PHẦN VIII - Chương 1 HỀ GIẤM
Người tù cạnh Cá Trê là một người khoảng bốn mươi lăm tuổi, gầy gò, khuôn mặt thanh tú, lanh lợi, vui vẻ và tinh nghịch; mồm cá ngão, răng rụng gần hết, mỗi lúc nói miệng lại ngoắc từ phải sang trái do thói quen thường thấy ở những người chuyên nói trước đám đông ở ngã tư đường; mũi tẹt, đầu to quá khổ, tóc trụi gần hết; mặc một cái áo gi-lê đan cũ màu xám, một cái quần không còn rõ là màu gì, rách tả tơi, vá hàng nghìn chỗ; chân quấn giẻ không được kín, lồng trong guốc mà vẫn đỏ lên vì phát cước.
Người ấy có tên gọi là Fortuné Gobert, biệt hiệu Hề Giấm, trước đây vốn làm trò ảo thuật, mãn hạn tù vì phát hành tiền giả, vừa rồi lại can án trốn quản thúc và trèo tường bẻ khóa ăn trộm.
Bị giam mới ít ngày nay ở La Force, Hề Giấm giở nghề kể chuyện, được các bạn tù nhiệt liệt hoan nghênh.
Bây giờ thì loại người kể chuyện như thế đã rất hiếm. Nhưng trước kia, mỗi nhóm, do họ bổ tiền đầu người góp lại trả công, sáng tác ứng khẩu của những người này làm khuây những buổi tối mùa đông dài dằng dặc vì bọn tội phạm thường đi nằm từ lúc tắt mặt trời.
Nếu chỉ ra cho các nhà tư tưởng thấy được, thật là lý thú, niềm khát khao thưởng thức những câu chuyện hoang đường và cảm động trở về với những người tù khốn khổ, thì dưới mắt họ là một vấn đề lớn. Những kẻ giết người thường hoan nghênh nhất các câu chuyện có nội dung hiển thị những tình cảm cao thượng anh hùng, kết thúc có hậu. Cuối cùng thì cái hèn yếu, cái thiện lương trả thù được cái áp bức hung dữ.
Những cô gái giang hồ cũng không khác. Họ đặc biệt thích nghe những chuyện hồn nhiên, cảm động và bi thương. Thường thường, bao giờ cũng thế, họ ghét cay đắng những chuyện tục tĩu.
Tính thiện bẩm sinh cùng với nhu cầu thoát ly, dù là trong ý nghĩ, với tất cả những gì khiến họ nhớ lại tình trạng sa đọa lúc này, chẳng phải là đã làm cho những người phụ nữ khốn khổ ấy bộc lộ cảm tình cũng như sự ghê tởm trong các sinh hoạt tinh thần mà chúng tôi vừa nói tới hay sao?
Hề Giấm tỏ ra tài hoa cả trong thể loại truyện anh hùng, trong đó, sau bao gian truân, cuối cùng người yếu thắng kẻ bức hại họ.
Ngoài ra bác ta còn là trạng châm biếm, giỏi ứng đối, trả lời cay độc hoặc buồn cười, khiến người ta đặt cho cái biệt danh Hề Giấm.
Bác vừa đi vào khu thăm nuôi.
Trước mặt bác, phía bên kia tấm lưới mắt cáo, là một người phụ nữ khoảng bốn mươi lăm tuổi, mặt mũi nhợt nhạt, dịu dàng và dễ coi, ăn mặc xuềnh xoàng nhưng sạch sẽ. Chị khóc tức tưởi và lấy khăn chấm mắt.
Hề Giấm buồn bã và trìu mến nhìn chị:
– Này Jeanne, đừng làm như trẻ con thế! Vậy là xa nhau mười sáu năm rồi còn gì! Em cứ lấy khăn che mặt thế kia thì làm sao anh nhận ra em được?
– Anh Fortuné tội nghiệp của em… nghẹn ngào tức tưởi thế này… nói sao cho nổi!
– Em buồn cười nhỉ! Này, em làm sao thế?
Em của bác, vì đó thực là em gái bác, cố nín khóc, chùi mắt, sững sờ nhìn ông anh nói:
– Em làm sao ấy à? Hay chưa kìa! Anh đã bị giam mười lăm năm ròng rã rồi, thế mà nay lại thấy anh ở đây!
