của Việt Nam, ngược lại, đã rõ ràng bị cấm không cho phép thành lập các căn cứ quân sự nước ngoài và cấm gia nhập các liên minh quân sự (Điều 19 của thỏa thuận đình chiến). Người Trung Quốc, bởi vì họ không thể có được một sự đảm bảo của Hiệp định, không thể ngăn chặn việc Mỹ sau đó đưa Cam-pu-chia và Lào trong vòng chu vi an ninh của SEATO thông qua Nghị định thư, một phương cách được Bộ trưởng Smith đề cập đến tại Genève. 7/ Sau đó, Mỹ đã tỏa ô dù an ninh này lên cả Miền Nam Việt Nam.
VNDCCH đánh giá những thắng lợi và mất mát của mình Đạt được nhiều thành quả nhưng phải trả giáTrong điều kiện thuận lợi, hiệp định quân sự đã ký ngày 21 tháng 7 bởi Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng của VNDCCH, và Chuẩn Tướng Delteil, Tư lệnh Lực lượng Liên hiệp Pháp ở Đông Dương, nhường toàn quyền kiểm soát cho VNDCCH trên tất cả các lãnh thổ phía Bắc Việt Nam cho đến đường chia cắt thiết lập ở khoảng vĩ tuyến 17. Pháp nỗ lực để dành lại các vùng đất các giáo phận Công Giáo và chung quanh Hải Phòng nhưng đã bị từ chối, và tất cả các lực lượng Pháp phải rút đi qua ngõ Hải Phòng trong vòng 300 ngày. Hơn nữa, Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị xác định đường ranh giới là tạm thời và theo quy định tại Điều 7, một cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng Bảy, 1956. Do đó, VNDCCH mong đợi một chiến thắng pháp lý có thể qua các hòm phiếu trong vòng hai năm.
Tuy nhiên, thất vọng của Việt Minh cũng rất nặng nề. Cụ thể là Đoàn kết dân tộc đã bị tổn hại bởi việc tạo ra hai vùng chia cắt bởi một khu vực phi quân sự ở vĩ tuyến 17, chứ không phải là vĩ tuyến 13 hay 14. Giải pháp chính trị nhanh chóng trong vòng sáu tháng cũng bị bàn cải bỏ đi, cuộc bầu cử không được tổ chức trong vòng hai năm, và thậm chí phải được quốc tế, chứ không phải người Việt, giám sát. Cuối cùng, Việt Minh đã bị buộc phải nhượng bộ hoàn toàn đòi hỏi của mình là ủng hộ các lực lượng Pathet Lào và Khmer Tự Do. Tại Lào và Campuchia, cũng như tại Việt Nam, ủy ban kiểm soát quốc tế chứ không phải là do người bản xứ đã được thừa nhận. Cái gọi là lực lượng kháng chiến hoặc sẽ phải bị rút đi (tại Lào, sau khi được tập kết tạm thời) hoặc xuất ngũ (Campuchia) ngay tại chỗ. Việt Minh chỉ có thể cứu vãn bằng những lời hứa với các chính phủ Lào và Cam-pu-chia - trong tuyên bố riêng của họ ngày 21 Tháng Bảy rằng "công dân" của hai nước sẽ có thể tham gia với tư cách là ứng cử viên hoặc cử tri trong các cuộc bầu cử được tổ chức trong năm 1955. Việt Minh đã chấp nhận những kết quả này mặc dù chúng cũng đã vượt ra ngoài vị trí thỏa hiệp mà họ đã đưa ra trong suốt các cuộc đàm phán.
