← Quay lại trang sách

Chương 9 BA TẦNG GÁC

Bà Pipelet nói tiếp:

– Câu chuyện kết thúc thế này này! Tôi xuống gác thật nhanh tìm ông Alfred. Vừa đúng lúc ấy, trong phòng tôi có bà gác cổng nhà số 19 và bà hàng trai sò đang vắt vẻo ở quầy bán rượu. Tôi kể chuyện tay chỉ huy đã gọi tôi là thiên thần như thế nào, đã ôm ngang lưng tôi như thế nào. Cười đến vỡ bụng. Và ông Alfred dù rằng u u… đúng thế, u sầu như ông ấy hay nói, dù rằng ông ấy rất u sầu từ ngày thằng quỷ sứ Cabrion hành ông ấy.

Rodolphe nhìn bà ngạc nhiên.

– Đúng thế, sau này, khi thân hơn, ông sẽ rõ. Thế rồi, dù sao thì cũng đã u sầu, ông Alfred lại cũng gọi tôi là thiên thần của ông ấy. Vừa lúc đó, tay chỉ huy ra khỏi buồng, định đóng cửa đi xuống. Nhưng nghe chúng tôi cười, gã không dám đi xuống nữa, sợ chúng tôi chế giễu vì không thể không đi qua trước cửa buồng gác. Chúng tôi biết thóp như thế, và bà hàng trai sò vốn to họng, đã quai mồm kêu lớn: “Pipelet, nàng đến muộn quá đấy, hỡi thiên thần của anh!” Thế là tay chỉ huy rút vào phòng, đóng sập cửa thình một cái, chắc là nổi giận lôi đình, uất đến tím mặt. Gã mở cửa ra, đóng cửa vào đến hàng chục lần để xem có còn ai ở buồng gác không, vẫn đông người, chúng tôi cứ ở lì tại đây. Cuối cùng, thấy không ai chịu đi, gã đành quyết định, và xuống cầu thang bốn bậc một, rõ nhanh, vứt cái chìa khóa cho tôi mà không hề nói câu nào, rồi giận dữ lủi thật nhanh trong lúc chúng tôi cười rũ rượi; đã thế bà hàng trai còn to giọng: “Nàng đến muộn quá đấy, hỡi thiên thần của anh!”

– Nhưng như thế thì khéo ông chỉ huy không thuê bà nữa đấy?

– Kệ! Đúng đấy! Nhưng tôi đố dám, bọn tôi nắm được họng gã rồi. Chúng tôi biết ả tình nhân của gã nhà ở tận đâu kia, và hễ gã có hạch chúng tôi, thì chúng tôi dọa nói toạc ra hết điều bí mật. Vả lại, với mười hai franc cà khổ thì ai thèm hầu hạ gã. Một mụ nào ngoài cái nhà này ấy à? Có họa là khổ với chúng tôi, đồ bủn xỉn khốn kiếp! Thôi đi! À mà, thưa ông, ông có tin là gã nhỏ nhen đến mức xem xét đến cả đống củi, đếm từng thanh củi đốt ở lò sưởi không? Đúng là một kẻ hãnh tiến, một tên không ra gì mới phất lên học làm sang; đầu là quyền quý mà mình là bạch đinh, xài bảnh chỗ này, chắt bóp chỗ kia, bòn nơi khố bện, đãi nơi quần hồng. Tôi cũng chẳng mong điều gì xấu hơn cho gã nhưng điều mà ả tình nhân kia khiến gã điêu đứng thì tôi lại thấy rất chi là khoái! Tôi đoán chắc là ngày mai lại như những lần trước. Tôi sẽ báo động cho bà hàng trai sò biết, vì bà này hôm nọ cũng có mặt tại đây, tha hồ mà vui! Nếu bà phu nhân nhỏ nhắn lại đến, chúng tôi sẽ xem là có phải tóc hơi nâu hay hơi vàng, người có xinh xinh, dễ thương không? Ông này, thế nào chẳng có một ông chồng đần nhỉ! Thật là hết sức buồn cười phải không ông? Nhưng đó là việc của ông ta, con người quý báu tội nghiệp ấy! Tóm lại, ngày mai ta sẽ gặp bà phu nhân nhỏ nhắn. Dù có voan che mặt thế nào chẳng có lúc phải cúi gằm xuống để người ta khỏi biết thần sắc như thế nào! Như thế thì như ở quê tôi, người ta hay nói rõ mặt dạn mày dày; đã mò đến với trai lại làm ra điều sợ sệt. Nhưng xin lỗi ông, cho phép tôi bắc cái nồi ra khỏi bếp đã, cạn hết nước rồi. Mà cái món này là phải ăn ngay. Món sách bò đấy! Dù chỉ chút ít, cũng khiến ông Alfred nhà tôi vui dạ, ông ta thường hay bảo: vì món sách bò, ông ta có thể bỏ rơi nước Pháp… nước Pháp đẹp đẽ của ông ta… ông lão thân yêu ấy…