– Đúng thế, đến hôm nay là đã ra khỏi nhà tù Melun được sáu tháng, không đi Paris thăm em được vì bị cấm không được bén mảng đến đấy!
– Lại bị ngồi tù! Anh lại vừa còn phạm tội gì nữa đấy? Lạy Chúa! Tại sao anh lại rời Beaugency, nơi anh bị quản thúc?
– Tại sao à? Phải hỏi tại sao anh lại đến đây chứ?
– Ừ nhỉ!
– Tội nghiệp em! Vì lưới sắt cách ngăn, em cứ coi như là anh đã hôn em, như thường lệ, sau hàng thế kỷ mới gặp lại cô em gái. Bây giờ ta nói chuyện nhé! Một phạm nhân ở Melun, biệt danh Thọt Lớn, đã bảo với anh là ở Beaugency hắn có một người bạn tù khổ sai cũ, thuê những cựu phạm nhân làm ở xưởng chế tạo phấn chì. Em có biết sản xuất phấn chì là thế nào không?
– Không, anh ạ!
– Cái nghề bở khiếp! Anh chàng nào làm nghề ấy chỉ sau một hoặc hai tháng là mắc bệnh đau bụng ngộ độc chì. Trong ba thằng thì có một thằng ngoẻo. Chà chà, nói cho đúng thì rồi hai thằng kia cũng ngoẻo nốt thôi, nhưng được cái thoải mái, họ nhậu nhẹt, giỏi lắm kéo dài được thêm một năm hoặc năm rưỡi là cùng. Tuy thế, nghề này cũng kiếm được không thua những nghề khác. Và cũng có kẻ số đỏ chịu cho bọn bành tổ phân chỗ và trụ được hai, ba năm. Nhưng họ là những tay cựu trào. Chết vì nghề thật đấy, nhưng không khó nhọc cho lắm.
– Thế tại sao anh lại đi chọn cái nghề nguy hại đến tính mạng như vậy, hở anh Fortuné?
– Thế em muốn anh làm nghề gì nào? Khi anh bị ngồi tù ở Melun về vụ bạc giả, anh làm trò ảo thuật. Trong nhà tù thì làm gì có chỗ cho anh hành nghề, mà anh thì lại yếu như sên, nên họ đưa anh sang chỗ sản xuất đồ chơi cho trẻ em. Có một tay chủ xưởng ở Paris thấy thuê cánh tù phạm sản xuất những con rối và kiếm gỗ thì phất hơn. Nói không ngoa, anh đã mười lăm năm ròng mài sắc, khoan và gọt cơ man nào là những đồ chơi như thế. Chắc chắn là anh đã cung cấp cho các ông nhóc của cả một quận ở Paris này đấy! Anh khoái nhất là kèn gỗ. Và cả những con quay bằng gỗ nữa! Vậy thì với hai thứ ấy, có thể làm cả một tiểu đoàn cũng phải nghiến răng chịu thua, không nói khoe đâu! Mãn hạn tù, anh trở thành bậc thầy trong ngành sản xuất kèn hai xu. Người ta cho anh chọn nơi cư trú trong số ba hay bốn thị trấn cách Paris bốn mươi dặm. Anh chỉ có độc mỗi hành nghề làm đồ chơi trẻ em. Huống chi, cho dù từ ông già cho đến con nít, tất cả thị dân đều mê thổi kèn tò te tí ấy thì anh cũng phải khá vất vả mới kiếm được miếng bỏ mồm. Nhưng anh không thể xúi bẩy cả thị trấn thổi kèn từ sáng đến chiều được. Thiên hạ sẽ cho anh là một thằng đại bịp!
– Lạy Chúa! Anh vẫn cứ khéo đùa.
– Còn hơn là khóc, em ạ! Cuối cùng, thấy là cách Paris bốn mươi dặm diễn trò quỷ thuật chẳng đem lại lợi lộc gì hơn là làm kèn gỗ, anh bèn xin được quản thúc ở Beaugency, ý cũng muốn đăng vào hàng ngũ “phấn-chì-viên”*. Đó là loại bánh ngọt xơi vào thường bị chứng khó tiêu “lâm khốc”* nhưng dù sao nghề đó vẫn còn nuôi sống được người ta cho đến lúc phải bệnh mà chết. Vẫn có cái để mà sống! Nghề ấy chẳng thích hơn nghề ăn trộm sao? Anh mà có muốn đi ăn trộm thì gan dạ đã chẳng có, sức khỏe cũng không, đúng là do hoàn toàn ngẫu nhiên mà anh đã phạm vào cái điều mà lát nữa anh sẽ nói cho em nghe.