VNDCCH được bảo đảm củng cố về lãnh thổViệt Minh không hề muốn trả lại những vùng đất đáng kể ngoài khu vực đồng bằng Bắc Bộ mà họ đang kiểm soát trên thực tế. Trong tháng Sáu và tháng Bảy, theo bản đồ của CIA, lực lượng Việt Minh nắm giữ phần lớn của Trung Kỳ (ngoại trừ các thành phố cảng) và nhiều vùng đáng kể khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, đòi hỏi tất nhiên của họ gồm tất cả lãnh thổ nằm phía bắc mà đường chia cắt theo hướng Tây Bắc từ vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 14 (từ bờ biển Tuy Hòa đến biên giới Campuchia tại Pleiku). 8/ Đòi hỏi đó dựa trên thế quân sự trên trực tế của họ là nhiều hơn đề xuất của Pháp là lập đương phân chia ở vĩ tuyến 18. Tuy nhiên, người Pháp không bao giờ đồng ý để cho cộng sản kiểm soát vùng biên giới với cả Campuchia và Lào. Tuy nhiên quyết định cuối cùng về đường chia cắt Đất Nước là ở vĩ tuyến 17 là thành công trong mức độ là đã trao cho VNDCCH các quyền chính trị tuyệt đối, không bị thách thức để kiểm soát một nữa nước Việt Nam – một tình thế mà sau đó Việt Minh đã bắt đầu xem là bước đầu tiên rất quan trọng trong một chuỗi hoạt động chính trị để đạt được những mục tiêu tương xứng với sức mạnh quân sự của họ: một cuộc chinh phục nhanh chóng (“giải phóng") phần còn lại của đất nước
Kế hoạch bầu cử của VNDCCH nhắm đến cuối cùng là việc chiếm lĩnh toàn bộ Việt NamTuy vẫn giữ mong muốn được mau chóng giải quyết chính trị cho “toàn cõi Việt Nam", Việt Minh, trong khi đồng ý để phân vùng, họ chỉ muốn việc phân vùng là tạm thời và tổng tuyển cử phải được mau chóng nối tiếp. Vì vậy, đại biểu Việt Minh đã tranh cải, lập luận rằng việc tổ chức tổng tuyển cử phải được tiến hành trong vòng sáu tháng sau khi lệnh đình chiến được ký kết. Ngược lại, Pháp phản bác rằng tổng tuyển cử sẽ được tổ chức 18 tháng sau khi đã hoàn thành quá trình tập kết, hay giữa tháng thứ 22 và 23 sau khi đình chiến. 9/ Thỏa thuận, với thúc hối của Liên Xô và Trung Quốc, đã được hoàn tất với những gì quan trọng nhất mà các cuộc đàm phán về cuộc tổng tuyển: ấn định thời điểm và bảo đảm cho tổng tuyển cử được tiến hành. Trong một ý nghĩa rất thực, mặc dù, khoảng thời gian hai năm đó đối với Chính phủ Việt Nam là vô giá, và chiến lược phe cộng sản về vấn đề này dường như đã phản tác dụng.
VNDCCH hài lòng về kết quả của Hội Nghị GenèveViệt Minh rõ ràng đã tin rằng - và không có một chức quyền Pháp nào tại chỗ mà nghi ngờ điều này - rằng họ có khả năng loại bỏ người Pháp ra khỏi Bắc Bộ với một cuộc tổng tiến công và sẽ tiến tới đạt nhiều thắng lợi hơn nữa ở miền Nam chống lại một quân đội Pháp-Việt suy yếu và mất tinh thần. Chiến thuật vừa đánh vừa đàm đã được Việt Minh đưa ra áp dụng là một chiến thuật có khả năng được theo đuổi trong hai năm (như Trung Quốc tại Hàn Quốc) để đảm bảo việc kiểm soát lãnh thổ lớn hơn. Liệu cuối cùng Việt Minh có dự kiến chinh phục toàn bộ Việt Nam trước khi đạt được thoả thuận với người Pháp là điều không biết được, nhưng, cũng như người Pháp, Việt Minh có thể xem quyền kiểm soát tối đa về lãnh thổ và dân số như là những bảo đảm cho họ đối với cuộc bầu cử trong tương lai. Các phóng viên bao sân Hợi Nghị Genève đã trích dẫn các nhận xét cay đắng của phái đoàn VNDCCH sau phiên họp cuối cùng, khi thỏa thuận đã được công bố cho công chúng. Tuy nhiên, có lý do để tin rằng, trong thực tế, Việt Minh đã "hài lòng với kết quả đạt được tại Genève.” Sự hài lòng này xuất phát một phần từ một vài tính toán sai lầm của VNDCCH, khi họ đã đánh giá thấp các cam kết trong tương lai của Mỹ đối với Việt Nam và họ cũng đánh giá thấp khả năng sống sót của Diệm và Chính phủ của ông. Dường như VNDCCH cũng đã cảm thấy những thiệt hại của họ tại Genève, cơ bản là sự chậm trễ đó sẽ xếp đặt lại lịch trình thời gian ở Đông Dương, nhưng giá phải trả bằng thời gian tính ra cũng đáng so với việc khẳng định vùng lãnh thổ mà họ kiểm soát và nga)n ngừa được các hành động thống nhất của phương Tây tại Việt Nam. Không giống như những tuyên bố của Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ trong khi và sau khi Hội Nghị Genève kết thúc, đại diện Việt Minh đã công khai ủng hộ không hạn chế các thỏa thuận quân sự và Tuyên bố cuối cùng.
