Chương 11 NHỮNG AI Ở BỐN TẦNG GÁC
Cầu thang tối, ẩm ướt lại càng âm u trong ngày đông buồn bã ấy. Có thể nói là lối vào mỗi căn hộ của ngôi nhà phô bày ra trước mắt người quan sát một bộ mặt riêng biệt.
Như vậy đấy! Cửa buồng xép của viên chỉ huy vừa mới sơn màu giả vân gỗ cẩm lai với một núm đồng mạ vàng lấp lánh ở ổ khóa và một dây kéo chuông thật đẹp có tua bằng tơ đỏ đối lập với bức tường cũ kĩ, nhớp nhúa.
Cửa gác hai, nơi mụ xem bói và cho vay cầm đồ ở, lại có một mặt hàng độc đáo hơn; một con cú nhồi rơm hết sức có ý nghĩa tượng trưng và bí hiểm, bị đóng đinh ở chân và ở cánh bên trên khung cửa: một cửa guichet nhỏ bịt lưới sắt cho phép kiểm tra khách muốn vào thăm nhà.
Chỗ ở của lão lang băm người Ý, người bị nghi là làm một nghề gớm ghiếc, nổi bật lên do lối vào kỳ dị.
Tên lão được ghi bằng một loạt răng ngựa khảm vào một bảng gỗ mun đen, gắn ở cửa cái.
Đáng lẽ tận cùng theo thường lệ là một cái chân thỏ hay là một cái chân hoẵng thì dây chuông lại buộc vào một cẳng tay và bàn chân khỉ ướp khô. Cẳng tay khô đét, bàn tay nhỏ có năm ngón co quắp từng đốt với đủ cả móng tay trông đến gớm.
Cứ y như tay một đứa trẻ con.
Khi đi qua cái cửa ấy, Rodolphe cảm thấy có một không khí chết chóc; ông tưởng như nghe thấy tiếng khóc tức tưởi rồi bỗng nhiên một tiếng thét đau đớn, giật giọng, ghê gớm như xé ruột xé gan vang lên trong ngôi nhà vốn lặng ngắt.
Rodolphe rùng mình.
Bằng một động tác còn nhanh hơn ý nghĩ, ông chạy đến bên một cửa và giật chuông rất mạnh.
Người gác cổng ngạc nhiên:
– Ông làm sao thế, thưa ông?
– Ông không nghe thấy tiếng thét à?
– Có chứ, thưa ông. Chắc là có khách hàng đang nhổ một, hai cái răng gì đó!
Cách giải thích ấy có thể chấp nhận được, tuy nhiên không khiến Rodolphe thỏa mãn.
Tiếng thét ghê gớm vừa nghe thấy, theo ông, không chỉ bật ra do đau đớn về thể xác mà còn là về tinh thần nữa.
Dây chuông kéo rất mạnh; không thấy ai lên tiếng ngay.
Thế rồi, hết cái này đến cái khác, nhiều cánh cửa đóng lại. Sau đó, ở một ô cửa kính mắt bò, đặt gần tấm cửa lớn mà Rodolphe bất giác đưa mắt nhìn, lờ mờ xuất hiện một gương mặt hốc hác, tái ngắt như màu da xác chết; một mớ tóc rậm rì vừa đỏ hoe vừa hoa râm bao quanh một bộ mặt gớm ghiếc và bằng một bộ râu dài cùng màu.
Ảo ảnh ấy biến đi, nhanh như chớp.
Rodolphe sững người.
“Bóng ma” dù chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng cũng đủ khiến ông tưởng như vừa nhận ra những nét thật đặc biệt của con người ấy.
Đôi mắt ánh lục và lóng lánh như ngọc dưới bộ lông mày rậm hung hung dựng lên tua tủa, nước da tái mét, mũi mỏng, gồ, khoằm khoằm như mỏ diều hâu, lỗ mũi loe rộng một cách kỳ cục và sứt sẹo, để lộ cả một phần vách mũi khiến ông nhớ lại rất rõ một lão thầy tu nào đó tên là Polidori mà ông Murph đã nguyền rủa trong cuộc trao đổi thân mật với Nam tước de Graün.