Thợ làm phấn chì rất hay bị ngộ độc chết người.
Nguyên văn: Chứng khó tiêu “miserere” – nhạc lễ cầu hồn bên công giáo, dịch thành “lâm khốc”; Hề Giấm thích nói kiểu khôi hài.
– Em biết là dù gan dạ hay khỏe mạnh đi nữa, thì đầu óc anh cũng chẳng để cho anh đi ăn trộm được.
– Chà, em cũng tin điều ấy sao?
– Tin chứ! Thực ra thì bản chất anh vốn là tốt, trong cái vụ bạc giả rủi ro ấy, anh bị người ta lôi kéo, gần như ép buộc, anh biết rõ mà!
– Đúng thế, em ạ! Nhưng, em thấy không, ngồi tù mười lăm năm ròng rã như thế thì con người cũng đến tối tăm ngu muội khác nào cái tẩu ngắn đen xỉn đây này, cho dù khi mới vào tù, người ta cũng trắng trong như một cái điếu sứ mới tinh. Hết hạn tù ở Melun, anh thấy mình chẳng có gan đi ăn trộm.
– Vậy mà anh lại dám liều chọn một cái nghề chết người. Này, anh Fortuné, anh vẫn cứ làm cái điều khiến anh tồi tệ, nhưng đâu đến nỗi thế!
– Hượm đã! Có trời mới hiểu được tại sao gầy gò như anh mà lại nghĩ là xỏ mũi được cái bệnh ngộ độc chì, nó có gặm anh thì cũng chẳng xơ múi gì, rồi cũng phải đi nơi khác. Tóm lại là anh có thể trở thành một chân trông bọn cựu phấn chì viên. Ở tù ra, anh bắt đầu xài phí tiền đã để dành dụm, dĩ nhiên kể cả số tiền anh kiếm được do kể chuyện buổi tối ở nhà giam.
– Cũng như là anh vẫn thường kể cho cả nhà nghe thời đó anh nhỉ? Mẹ tội nghiệp của chúng ta thích nghe kể chuyện lắm đấy, anh còn nhớ không?
– Chính thế đấy! Mẹ là một người phụ nữ tốt làm sao chứ! Trước lúc chết, mẹ chẳng bao giờ dám nghĩ là anh ngồi tù ở Melun.
– Chẳng bao giờ! Cho đến phút cuối cùng, bà vẫn cứ tưởng anh ở ngoài đảo*.
Các đảo thuộc địa của nước Pháp ở vùng biển Caribe.
– Biết làm thế nào được! Anh xuẩn ngốc là do lỗi của bố đấy. Bố đào tạo anh trở thành hề phụ cho bố trong các buổi biểu diễn trò ảo thuật, ăn giẻ, phun lửa, nhả khói, thành ra anh làm gì còn có lúc để giao lưu với kẻ sang mà chẳng đi lại với bọn xấu. Nhưng rồi thì từ Melun đi Beaugency, tất nhiên anh đã nướng hết tiền, dù sao thì sau mười lăm năm ở tù cũng cần vùng vẫy đôi chút cho ra vẻ con người, cho nó đã đời. Huống chi là, chẳng phải là quá phàm ăn, thì phấn chì cũng có thể tặng anh một cơn đau bụng khó tiêu cuối cùng. Đến lúc đó thì số tiền dành dụm được ở nhà lao còn dùng để làm gì nữa, anh hỏi em? Sau đó, anh đến Beaugency, gần như không còn một xu dính túi, anh tìm gặp Vélu, bạn của Thọt Lớn, chủ xưởng. Chúa ơi! Làm gì còn xưởng phấn chì! Mười một mạng chết trong một năm, người tù khổ sai đã thôi mở xưởng. Thế là bơ vơ giữa thị trấn, vẻn vẹn độc mỗi một nghề làm kèn gỗ kiếm cơm không xong, và giấy tờ mãn hạn tù giam làm thư giới thiệu, anh xin việc làm tùy sức, vậy nhưng vì thiếu sức khỏe, em thừa hiểu là anh được tiếp đón thế nào! Ăn trộm chỗ này, ăn mày chỗ kia! Quân sểnh tù, tóm lại, thấy anh thò mặt ra ở đâu là người ta khư khư giữ chặt túi áo. Đến chết đói mất trong một cái xó như vậy, thế mà anh lại không được phép rời bỏ mà đi trong năm năm. Thấy thế, anh bèn bỏ trốn nơi quản thúc để lên Paris tìm đất dụng võ. Vì chẳng thể đi xe tứ mã, anh phải vừa đi vừa ăn xin dọc đường trốn cảnh sát như chó tránh đòn. Phúc bảy mươi đời là đi được một lèo không rắc rối đến Auteuil. Mệt lử, đói gần chết, ăn mặc lại chẳng sang trọng tí nào như cô thấy đấy. – Hề Giấm ngạo nghễ nhìn bộ quần áo rách mướp của mình, nói vậy. – Không một xu trong túi, dễ bị bắt vì tội ma cà bông. Thật thế! Lúc đó thời cơ xuất hiện, ma dẫn lối quỷ đưa đường, mặc dù xưa nay anh nhát như thỏ đế.