Trong khi bà Pipelet mải mê nấu nướng, thì Rodolphe tự phó mặc cho những ý nghĩ buồn nản xâm chiếm.

Người thiếu phụ đang được chú ý đến dù có phải là Hầu tước phu nhân d’Harville hay không thì cũng đã lưỡng lự đấu tranh tư tưởng chán trước khi nhận lời đến nơi hò hẹn, lần thứ nhất rồi thứ hai; sau cùng sợ những hậu quả do sự khinh suất của mình, một niềm hối hận lành mạnh có lẽ đã ngăn trở nàng thực hiện lời hứa hẹn nguy hiểm ấy.

Cuối cùng, không cưỡng nổi sự lôi cuốn mạnh mẽ nữa, nàng đã đến đây, khóc sướt mướt, sợ hãi trăm bề, đến tận thềm căn nhà này, nhưng đến lúc sắp sa ngã thì lại biết nghe theo tiếng gọi của bổn phận; thế là một lần nữa, lại tránh được ô nhục.

Thế nhưng mà vì ai, nàng phải liều thân, chịu xấu hổ, chịu nguy hiểm đến như vậy.

Rodolphe khá hiểu biết về cuộc sống và tâm lý con người. Ông có những đoán định đúng đắn về tính cách của tay chỉ huy này qua những nét phác họa chất phác và thô lỗ của bà gác cổng.

Phải chăng đó là một con người kiêu căng mà ngớ ngẩn, để có thể hãnh diện về cấp bậc hoàn toàn không nghĩa lý gì trong quân đội? Một người thiếu tế nhị đến mức ra sức ẩn danh để che giấu sau một màn bí ẩn khó phát hiện những mưu toan tội lỗi của một người đàn bà đã liều nhắm mắt đưa chân vì gã. Tóm lại, một người khá xuẩn ngốc và keo kiệt đến nỗi không thấy rằng chỉ vì so đo một vài đồng louis* mà khiến người tình của gã thành đề tài cho những người trong nhà này chế giễu một cách xấc xược, nhục nhã.

Đồng tiền xu của Pháp đúc nổi chân dung vua Louis.

Vì thế nên, ngày mai đây, do một ảnh hưởng tai hại nào đó thúc đẩy, nhưng cũng nhận thấy tội lỗi của mình quá nặng, giữa những nỗi sợ ghê gớm, chỉ còn biết dựa vào niềm tin mù quáng ở sự kín đáo, lòng tự trọng của một người, mà vì người đó, nàng không tiếc thân, người thiếu phụ tội nghiệp ấy sẽ đến nơi hò hẹn, phập phồng lo sợ, và nàng sẽ phải chịu đựng bao nhiêu cái nhìn soi mói, sỗ sàng của những kẻ không ra gì và có thể cả những lời chế nhạo thô bỉ nữa!