Tuy đã mười sáu, mười bảy năm chưa hề gặp lại thầy tu Polidori, Rodolphe vẫn có hàng nghìn lý do để không quên được lão; nhưng điều làm lạc hướng những kỷ niệm xưa, điều ông vẫn còn nghi ngại hoặc do sự giống nhau như hệt của hai nhân vật ấy, đó là lão thầy tu chắc chắn vừa gặp lại dưới lốt lang băm, trước đây vốn có tóc và râu hung hung đỏ thì nay lại có bộ tóc nâu.
Nếu những điều mà Rodolphe hồ nghi có căn cứ, kể ra, ông không lấy làm lạ vì thấy một người đã được phong một chức sắc thiêng liêng như thế, một người mà ông biết rất mực thông minh, uyên bác, trí tuệ hiếm có lại sa đọa đến mức có thể nói là ô nhục, một người trí tuệ, tầm hiểu biết rộng rãi ấy lại liên kết với sự đồi bại tột bậc, với nết ăn ở quá buông tuồng, với những khuynh hướng đến là bất lương và nhất là tật ba hoa trơ trẽn, lòng khinh bạc độc địa đối với mọi con người và sự vật; rằng con người ấy nếu có sa vào cảnh nghèo khổ như hiện nay cũng là đáng kiếp, rằng lão đã có thể và hầu như phải tìm đủ cách xoay xở nhục nhã để mà sống. Vì chính lão, lão vốn đắc ý vì thiên bẩm thông tuệ lại được phong cho chức sắc thiêng liêng nữa, lão đã hài lòng vì ngạo mạn và mỉa mai đời bằng cách tự chọn một nghề hèn mạt, nghề làm trò ảo thuật rong.
Nhưng xin phép nhắc lại điều này, mặc dù Rodolphe đã xa lão thầy tu Polidori vào lúc tuổi tráng niên và tuy lão này có thể cùng trạc tuổi với lão lang băm, giữa hai nhân vật có một số điểm khác biệt đáng kể khiến ông nghi ngờ rất nhiều lai lịch của họ; tuy nhiên ông vẫn bảo với ông Pipelet:
– Có phải là lão Bradamanti ở trong nhà đã lâu không nhỉ?
– Mới gần một năm thôi. Vâng, đúng đấy; lão đến vào đầu kỳ tháng Giêng. Một người thuê nhà nghiêm túc, đã chữa cho tôi khỏi chứng thấp khớp nặng… Nhưng như tôi đã nói lúc nãy với ông, lão có tật hay nhạo báng, lão chẳng coi trọng cái gì trong mọi chuyện.
– Thế là thế nào?
Ông Pipelet nghiêm trang:
– Thế này, ông ạ, tôi chẳng phải là con gái nết na đức hạnh, nhưng cười thì cũng có nhiều cách!
– Thế thì lão vui tính lắm nhỉ?
– Không phải lão vui tính đâu! Trái lại, lão cứ như người chết rồi; cười không ra tiếng mà cười thuần bằng lời nói; đối với lão thì chẳng có cha có mẹ, chẳng có Bụt mà cũng chẳng có ma. Chẳng tha cái gì không giễu cợt, kể cả thứ thuốc nước của lão tự chế nữa đấy! Nhưng tôi cũng không giấu ông làm gì, những lời giễu cợt ấy có khi khiến tôi sợ rợn cả tóc gáy. Khi lão nán lại mươi lăm phút trong buồng gác để tán chuyện sỗ sàng về những người phụ nữ gần như không che đậy gì cả ở những nước mà lão đi qua và khi tôi chỉ còn một mình với bà Anastasie nhà tôi thì, dù đã ba mươi bảy năm qua quen thấy mình phải yêu mến bà Anastasie… Vậy mà… tôi có cảm giác tôi chẳng còn yêu mến bà ấy như xưa. Ông lại sắp cười đấy! Đã có một vài lần khi lão César rời khỏi nhà tôi, sau khi kể những chuyện yến tiệc của các bậc vương hầu mà lão đã được dự để xem họ thử những bộ răng giả lão lắp cho họ thì… Chà! Chà! Tôi chẳng còn thiết ăn uống gì nữa, miệng cứ đắng nghét. Rốt cuộc tôi vẫn cứ yêu và tự hào về nghề của mình, ông ạ! Tôi trở thành thợ sửa giày như vô số người tham tiền khác nhưng tôi vẫn cho rằng mình được việc nhiều hơn bằng cứ khâu lại đế giày cũ. Vậy mà, thưa ông; có những ngày lão quái quỷ César ấy chế giễu tôi khiến tôi lại đâm ra tiếc nghề đóng ủng, thề có danh dự và rồi cuối cùng thì… Và rồi tóm lại, lão có cách nói về các phụ nữ bán khai mà lão đã biết Ông này, tôi nhắc lại để ông rõ, tôi không phải là con gái đoan trang nhưng đôi khi, mẹ kiếp! Tôi cũng phải thẹn đỏ cả mặt… – Ông Pipelet tức sôi máu nói tiếp.