– Thôi, anh ơi, thôi đi. – Cô em sợ người gác nghe thấy lời thú tội tai hại, dù rằng lúc ấy họ đứng khá xa.
– Em sợ người ta nghe thấy hay sao? Yên trí! Anh cần giấu làm gì! Anh bị bắt quả tang, không còn đường chối cãi. Anh đã thú nhận hết cả. Anh cũng biết điều gì đang chờ anh. Thế là đi đứt!
– Chúa tôi! Lạy Chúa, – người phụ nữ tội nghiệp vừa khóc tức tưởi vừa nói – anh nói chuyện vẫn cứ tỉnh khô như thế.
– Cho dù anh có bốc đồng mà nói thì liệu anh có được cái gì không nào? Thôi đi! Hãy biết điều, Jeanne ạ! Chẳng lẽ anh lại phải an ủi cô hay sao?
Chị Jeanne chùi nước mắt, thở dài.
– Lại tiếp tục nhé! Anh đã đến gần Auteuil lúc nhá nhem, không còn gượng được nữa, anh chỉ muốn vào Paris lúc đêm đến. Anh ngồi nghỉ sau một hàng rào và suy tính kế hoạch hành động. Nghĩ mãi rồi cuối cùng lăn ra ngủ. Có tiếng người nói chuyện làm anh thức giấc. Đêm đã đến, tối mịt. Anh lắng nghe, có tiếng một người đàn ông và một người đàn bà nói chuyện trên đường cái, phía bên kia hàng rào. Người đàn ông bảo người đàn bà: “Biết sao được? Có ai mà lại nghĩ đến nhà ta để ăn trộm! Chẳng phải là đã hàng trăm lần ta để nhà trống không đấy à?” – “Vâng, – người đàn bà nói – nhưng mà những lúc đó thì chúng ta làm gì mà có được một trăm franc trong tủ.” – “Ai mà biết được, rõ ngu.” Người chồng bảo. “Ông nói phải đấy!” Người vợ trả lời. Thế là họ ra đi. Thực tế, cơ hội rõ tuyệt! Bỏ qua thì uổng quá! Chẳng có gì là nguy hiểm cả! Anh đợi hai người đi khá xa mới chui ra khỏi hàng rào. Cách đấy hai mươi bước, thấy một cái nhà nhỏ, chắc đấy là cái nhà có một trăm franc, vì chỉ có độc mỗi cái nhà tồi tàn ấy bên đường mà thôi, lầm sao được! Auteuil thì cách đó có năm trăm bước. Anh tự bảo: “Can đảm lên, mày ơi! Có ai đâu mà sợ, trời thì tối, nếu không có chó giữ nhà (em cũng biết là anh vốn hay sợ chó) thì thật ổn việc.” May quá! Nhà không nuôi chó. Để cho chắc chắn, anh gõ cửa. Không thấy động tĩnh… Anh yên tâm càng bạo gan. Những lô cửa tầng trên đã đóng, anh luồn gậy vào giữa hai lỗ, bẩy mạnh rồi trèo vào bằng đường cửa sổ. Trong buồng vẫn còn một tí lửa leo lét trong lò sưởi soi sáng. Anh thấy một cái tủ com mốt đã khóa, anh lấy một cái kẹp cời than nạy các ngăn kéo và tìm thấy món tiền giấu trong một cái bít tất len cũ. Anh không hơi đâu mà lấy những thứ khác, anh vọt qua cửa sổ, và anh rơi đúng… em đoán xem… May thế!