Xấu hổ biết mấy! Đúng là bài học nhớ đời! Thế mới sáng mắt cho người đàn bà đã trót lầm lạc, vốn từ trước đến nay chỉ biết những ảo tưởng tốt đẹp nhất, nên thơ nhất của tình yêu.

Và người đàn ông mà vì gã, nàng đã phải đương đầu với cơ man sỉ nhục, gã có biết động tâm vì những lo âu xé ruột gã đã gây ra cho nàng không?

Không!

Khốn khổ cho người phụ nữ ấy! Dục vọng khiến nàng mù quáng và lần cuối cùng đẩy nàng tới bên bờ vực thẳm. Một cố gắng can đảm của đức hạnh đã cứu nàng. Gã đàn ông kia đã nghĩ gì về cuộc đấu tranh gian khổ và thiêng liêng đó?

Gã chỉ biết bực mình, giận dữ, cuồng nộ khi nghĩ đến việc mình đã mất công ba buổi mà chẳng được gì, lại còn hợm hĩnh ngốc nghếch mà bị mất mặt với người gác cổng nữa.

Tóm lại, những thô lỗ vụng về đặc biệt của con người ấy, trong nói năng, ăn mặc, trong buổi gặp gỡ đầu tiên sẽ làm người phụ nữ sượng sùng và ô nhục đến chết đi được vì đã phải chịu đựng quá sức ô nhục và sượng sùng mất rồi.

Chao ôi! Rodolphe nghĩ: Nếu người phụ nữ này, mong rằng ta đừng biết nàng, rút ra được bài học qua những lời đánh giá gớm ghiếc đối với những âm mưu tội lỗi hiển nhiên của nàng, dù nàng đã mất biết bao nhiêu là tình, là nước mắt, là lo sợ, là ăn năn…

Và rồi nghĩ rằng Hầu tước phu nhân d’Harville có thể là nhân vật đáng buồn trong cuộc phiêu lưu này, Rodolphe tự hỏi, do một sự chênh lệch nào, do số phận nào xui khiến mà Hầu tước d’Harville trai trẻ, dĩnh ngộ, chung thủy, độ lượng và nhất là rất yêu vợ lại có thể bị phụ bạc vì một thằng cha khờ khạo đến ngốc nghếch, ích kỷ, bủn xỉn và lố lăng được? Hay là bà Hầu tước phải lòng cái bản mặt gã vì người ta đồn rằng gã rất đẹp trai.

Rodolphe đã biết phu nhân d’Harville là người hảo tâm, tinh anh và có nhận thức, cao thượng, chưa bao giờ mắc điều tiếng gì. Nàng gặp gỡ quen biết người này ở đâu? Rodolphe thường gặp nàng luôn, ở lâu đài d’Harville nhưng không nhớ là đã gặp một ai giống như tay chỉ huy ở đây. Nghĩ đi nghĩ lại mãi, sau ông mới tin chắc rằng bà d’Harville không dính dáng gì đến vụ này.

Xong việc bếp núc, bà Pipelet lại tiếp tục câu chuyện bỏ dở:

– Thế ai ở tầng hai?

– Đó là mụ Burette, bói bài tuyệt giỏi! Xem tướng tay loại cừ! Có rất nhiều ông to bà lớn đã đến đây nhờ mụ ấy bói cho, mụ ấy kiếm tiền nhiều như rác ấy, vậy mà xem bói chỉ là một trong nhiều nghề của mụ ấy!

– Mụ ấy còn làm những nghề gì nữa?

– Mụ ấy còn mở một cửa hàng Vạn Bảo tư nhân* nhỏ nữa.

Vạn Bảo là tên một hiệu cầm đồ nổi tiếng ở Hà Nội xưa. Đây chỉ cửa hàng cầm đồ của nhà nước. (Caruri)

– Sao kia?

– Tôi bảo thế là vì ông còn trẻ và như vậy càng khiến ông thích thuê nhà chỗ chúng tôi thôi!