– Bà Pipelet mà cũng chịu được thế à?
– Bà Anastasie nhà tôi có hơi tàng tàng; còn lão César dù có bất nhã đi nữa thì chắc chắn vẫn là người tài trí, vì thế bà ấy bỏ qua hết.
– Bà nhà cũng nói cho tôi nghe về một vài tin đồn khủng khiếp.
– Bà ấy đã nói với ông?
– Ông yên tâm! Tính tôi vốn kín đáo mà!
– Vậy thì, ông ơi… Về cái tin đồn ấy mà! Tôi chẳng tin đâu! Chẳng bao giờ tôi tin cả! Nhưng dù sao tôi vẫn cứ phải nghĩ đến và như vậy tôi càng thấy những lời đùa cợt của lão Bradamanti thêm quái lạ. Ông ạ, nói cho cùng, tất nhiên là tôi rất hận thằng Cabrion… mối thù ấy tôi còn đem xuống tận âm phủ! Vậy mà đôi khi tôi thấy là tôi còn thích những trò đùa dai đê tiện, trâng tráo của tay này gây ra ở đây hơn là những trò mà lão César Bradamanti giở ra cùng với vẻ hài hước mà mặt vẫn lạnh như tiền, môi mím chặt đến xấu khiến tôi cứ phải luôn luôn nhớ lại ông chú đã quá cố của tôi, ông Rousselot, lúc hấp hối, thở hắt ra, mặt cũng hệt như thế!
Câu chuyện của ông Pipelet về cái tật lúc nào cũng mỉa mai cay độc của lão lang băm khi đề cập tới tất cả mọi niềm vui bình dị nhất bằng những lời giễu cợt chua chát nhất, đã đủ khẳng định những ngờ vực ban đầu của Rodolphe, vì lão thầy tu trước kia, khi bỏ bộ mặt đạo đức của lão ra, lúc nào cũng ra vẻ theo chủ nghĩa hoài nghi táo tợn nhất và dễ gây bất bình nhất.
Do sự có mặt của lão thầy tu có thể gây trở ngại cho công việc đang theo đuổi; quyết tâm phá tan mọi mối nghi ngờ, Rodolphe ngày càng thấy mình phải sẵn sàng để mà giải đoán một cách bi thảm tiếng thét rùng rợn đã khiến ông có lúc sững sờ đến thế; ông đi theo người gác cổng lên tầng trên, nơi có gian buồng ông định thuê.
Buồng cô Rigolette ở cách gian buồng ấy, rất dễ nhận ra nhờ ở tính phong nhã dễ thương, thường gọi nôm na là tính nịnh đầm ấy, của anh chàng họa sĩ tử thù với ông Pipelet.
Một nửa tá thần ái tình mũm mĩm, vẽ hơi phóng bút và dí dỏm theo phong cách của đại danh họa Watteau*, vây xúm xít một khung trang trí vẽ kiểu phóng dụ, cậu này một cái đê, cậu này một cái kéo, kẻ này một cái bàn là, người khác một cái gương điểm trang nhỏ, giữa khung, trên nền xanh nhạt có dòng chữ màu hồng: “Cô Rigolette khâu thuê”. Tất cả viền một tràng hoa nổi bật tuyệt vời trên nền cửa sơn màu xanh ngọc céladon.
(*) Jean-Antoine Watteau (1684-1721): Danh họa người Pháp, theo trường phái Rococo (hậu Baroque) đồng thời là người sáng tạo nên phong cách fête galante, chủ đề thường về cuộc sống thường ngày với tình yêu trai gái hay những cuộc hội hè.
Cái biển hàng ấy rất đẹp, tương phản với cái cầu thang xấu xí. Không ngại làm động vết thương lòng còn rớm máu của ông Pipelet, Rodolphe chỉ vào cửa buồng cô Rigolette:
– Đây hẳn là tác phẩm của ông Cabrion?