– Chúa ơi! Anh nói tiếp đi.
– Đúng vào một anh gác đồng điền đang trở về làng.
– Khốn khổ.
– Trăng lên, gã thấy anh ở cửa sổ nhảy ra, gã tóm ngay lấy anh. Gã có thể thừa sức xơi tái mười đứa như anh. Quá nhát sợ để chống lại, anh đành chịu để gã bắt quả tang tay cầm chiếc bít tất, gã nghe tiếng tiền loảng xoảng bèn thu lại tất cả bỏ vào trong túi xà cột và áp giải anh về Auteuil. Cảnh binh và trẻ con cùng đi theo đến nhà xã trưởng. Người ta đợi chủ nhà về khai báo. Chẳng còn cách gì để chối cãi, anh thú nhận mọi chuyện, ký vào biên bản. Họ còng tay anh, thế là lên đường!
– Thế là anh lại ngồi tù nữa. Có thể còn tù lâu không?
– Nghe đây, Jeanne! Anh không muốn nói dối em, tốt hơn là cho em biết hết mọi chuyện ngay thì hơn…
– Lại còn gì nữa đây, Chúa ơi!
– Can đảm lên nào!
– Nhưng anh nói đi chứ!
– Này, chẳng phải chỉ có đi tù mà thôi đâu!
– Làm sao lại thế?
– Do tái phạm và lại trèo tường khoét vách ban đêm ở nhà người ta, ông trạng sư đã bảo với anh: tính dồn lại như người ta chồng bánh. Anh sẽ bị kết án biệt xứ từ mười đến mười lăm năm, ngoài ra còn bị đem bêu tại quảng trường nữa.
– Đi chèo thuyền! Nhưng anh yếu thế kia mà, anh sẽ chết mất thôi! – Người em gái đau khổ khóc òa.
– Thế nếu anh xung vào đội quân sản xuất phấn chì thì sao?
– Nhưng khổ sai chèo thuyền thì… Chúa tôi! Khổ sai chèo thuyền!
– Là tù ngoài trời, mặc áo đỏ thay cho áo nâu chứ sao! Với lại anh vẫn cứ tò mò muốn xem biển. Dân Paris mà lại, chúa tò mò mà!
– Nhưng mà lại bị bêu… Khổ thân chưa! Bêu cho thiên hạ phỉ nhổ! Ôi, lạy Chúa tôi! Lạy Chúa! Khổ thân anh tôi!
Và người phụ nữ bất hạnh lại khóc.
– Này, Jeanne! Phải biết điều chứ! Đúng là một phen bĩ cực phải trải qua, lại còn phải ngồi chịu trận nữa! Vả chăng, chẳng phải là anh đã quen với đám đông như kiến quanh anh, anh cứ coi như mình đang làm trò, và nếu có thấy khó chịu quá thì cứ việc nhắm mắt lại là xong hết. Như thế cũng chẳng khác nào thiên hạ hoàn toàn không trông thấy mình.
Nói một cách khinh bạc như vậy, con người khốn khổ ấy cố ý làm ra bộ dửng dưng đáng trách, cốt để an ủi cô em qua vẻ ngoài hờ hững như không.
Đối với một người đã quen nếp sống nhà lao, chẳng còn biết xấu hổ là gì, thì đi đày thực tế chỉ còn là một sự thay đổi thân phận, thay đổi áo tù, như là Hề Giấm nói huỵch toẹt ra chẳng ngượng.
Rất nhiều tội phạm ở nhà lao trung tâm, do muốn bị đẩy đi đày khổ sai vì thích cuộc sống ồn ào sống động ở đấy hơn, nên đã mưu toan giết người để bị chuyển đến Brest hay Toulon!
Có thể hiểu điều đó thế này: trước khi bị đi đày thì họ cũng đã phải lao động chết xác tùy theo nghề cũ của mình.
Thân phận của những người công nhân lương thiện nhất ở các cảng cũng cực nhọc gay go chẳng kém. Họ đến xưởng cũng cùng một giờ giấc, cuối cùng thì những bệ nằm vôi vữa để đỡ ê ẩm chân tay vì mệt nhọc cũng chẳng hơn gì chỗ nằm của bọn tội đồ.
Nhưng mà họ tự do! Thiên hạ nói thế!
Vâng, tự do thật! Tự do trong một ngày, ngày Chủ nhật, và ngày ấy cũng là ngày bọn tù đi đày được nghỉ ngơi.