– Tại sao kia?

– Tôi giả dụ nhé! Chúng ta sắp sửa bước vào những ngày tiệc tùng chè chén, vào mùa làm ăn của “chim mái” và bọn bốc gỗ, của người Thổ Nhĩ Kỳ và người man di đang kéo đến*. Trong thời gian này, ngay cả những tay sụ nhất cũng có lúc túng tiền tiêu. Như vậy mà có chỗ trông cậy được ngay trong nhà mình thì vẫn tiện hơn chứ, thay vì bắt buộc phải chạy đến nhờ “bà cô tôi”, ở đấy dễ bị mất thể diện hơn vì chẳng giấu được ai.

Lúc đó ở châu Âu đang hâm mộ những du khách Thổ Nhĩ Kỳ và tiếp xúc với những người ở thuộc địa từ các châu lục, nhất là từ châu Phi đến.

– Đến nhà bà cô của bà ấy à? Bà ấy cho cầm đồ à?

– Ô hay! Thế ông không biết sao? Úi chà chà! Đùa dai đấy chứ? Ông lại làm ra vẻ “ngây thơ cụ” nữa!

– Tôi làm ra bộ ngây thơ ấy à? Ngây thơ ở điểm nào thế, hả bà Pipelet?

– Chẳng ngây thơ mà lại đi hỏi có phải bà cô của tôi cho vay cầm đồ à?

– Vì sao kia?

– Vì tất cả những người đã đến tuổi biết suy nghĩ đều hiểu rằng khi đem đồ đạc gì đến nhà Vạn Bảo, ai cũng nói là “đến nhà bà cô của tôi”.

– À, ra thế đấy! Người thuê nhà ở gác hai cũng cho cầm đồ chứ gì!

– Cái ông xảo trá này! Hẳn là bà ấy cho cầm đồ và lại cho cầm rẻ hơn nhà Vạn Bảo nữa kia! Với lại chẳng rắc rối tí nào; chẳng phải bận rộn vì hàng đống giấy tờ, nào là văn tự, nào là con số! Chẳng cần! Chẳng cần! Giả dụ nhé, có ai đấy đem đến cho mụ Burette một cái áo sơ mi giá ba franc, mụ ấy cho người ta mười xu, sau tám ngày đem trả cho mụ ấy hai mươi xu, bằng không mụ ấy giữ lại cái áo. Thật là đơn giản nhé. Luôn luôn cưa đứt đục suốt mà! Đến trẻ con cũng hiểu!

– Rõ rồi! Nhưng tôi cứ tưởng rằng việc cho vay như vậy bị cấm kia mà!

– Ái chà chà! – Bà Pipelet cười phá lên rõ to. – Ông mới từ quê lên đây à? Ông bạn trẻ? Xin lỗi, tôi nói như tôi là mẹ ông và ông là con tôi ấy!

– Bà tốt quá!

– Lệnh cấm cho vay cầm đồ có đấy, nhưng nếu chỉ được làm những gì mà nhà nước cho phép thì, ông xem; nhiều người người ta chịu bó tay. Mụ Burette không có giấy tờ gì hết, không có biên lai, thành ra chẳng có chứng cứ gì cả. Việc gì mà phải sợ nhà chức trách? Thật đáng nực cười những hàng họ đồ lề mà người ta đem đến nhà mụ ấy để vay tiền. Ông khó mà tin được là có những lúc mụ ấy cho ký cược những thứ gì kia! Có lần tôi thấy mụ cho khách hàng cầm một con vẹt xám. Nó chửi rủa như bị ma làm, cái con ăn mày ấy!

– Ký cược một con vẹt ấy à? Nhưng bao nhiêu tiền?