– Thưa, đúng đấy. Hắn tự cho phép làm hỏng cả lớp sơn tấm cửa này với những hình vẽ lem nhem không đứng đắn, trẻ con cởi truồng mà hắn gọi là thần Ái tình. Không có cô Rigolette khẩn khoản và sự nể nang của ông Cánh Tay Đỏ thì tôi đã cạo đi tất cả, cả cái bảng màu mà thằng quỷ sứ đó đem ra chắn ở cửa buồng nhà ông.
Thật vậy, một bảng vẽ đủ màu tưởng như treo bằng một cái đinh đã được vẽ ở cửa theo phong cách trompe-l’œil*.
Có nghĩa là “đánh lừa con mắt”. Đây là một kĩ thuật nghệ thuật khéo léo sử dụng những cảnh thực để tạo ra ảo ảnh thị giác khiến người xem lầm tưởng vật được mô tả đang tồn tại trong không gian ba chiều. Kĩ thuật này thường được sử dụng trong tranh tường, tranh trần nhằm mang lại những ấn tượng về khoảng không gian lớn hơn bình thường.
Rodolphe theo người gác cổng vào trong gian buồng đó; buồng khá rộng, đằng trước có một buồng xép; có hai cửa sổ chiếu sáng mở ra phía phố chợ Temple; một vài bản phác thảo quái dị do Cabrion vẽ trên cánh cửa thứ hai đã được cậu Germain trân trọng giữ lại.
Rodolphe có quá nhiều lý do để chọn thuê gian buồng này nên ông khiêm tốn đưa bốn mươi xu phong bao cho ông gác cổng và bảo:
– Gian buồng này hoàn toàn hợp ý tôi; đây là tiền phong bao, ngày mai tôi sẽ cho đem đồ đạc đến. Không cần phải gặp người trương nhà, ông Cánh Tay Đỏ ấy, phải không?
– Thưa không cần ạ, vì ông ấy chỉ thỉnh thoảng mới đến thôi, trừ khi là để góp một tay vào những trò ma mãnh nào đấy của mụ Burette. Thông thường thì khách thuê nhà điều đình thẳng với tôi. Tôi chỉ cần hỏi quý danh là gì thôi ạ!
– Là Rodolphe.
– Rodolphe gì kia ạ?
– Rodolphe thôi! Không thêm gì nữa, ông Pipelet ạ!
– A! Như thế thì khác đấy! Thưa ông, không phải vì tò mò mà tôi khẩn khoản hỏi như thế. Tên họ và ý muốn tùy thích cả.
– À! Ông Pipelet này, ông hãy cho tôi rõ, liệu ngày mai tôi có phải lấy tư cách láng giềng mới, đến thăm nom nhà Morel xem có giúp họ được gì không? Bởi vì trước tôi là cậu Germain cũng đã giúp họ kia mà!
– Thưa ông, được chứ ạ! Điều ấy tốt lắm chứ! Thực ra thì làm thế cũng chẳng hơn được gì vì người ta đang đuổi họ đi, nhưng dù sao thì họ cũng hài lòng.
Như có một ý nghĩ đột ngột nảy ra trong đầu, ông Pipelet nhìn Rodolphe vẻ ta đây, hóm hỉnh:
– Hiểu rồi, hiểu rồi! Đấy là bắt đầu để kết thúc bằng đi thăm cả cô bé hàng xóm nữa.
– Ấy, tôi cũng muốn tính như vậy đấy!
– Không có gì mà phải ngượng, lệ thường thôi mà! Này, tôi chắc là cô Rigolette đã đoán là có người đi thăm gian buồng và cô ấy hẳn đang nghe ngóng để nhòm chúng ta đi xuống đấy. Tôi sẽ cố tình làm ồn khi mở khóa, còn ông, thì cố ý nhìn kĩ khi đi qua cửa sổ ô vuông nhé!
Quả thế! Rodolphe nhận thấy là cánh cửa tô điểm duyên dáng bằng những thần Ái tình kiểu Watteau hé mở và thấy lờ mờ qua khe cửa hẹp một cái đầu mũi nhỏ, hếch, màu hồng và một con mắt tò mò to đen nháy; nhưng khi ông vừa đi chậm lại thì cánh cửa đã đột nhiên đóng sập lại.