Nhưng họ không bị nhục nhã, nhuốc nhơ!
Này, nhục nhã nhuốc nhơ còn là cái gì đối với những con người khốn khổ ấy, ngày nào mà trái tim họ chẳng chai sạn đi trong cái lò lửa ô nhục ghê người ấy, ngày nào mà họ chẳng leo tất cả những nấc thang ô nhục trong cái môi trường trụy lạc chung ấy. Ở đó những kẻ có trọng tội nhất thường được quý mến tôn trọng.
Hậu quả của chế độ hình phạt hiện nay là thế này đây:
Kiểu giam cầm cố rất được ưa chuộng.
Hình thức đi đày thường được yêu cầu.
– Hai mươi năm khổ sai chèo thuyền! Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! – Người em gái tội nghiệp của bác Hề Giấm luôn miệng ca cẩm.
– Hãy yên trí nào, cô Jeanne! Tiền bao nhiêu, hàng bấy nhiêu. Anh quá yếu nên họ chẳng nỡ bắt anh phải làm việc khổ sai. Nếu không có xưởng chế tạo kèn trumpet và kiếm gỗ như ở Melun, thì người ta sẽ cho làm việc nhẹ, tỉ như là họ cho anh làm việc ở trạm xá nhà lao. Anh vốn hiền lành, xưa nay không hay ương bướng, anh lại sẽ kiêm nghề kể chuyện, cũng như ở đây, anh sẽ làm cho các sếp của anh mến, các bạn tù quý và anh sẽ gửi về những quả dừa khô chạm trổ và các hộp bằng rơm tặng các cháu trai cháu gái. Thôi thì, đã trót phải trét, biết làm thế nào!
– Lúc đó, giá mà anh chỉ gửi cho em một lá thư báo cho em là anh muốn đến Paris tìm công ăn việc làm, thì thể nào em cũng giấu anh bằng được trong nhà em.
– Chính thế! Anh đã tính đến nhà em nhưng anh không muốn đến tay không, vì kể ra thì thấy em ăn mặc thế này, hẳn cũng chẳng khá khẩm gì. Ái chà, thế còn chú ấy và các cháu thì sao?
– Anh còn nhắc đến con người đó làm gì!
– Vẫn cứ trác táng chứ gì? Tiếc thật! Tay nghề giỏi như thế mà.
– Hắn làm em đến khổ! Thôi, đã đủ thứ khổ rồi chưa đủ, nay lại khổ thêm vì anh!
– Làm sao? Thế chồng em?
– Hắn bỏ em đã ba năm nay, sau khi bán sạch trong nhà, để em và mấy đứa con chỉ còn độc mỗi cái đệm!
– Em chẳng cho anh biết điều ấy.
– Nói để làm gì, cho anh thêm buồn à?
– Tội nghiệp em! Thế một mình em làm thế nào với ba đứa trẻ?
– Chao ôi! Biết mấy là vất vả. Em làm nghề viền tua, cố làm được đến đâu thì làm, chị em hàng xóm giúp đỡ thêm, trông coi lũ trẻ khi em vắng nhà. Em xưa nay ít gặp may, vậy mà đời em đến lúc này coi như là đã có phúc đấy, nhưng dù sao, tại cái thằng chồng em nên cũng chẳng hơn gì trước.
– Tại sao thế?
– Người bán hàng thêu ren có kể cho một khách hàng nghe về nỗi khổ của em. Chồng em bán hết đồ đạc, bỏ đi chẳng để lại xu nào, vậy là một mình em phải nai lưng nuôi mấy đứa con. Một bữa đi làm về, anh có biết sao không? Em thấy trong nhà rặt đồ mới, một cái giường vững chãi, đồ gỗ, quần áo, do người khách hàng ấy làm phúc giúp cho cả.
– Người khách ấy phúc đức quá nhỉ! Tội nghiệp em tôi. Thế tại sao em không viết thư cho anh biết là em túng quẫn như vậy? Thay vì đem tiêu hết vốn liếng, anh đã gửi tiền giúp em.
– Người tự do mà lại đi nhận tiền người ở tù, sao được!
– Đúng thế! Anh được nhà nước cho ăn, cho ở, kiếm được xu nào là của mình. Yên trí là em rể, em gái đều có tay nghề giỏi mà em thì nội trợ đảm đang, thế là anh tiêu pha vô tội vạ, chẳng nghĩ đến ai!