– Khoan đã nào! Con vẹt nổi tiếng đấy! Đó là của một bà vợ góa của ông đưa thư nhà ở phố Sainte-Avoye gần đây thôi, tên là d’Herbelot. Bà ấy rất quý con chim, giữ gìn hơn con đẻ. Mụ Burette mới bảo với bà này: “Tôi cho bà cầm con chim mười franc đấy! Nhưng nếu sau tám ngày, đúng giữa trưa mà tôi không thu về được hai mươi franc thì… “

– Mười franc chứ!

– Gộp cả lãi thì là hai mươi franc chẵn; lúc nào cũng là cưa đứt đục suốt mà! “Nếu tôi không thu được hai mươi franc và tiền thức ăn nuôi nó thì tôi sẽ cho con Jacquot một ngọn mùi tây tẩm thạch tín là xong thôi!” Mụ ấy biết rõ khách hàng của mình như thế đấy. Dọa như vậy nên chỉ sau bảy ngày là mụ Burette đã lấy được hai mươi franc và bà d’Herbelot đã chuộc lại con vẹt hư đốn ấy, suốt ngày nó văng tục đến điếc cả lỗ tai khiến ông lão Alfred nhà tôi phải đỏ mặt lên vì ông ta cả thẹn như đàn bà ấy! Chẳng có gì lạ, thân phụ ông ta trước kia là linh mục… trong cuộc cách mạng, ông biết rồi chứ gì… đã có những linh mục cưới những nữ tu.

– Và mụ Burette không còn nghề gì khác nữa chứ?

– Không làm nghề gì nữa, nếu ông muốn. Tuy vậy tôi cũng không biết gì hơn ngoài một vài mánh khóe mà đôi khi mụ ấy tiến hành trong gian buồng nhỏ không ai được vào trừ ông Cánh Tay Đỏ và một mụ chột thường được gọi là mụ Vọ.

Rodolphe ngạc nhiên nhìn bà gác cổng.

Thấy người thuê nhà tương lai ngạc nhiên, bà này giải thích ngay:

– Cái tên mụ Vọ chắc là lạ lùng lắm, phải không ông?

– Vâng. Thế người đàn bà ấy có hay đến đây không?

– Đã sáu tuần nay không thấy mụ nhưng vừa ngày hôm kia đây, chúng tôi lại thấy mụ, chân đi khập khiễng.

– Mụ ta đến nhà người xem bói để làm gì?

– Đó là điều mà tôi không rõ, chí ít là xung quanh những mánh khóe giở ra trong gian buồng nhỏ tôi mách cho ông biết lúc nãy, nơi chỉ có mụ Vọ, ông Cánh Tay Đỏ được vào cùng mụ Burette; tôi chỉ thấy là vào những ngày ấy mụ Vọ thường đem theo một gói gì ấy trong cái túi xách, và ông Cánh Tay Đỏ thì giấu một túi khác trong áo choàng! Đến khi họ về, chỉ thấy tay không, chẳng mang gì theo cả.

– Thế những gói ấy đựng gì?

– Tôi chịu, chẳng biết gì hơn nữa, ngoài việc họ đun nấu cái món quái quỷ gì đó. Với những thức ấy, vì ngửi thấy mùi diêm sinh, mùi than, mùi thiếc nung chảy khi trèo lên thang gác; và rồi lại còn nghe tiếng thổi phì phò, phì phò như cái bễ thợ rèn nữa, nhất định là mụ Burette này lại giở các mánh khóe bói toán hay trò ma thuật… Ít nhất là phải như thế, theo lời lão César Bradamanti, người thuê gác ba đã hở ra cho tôi biết. Cái nhà lão César Bradamanti ấy đến là kỳ lạ; vì lão là người Ý, nói tiếng Pháp thạo cứ như là tôi với ông ấy, chỉ có khác là với nhiều trọng âm quá thôi; nhưng như thế cũng chẳng sao! Cũng vẫn là người tài giỏi, biết rất nhiều cây thuốc, nhổ răng rất tài, không phải để kiếm tiền mà để lấy tiếng thôi! Vâng, thưa ông, chỉ để lấy tiếng thôi; nếu ông có sáu cái răng hỏng, lão sẽ nói thẳng rằng lão sẽ nhổ năm cái không lấy tiền, chỉ tính công nhổ cái thứ sáu! Đó không phải là lỗi của lão nếu anh chỉ có cái răng thứ sáu là hỏng!