THAM KHẢO
Dillon priority tel. No. 5035 from Paris, June 24, 1954 (TOP SECRET). Smith tel. SECTO 636 from Genève, July 17, 1954 (SECRET). Smith NIACT tel. SECTO 639 from Genève, July 18, 1954 (SECRET). CIA Memorandum RSS 0017/66, p. 46 (SECRET/NoFornDis/Controlled Dis). Mackintosh, pp. 84-85. The declarations may be found. in Great Britain, Foreign Office, Documents Relatin to British Involvement in the Indo-China Conflict 19 5-1965, Misc. No. 25, Cmnd.• 283 London: H.M.S.O., 1965, pp. 76 (Cambodia) and 79 (Laos). Trong một cuộc nói chuyện với Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Sam Sary, Philip Bonsal đề nghị rằng sẽ không thể đảm bảo an ninh cho Cam-pu-chia bởi một cơ chế Hội nghị mà cộng sản có quyền phủ quyết. Bonsal cho biết, tuy nhiên, một khi lệnh ngưng bắn đã được ký kết, một trong những điều đó không ngăn cản Campuchia hợp tác với các quốc gia không cộng sản trong các vấn đề quốc phòng ", ông tự tin rằng Hoa Kỳ và các nước khác quan tâm đến việc thảo luận với Chính phủ Campuchia" về vấn đề an ninh. (Điện thoại ưu tiên SECTO Johnson 627. từ Genève, July 16, 1954, bí mật.) Một vài ngày sau đó, khi Sam Sary cùng Nông Kimny (Đại sứ tại Mỹ) cùng đi gặp Smith, ông Thứ trưởng đề nghị Phnom Penh nên nêu rõ, tại Hội nghị, ý định không cho phép có căn cứ nước ngoài trên lãnh thổ của mình và không tham gia vào liên minh quân sự nào. Đồng thời, mặc dù, Campuchia sẽ được tự do nhập khẩu vũ khí và sử dụng giảng viên và kỹ thuật quân sự Pháp. Trong khi Cam-pu-chia có lẽ sẽ không được tự do tham gia SEATO đang dự tính, họ vẫn có thể hưởng lợi từ nó. Smith "đảm bảo với Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia, theo quan điểm của chúng tôi, bất kỳ sự xâm lăng nào công khai hoặc bí mật chống lại lãnh thổ Campuchia sẽ đưa hiệp hội [SEATO] vào hoạt động mặc dù Campuchia không phải là thành viên. Tôi ủng hộ việc các thành viên Liên Hiệp Pháp sẽ cung cấp đầy đủ các phương tiện cho Campuchia để đảm bảo họ nhận được vũ khí của Pháp, một số đó sẽ là của Mỹ, cũng như các huấn luyện viên và chuyên viên kỹ thuật cần thiết, một số trong đó cũng có thể là người Mỹ được đào tạo.” Nông Kimny “tự hạn chế mình” để tuyên bố rằng Campuchea sẽ dựa rất nhiều vào Mỹ để bảo vệ mình chống lại sự xâm lược và Campuchia mong muốn xuất hiện từ hội nghị hiện nay được tự do tối đa để hành động nghĩa là các biện pháp mà Cam-pu-chia có thể làm để bảo đảm quốc phòng của mình. " Điện thoại. Giây TO 650 từ Genève, 18 tháng 7 1954 (MẬT). See Chauvel's report in Johnson's priority tel. SECTO 553 from Genève, July 2, 1954 (TOP SECRET). Also: Lacouture and, Devillers, p. 238. Dillon from Paris tel. No. 32, July 2, 1954 (TOP SECRET).