– Tôi đã nói là cô ấy rình chúng ta mà! – Ông gác cổng tiếp lời. – Xin lỗi, ông cho phép… Tôi lên đài quan sát nhỏ của tôi.
– Đó là cái gì thế?
– Bên trên cái thang này có một cái sàn dẫn tới tầng sát mái nhà nơi mà Morel ở, và sau những lớp lát trần có một cái hốc nhỏ nơi tôi để mọi thứ lặt vặt. Do tường đã nứt rạn nhiều, khi ở trong cái hốc ấy, tôi nhìn thấy trong nhà họ và nghe họ nói cứ như tôi đang ở ngay trong nhà vậy. Chẳng phải là tôi rình mò họ làm gì! Thề có Chúa! Nhưng tóm lại là có lúc tôi nhìn vào nhà họ như đi xem một tấn bi kịch thảm sầu. Và đến khi về đến buồng trực của tôi thì tôi cứ tưởng như là tôi ở trong cung điện ấy. Nhưng mà này ông ạ, nếu ông có muốn gì thì gì trước khi họ đi… Buồn thật đấy nhưng mà cũng thật kỳ lạ, vì khi họ thấy ông, họ cứ như là người rừng ấy, họ ngượng.
– Ông thật tốt quá, ông Pipelet ạ, để một ngày khác, có thể là ngày mai tôi sẽ nhận lời mời của ông…
– Xin tùy ý ông. Nhưng mà tôi phải trèo lên đài quan sát đã, vì tôi đang cần một miếng da cừu thuộc. Nếu ông muốn xuống tầng dưới thì tôi sẽ theo ông sau.
Rồi ông Pipelet bắt đầu trèo lên thang để lên tầng sát mái, công việc nguy hiểm đối với người có tuổi như ông ta.
Rodolphe nhìn lại một lần nữa cánh cửa buồng cô Rigolette, nghĩ đến cô gái quen biết cũ của Marie tội nghiệp, cô này hẳn sẽ biết nơi ẩn náu của cậu con trai Thầy Đồ, bỗng nghe ở tầng dưới có tiếng ai đó đi ra khỏi nhà lão lang băm; ông nhận ra bước chân nhẹ nhàng của một người phụ nữ và nhận rõ tiếng sột soạt của tà áo lụa. Rodolphe ý tứ đứng lại một lát.
Khi không còn nghe thấy gì nữa, Rodolphe đi xuống.
Đến tầng hai, ông thấy và nhặt được một chiếc khăn mùi soa ở những bậc thang cuối, chắc chắn là của người vừa ở nhà lão lang băm đi ra đánh rơi.
Ông đến gần một trong những cửa sổ nhỏ hẹp soi sáng bậc thềm thang, ngắm nghía chiếc khăn mùi soa viền ren rất đẹp, thêu một chữ L và một chữ N ở góc, bên trên có một cái mũ miện Công tước.
Chiếc khăn mùi soa ấy đẫm nước mắt.
Ý nghĩ đầu tiên của Rodolphe là vội vã chạy theo để trả chiếc khăn của người đánh rơi, nhưng ông sực nghĩ là trong trường hợp này, cách xử sự ấy có thể bị coi là tò mò, bất lịch sự; ông giữ chiếc khăn lại, và như thế là mặc dù không muốn chút nào, ông đã lần theo vết của một chuyện phiêu lưu bí ẩn và chắc chắn là thê thảm nữa.
Đến nhà bà gác cổng, ông bảo với bà:
– Vừa có người đàn bà nào đi xuống phải không?
– Không, ông ạ! Đó là một phu nhân rất đẹp, cao và mảnh dẻ, che mạng voan đen. Bà ấy ở nhà lão César ra đấy. Thằng bé Tập Tễnh vừa đi gọi xe ngựa; bà ấy đã lên xe. Điều làm tôi thấy khác là thằng ăn mày oắt con ấy ngồi đằng sau thùng xe; có thể nó muốn dò xem bà phu nhân ấy đi đâu, vì nó sục sạo như quạ và nhanh như sóc, mặc dù chân tập tễnh.
Rodolphe nghĩ: Như vậy thì tên tuổi và địa chỉ của người đàn bà ấy sẽ có thể bị lão lang băm biết được nếu lão sai thằng Tập Tễnh bám sát người phụ nữ xa lạ này.