– Hào phóng nhỉ!

– Lão lại còn bán một thứ thuốc nước rất tốt, chống được tóc rụng, chữa khỏi đau mắt, chữa cả hai chân, yếu dạ dày và diệt cả chuột mà không cần đến thạch tín.

– Thuốc ấy chữa được cả bệnh yếu dạ dày kia à?

– Đúng thứ ấy đấy!

– Và diệt được cả chuột nữa?

– Không con nào thoát! Vì cái gì tốt cho người thì lại độc với các con vật.

– Đúng thế đấy, bà Pipelet ạ, tôi không nghĩ ra điều ấy đấy.

– Đó là một món thuốc rất tốt, chứng cứ là đã được chế từ những cây thuốc mà lão hái trên những dãy núi xứ Liban thuộc họ các loại cây lấy từ châu Mỹ; lão còn mang từ đó về một con ngựa trông có vẻ y như cọp ấy; nó trắng toát, điểm những vệt màu hồng. Ông này, khi lão cưỡi con ngựa ấy; mặc áo đỏ, ve vàng, đội mũ có ngù lông thì ai cũng muốn xem. Nói vô phép, lão giống như Judas phản phúc ấy, với bộ râu dài hung hung đỏ. Đã một tháng nay, lão thuê đứa con trai ông Cánh Tay Đỏ, thằng Tập Tễnh; cho nó mặc như một nhà thơ trữ tình thời cổ ấy, với một cái mũ không vành đen, một cổ áo xếp nếp và một cái áo ngoài màu vàng da cam. Thằng bé đánh trống để gọi khách và còn chăm con ngựa vằn nữa.

– Cậu cả của ông chánh trương mà cũng nhận công việc xoàng xĩnh ấy nhỉ!

– Bố nó nói rằng muốn để nó chịu khổ cho quen, bằng không thì nó cũng sẽ kết thúc đời mình ở pháp trường thôi! Thằng bé tinh quái và rất độc ác. Nó đã nhiều lần chơi khăm ông César tội nghiệp, người tốt nhất hạng trong những người lương thiện. Vì lão đã chữa cho ông Alfred nhà tôi khỏi bệnh thấp khớp; nên chúng tôi rất quý. Ông này, thế mà có những người kém nhân phẩm đến nỗi mà… à, nhưng thôi! Chuyện đó nghe mà rợn cả tóc gáy… ông Alfred nhà tôi bảo nếu quả đúng là như thế thì chỉ có mà đi tù khổ sai!

– Nhưng rồi sao nữa?

– Chà! Tôi chịu thôi, tôi chẳng dám…

– Thế thì thôi nhé, bà đừng nói đến nữa.

– Vì rằng là, quả thế đấy, đàn bà tử tế ai lại đi mà nói những chuyện như vậy với một người trai trẻ.

– Thế thì thôi vậy, bà Pipelet ạ.

– Vả chăng, dù sao ông cũng là người sẽ thuê nhà của chúng tôi, tốt hơn hết ông phải được biết trước đó là những điều dối trá. Ông cũng có cớ mà giao thiệp thân mật với ông Bradamanti; nếu ông lại đi tin vào những lời đồn đại ấy thì ông sẽ chẳng muốn làm quen với ông ấy nữa!

– Vậy thì bà nói đi tôi nghe!

– Người ta đồn rằng khi… có một cô gái nào đó đã dại dột… ông hiểu không ạ? Và cô ấy sợ những hậu quả…

– Thế thì sao?

– Này! Đấy! Tôi chịu thôi!

– Nhưng mà, còn sao nữa?

– Thôi! Vả lại đó là những lời đồn nhảm nhí!