– Chồng em tay nghề có hạng thật đấy, nhưng lại đổ đốn. Tóm lại, nhờ được sự giúp đỡ trời cho lúc đó, em đã lấy lại được tinh thần. Cháu lớn đã bắt đầu kiếm được đôi chút. Gia đình em thế cũng đã ổn, chỉ còn buồn một nỗi anh bị tù ở Melun. Công việc khấm khá, các cháu ăn mặc lành lặn, chẳng thiếu thốn mấy nỗi, em cũng khỏe cái bụng. Cuối cùng, em vừa mới để ra được gần ba mươi lăm franc thì bỗng nhiên chồng em quay về. Đã mất mặt một năm đấy! Thấy nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp, lành lặn, nó điềm nhiên lấy hết tiền, ở lì tại nhà, chẳng làm ăn gì cả, ngày nào cũng rượu chè be bét, em có nói thì lại đánh đập.
– Thằng ăn mày!
– Nào đã hết đâu! Nó còn đưa gái về nhà nữa. Lại phải chịu đựng thêm nữa, nó còn đem bán dần cả đồ đạc của em. Đề phòng bất trắc em tìm đến một luật sư ở cùng khu nhà hỏi xem có cách nào để ngăn chồng em kẻo nó sắp làm cho cả nhà đói rách lần nữa.
– Thật đơn giản! Cứ tống cổ nó ra khỏi nhà là xong.
– Vâng! Nhưng em lại không có quyền. Ông luật sư nói là chồng em có toàn quyền quyết định của cải mà không phải làm gì vì là người đứng đầu tài sản chung. Thật là một điều bất hạnh, nhưng em phải đành cam chịu ép một bề. Còn về trường hợp cô nhân ngãi thì em được quyền xin ly dị và phân chia gia sản như thiên hạ thường nói. Đã thế, về việc chồng em đánh đập thì có đủ nhân chứng, em có thể đệ đơn kiện trước tòa, nhưng ít ra thì phải bỏ ra từ bốn trăm đến năm trăm franc để được ly dị. Anh nghĩ xem! Cả một năm làm lụng mới kiếm ra được bằng nấy. Tìm nơi nào để có thể vay mượn được? Phải nghĩ đến trả nữa! Và năm trăm franc một lúc, đấy là cả gia tài.
– Có một cách thật đơn giản để kiếm được năm trăm franc. – Hề Giấm chua chát bảo. – Tức là cả năm treo miệng lên! Sống bằng không khí thời đại, và dù sao cũng cứ phải lao động như thường! Tay luật sư không mách em cái mẹ ấy thì kỳ thật.
– Anh thì lúc nào cũng đùa được!
– Ôi, lúc này thì không đâu! – Hề Giấm bất bình. – Vì tóm lại đó là một điều ô nhục, luật pháp đối với người nghèo sao mà đắt thế? Vì đảm đang trung hậu như em, làm đổ máu mắt ra để lương thiện nuôi con. Chồng em là một thằng mạt kiếp có hạng. Nó đánh đập, cấu xé em, lường gạt cướp bóc của em để huy hoắc ở cao lâu tửu quán tiền em kiếm được. Em kêu gọi công lý, kêu gọi luật pháp bảo vệ giúp em giữ được tấm cơm manh áo khỏi nanh vuốt của thằng ăn hại. Thế mà những luật gia lại bảo: “Đúng, lẽ ra phải thuộc về bà đấy, chồng bà là một thằng vô lại. Tòa sẽ xử cho bà được kiện. Nhưng để xét xử như thế bà phải bỏ ra năm trăm franc!” Năm trăm franc! Tất cả số tiền mà em, mà cả nhà em cần để sống trong một năm. Này, em thấy không, tất cả sự việc đó chứng tỏ điều tục ngữ thường nói, là chỉ có hai hạng người trên đời này, những kẻ bị treo cổ và những kẻ đáng để cho người ta treo cổ.
Rigolette một mình trầm tư, không có ai khác để trò chuyện, không bỏ sót một lời của người phụ nữ tội nghiệp mà nỗi bất hạnh làm cô rất cám cảnh. Cô tự hứa là sẽ kể lại cho Rodolphe biết về những nỗi khổ cực của chị ta lúc cô gặp lại ông. Chắc chắn thế nào ông cũng ra tay cứu giúp.