Bà gác cổng hỏi:
– Thế nào, thưa ông? Gian buồng hợp với ông chứ?
– Hợp lắm bà ạ! Tôi nhận thuê và ngày mai tôi sẽ cho đem đồ đạc đến.
– Đúng là Chúa thiện lành đã ban phước cho ông đi qua nhà chúng tôi, ông ạ. Chúng tôi được thêm một khách thuê nhà tuyệt vời nữa! Ông có vẻ hiền hậu, ông lão Pipelet nhà tôi sẽ mến ông ngay lập tức. Ông sẽ làm cho ông lão cười như cậu Germain ấy, cậu này lúc nào cũng có chuyện bông lơn để kể cho ông lão nghe, vì ông lão chỉ thèm cười, ông lão thân yêu rõ tội nghiệp, vì thế tôi cho là chỉ sau một tháng, hai vị sẽ trở thành đôi bạn chí thân cho mà xem!
– Chà, bà quá khen tôi đấy, bà Pipelet ạ!
– Đâu có! Những điều tôi vừa nói với ông đều thốt ra tự đáy lòng cả đấy! Và nếu ông cư xử tử tế với ông Alfred thì tôi sẽ rất biết ơn ông, ông sẽ thấy việc trông coi nhà của ông sẽ chu đáo như thế nào! Tôi có tiếng là sạch sẽ đấy, ông ạ! Và nếu ông muốn dùng cơm tối tại nhà, ngày Chủ nhật, tôi sẽ nấu cho ông những món chiên xào ngon đến nỗi chỉ mới trông thấy đã thèm nhỏ dãi ra rồi!
– Coi như xong nhé! Bà Pipelet, bà sẽ coi sóc nhà cửa giúp tôi nhé! Ngày mai tôi sẽ cho đem đồ đạc đến và tôi sẽ tự trông coi việc dọn dẹp nhà mới đấy!
Rodolphe ra về.
Kết quả cuộc đi thăm căn nhà nhỏ ở phố Temple thật đáng kể, vừa giải quyết điều bí ẩn mà ông muốn khám phá và cũng vừa để thỏa mãn lòng hiếu kỳ cao quý muốn tóm cơ hội làm việc thiện, ngăn điều ác.
Kết quả là như thế này:
* Cô Rigolette nhất thiết phải biết nơi ở mới của François Germain, cậu con trai Thầy Đồ.
* Một thiếu phụ cứ như bề ngoài thì khéo có thể là Hầu tước phu nhân d’Harville cũng nên, đã hứa với gã chỉ huy một buổi hò hẹn nữa vào ngày mai và như thế, sẽ sa ngã mãi mãi.
Vì rất nhiều lý do Rodolphe hết sức lo lắng cho Hầu tước d’Harville, chuyến này thì khéo mất cả thư thái lẫn thanh danh.
* Một người thợ thủ công lương thiện và cần cù, oằn xuống dưới gánh nặng của cùng cực, sắp bị đuổi ra đường cùng với cả bầu đoàn thê tử qua sự trung gian của Cánh Tay Đỏ.
* Cuối cùng thì Rodolphe đã vô tình phát hiện ra một vài dấu tích của một chuyện phiêu lưu mà lão lang băm César Bradamanti (có thể là lão thầy tu Polidori cũng nên) và một người phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu là những nhân vật chính.
* Hơn nữa mụ Vọ vừa mới từ nhà thương ra sau khi phải vào chữa chạy do chuyện xảy ra ở phố Gái Góa, mụ có những mối liên hệ khả nghi với mụ Burette làm nghề xem bói và cầm đồ lấy lãi trên tầng hai của căn nhà.
Thu thập được những tin tức khác nhau ấy, Rodolphe trở về ở phố Plumet, dành cuộc đi thăm viên chưởng khế Jacques Ferrand vào ngày hôm sau.
Ngay buổi tối hôm ấy, như ta đã biết, Rodolphe phải đi dự cuộc dạ hội khiêu vũ ở Đại sứ quán nước +++.
Trước khi đi theo nhân vật chính của chúng ta trong chuyến đi chơi mới này, xin mời quý vị quay về dĩ vãng với hai nhân vật quan trọng nữa của câu chuyện, Tom và Sarah.