– Bà cứ nói!

– Những điều dối trá đấy!

– Bà cứ nói đi!

– Đấy là độc mồm!

– Nhưng mà sao nữa!

– Những quân ghen tức với lão vì con ngựa vằn.

– May quá, nhưng tóm lại họ nói những gì?

– Chịu thôi, tôi ngượng lắm.

– Nhưng giữa một cô gái đã lầm lỡ và ông lang băm ấy thì có gì dính dáng mới được chứ?

– Tôi có nói đó là thực đâu?

– Nhưng, nhân danh Chúa, – Rodolphe sốt ruột vì cách nói lấp lửng kỳ lạ của bà Pipelet – cái gì vậy?

– Nghe đây, ông trẻ này, – bà gác cổng trịnh trọng – ông hãy thề danh dự là không nói đi nói lại với ai đấy nhé!

– Khi tôi biết rõ câu chuyện thì tôi mới thề hoặc không.

– Nếu tôi nói với ông điều này thì chẳng phải vì sáu franc mà ông hứa và cũng chẳng phải vì cốc rượu đâu đấy nhé!

– Phải, phải đấy!

– Mà là vì ông đã khiến tôi tin.

– Được thôi.

– Và để giúp cho ông César Bradamanti tội nghiệp, oan cho ông ta.

– Ý định của bà tốt quá, hẳn là thế, vậy thì…

– Người ta nói là… này nhưng mà nói đâu để đấy nhé, ít nhất là phải như thế, chuyện này không được lọt ra ngoài đâu!

– Tất nhiên thôi! Người ta nói là… thế nào hả bà?

– Chà! Thế là lại lần nữa tôi ngại không dám nói. À, nhưng này, để tôi nói thầm cho mà nghe, như thế tiện hơn. Tôi trẻ con lắm nhỉ?

Thế rồi bà lão thầm thì vài tiếng với Rodolphe, ông giật mình vì kinh sợ.

– Ôi, như thế thì khiếp quá! – Rodolphe bất giác giãy nảy lên và nhìn xung quanh. – Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! – Ông thì thầm khe khẽ, sững sờ và đau xót, những tội ác ghê gớm như vậy có thật sao? Và bà già xấu xí này lại như là dửng dưng trước những thực tế khủng khiếp mà bà ta vừa mới nói ra.

Bà gác cổng không nghe thấy Rodolphe nói những gì, lại tiếp tục nấu ăn:

– Có phải là thiên hạ độc mồm không hả ông? Sao mà một con người đã chữa cho ông Alfred khỏi bệnh thấp khớp, một người đã đem con ngựa vằn từ xứ Liban về đến đây, một người nhổ cho khách những năm cái răng mà không tính công, chỉ lấy tiền cái thứ sáu, một người có bao nhiêu là giấy chứng chỉ của cả châu Âu này; trả tiền nhà rất sòng phẳng và nhanh chóng, người ấy mà lại như thế à? Thôi được! Thà chết còn hơn tin vào điều ấy!

Trong khi bà Pipelet phẫn nộ với những kẻ vu cáo, Rodolphe sực nhớ lại lá thư gửi cho lão lang băm, viết trên giấy xấu với những nét chữ giả mạo bị nhòe gần hết vì nước mắt.

Qua những giọt nước mắt và qua lá thư bí ẩn gửi cho lão, Rodolphe thấy cả một tấn bi kịch.

Một bi kịch rùng rợn.

Bất giác một linh cảm cho ông biết những lời đồn đại ghê gớm về người Ý ấy là có cơ sở.

– Ông này! Ông lão Alfred nhà tôi đã về đấy! Ông ta chắc chắn sẽ cũng nói như tôi thôi! Rằng đó là những bọn thối mồm, chúng đổ điêu cho lão César Bradamanti, lão đã chữa khỏi bệnh thấp khớp cho ông nhà tôi, biết mấy là những chuyện ghê gớm.