← Quay lại trang sách

Đường về quê

Phải bánh xe là xe không?

- Không.

- Phải thùng xe là xe không?

- Không.

- Vậy thì tiếng “xe” chẳng là một tiếng không không.

Na Tiên Tì Kheo Kinh

Tiểu công nghệ không bao giờ chết! Tiểu công nghệ muôn năm! Những lời hoan hô ấy thường ám chỉ ngành dệt tơ lụa nội hóa, nhưng hôm nay, chúng tôi muốn áp dụng nó vào giới xe đò lỡ. Bên cạnh những công ty triệu phú gồm trên hai mươi chiếc xe tối tân, mỗi chiếc chở trên bốn mươi hành khách, chạy bon bon nổi giông nổi gió, thì xe đò lỡ rõ ràng là bé bỏng như những khung cửi cổ lỗ bên cạnh những máy dệt tối tân của Tây phương hoặc của Nhật Bổn. Đây này, chiếc xe ngoại hạng, mang bảng số xa xưa từ đời CU... vì “tuổi hạc quá cao” nên “gối mỏi da dùn” gặp khoảng đường xấu thì nhíp rít lên ken két và tuy mới sơn nhưng nổi u nần, xù xì như da con cóc tía, bạc màu.

Nói đến tiểu công nghệ là nói đến tánh chất gia đình. Chủ xe đã quá năm mươi tuổi, đảm nhiệm công việc “xốp phơ”. Cậu lơ xe người đồng hương với ông, được chỉ huy theo đường lối gia trưởng. Thỉnh thoảng nếu bị ông cằn nhằn, rầy rà oan ức, cậu lơ cau mày rồi bỏ qua, như ngày xưa người cha áp dụng kỷ luật “phu xử tử vong”, “áo mặc không qua khỏi đầu”. Mỗi tối thứ bảy, vào khoảng một giờ trưa, cậu lơ và ông chủ không cần hò hét bắt mối. Đã có có một số thân chủ đến tìm. Đó là những thầy thợ về thăm gia đình. Họ không cần mang khăn gói vì ở nhà họ đã có sẵn bộ đồ mát để thay đổi. Tuần lễ đầu tháng, họ mua đem về từng ký lô xà bông, từng cái áo thun con nít, đôi ba ổ bánh mì. Ai dám bảo là đàn ông không biết đi chợ, không biết tiết kiệm từng đồng từng cắc?

Xe chuyển bánh chầm chậm, khi chạy hết tốc lực thì cũng không lẹ hơn ai. Trên đồng hồ tốc độ, ghi rõ ràng từng cây số đến một trăm cây số nhưng cây kim đã liệt, đong đưa như quả lắc... Ông “xốp phơ” nheo mắt, chú ý vào công việc tiểu công nghệ, cả tay ngọc gót vàng đều làm việc. Thoi nhật nguyệt đây là cái “vô lăng” và máy âm dương là bàn đạp “ga” xăng. Đó là nói theo bài thơ khẩu khí của vua Lê Thánh Tôn. Thi sĩ đời nay có lẽ sẽ ca ngợi thêm. Chiếc xe đò lỡ này là chiếc thoi dệt những mối tơ giao cảm trên nẻo đường đất nước, đưa những giọt máu trở về tim để gạn lọc tìm lại những gì là lành mạnh v.v...

Tốc lực vừa phải của chiếc xe giúp cho du khách có đủ sự trầm tĩnh mà suy nghĩ. Xe chạy quá nhanh chỉ đánh thức sự kiêu hãnh và gây sợ sệt trong lòng người. Ra khỏi bến Chợ Lớn - Cây Mai, không khí thay đổi. Mưa đầu mùa đã nhuộm xanh vào rặng cây ở chân trời. Con trâu cúi đầu ăn cỏ. Đôi bóng người xê dịch trên bờ ven nhỏ, che dù. Ai cũng quen thuộc, nhìn nhau không bỡ ngỡ. Hồi làn sóng văn minh vật chất mới tràn tới, người ta ao ước được ngồi trên xe hơi, dầu là xe đò. Ngày nay khác hẳn, “Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không”. Giá trị của đồng quê đã sáng chói, như viên ngọc quý bấy lâu không được ai lau chùi, nay lại chưng vào tủ kính. Vài người thỏa mãn trong giấc Nam Kha, tay nắm đầy châu báu nhưng khi thức tỉnh, họ cũng không muốn về quê để tạo lập một cơ sở, một phần mộ. Cát bụi trở về cát bụi. Chúng ta muốn làm cát bụi ở thôn quê, vun quén cho lúa cho khoai, mấy ai muốn kiếp sau của mình được làm hột cát bụi đô thành, ngột thở dưới lớp vách xi-măng cốt sắt, giam hãm trong mùi xăng nhớt?

Thôn quê là đây.

Cứ mỗi trưa thứ bẩy, hành khách của chuyến xe lỡ này sống lại những phút “lâng lâng chẳng chút trần ai”. Không cần ánh trăng “chênh chếch bóng chiếu trên rặng tre”. Không cần tiếng hò nhịp, tiếng giã gạo thật đều, thật nhanh của bản dân ca nào nhẹ nhàng xa đưa cả. Đấy là những câu kinh, những tiếng chuông, tiếng mõ dành riêng cho kẻ chưa đắc đạo. Dưới ánh nắng đổ lửa, nhìn những gốc rạ vàng cháy bên đường, khách hồi hương vẫn nghe hơi hướm của bồng lai tiên cảnh đang len lỏi vào tâm hồn.

Ông “xốp phơ” nói:

- Chạy mau làm gì? Kỳ rồi có ông nọ chạy mô tô mở hết tốc lực 120 cây số. Qua “cua”, ông ta thắng lại thình lình để tránh chiếc cam nhông trước mặt. Nếu thắng không ăn thì chết. Đằng này, thắng rất ăn. Vì trớn rút tới bị chặn thình lình, anh ta nhảy nhổm trên xe, cần cổ gật lại, gãy cổ mà chết tốt. Xe vô chủ nhào lăn nằm dưới ruộng, máy vẫn nổ rầm rầm. Xe mình chạy như vầy là vừa. Thế nào tối nay mình cũng gặp vợ con... Mấy thầy đọc nhựt trình không? Tôi có mua một số đây. Đủ hết: tử vi, tiểu thuyết, tin tức.

Một hành khách với tay cầm tờ báo lẩm bẩm đọc rồi chặp sau nói với người trên xe:

- Bữa nay có tin này ngộ quá. Nè... con nít chăn trâu giỡn nhau, đứa làm Ngọc Hoàng, đứa làm ông Địa, đứa làm Thiên Lôi nhè cầm ống quẹt mà đốt, làm phỏng nặng ông Ngọc Hoàng!

Có tiếng hỏi:

- Chuyện ở đâu vậy? Xứ đó chắc xa lắm. Con nít bây giờ ít biết giỡn điệu đó.

- Ở Tân Huề, Châu Đốc.

Người khác nói:

- Quê của vợ tôi đó! “Tân Huề, Tân Quới, Tân Long, ba Tân nhập lại không xong Tân nào”. Câu hát xưa nói về cù lao Tân trên sông Cửu Long. Con nít chơi dại quá. Cha mẹ không ai rầy la?

- Đâu có biết mà rầy la. Không ai dạy tụi nó trò chơi đó. Tụi nó chế ra. Miệt tôi, nghe nói hồi xưa con nít chăn trâu cũng giỡn (rắn mắt) một lần, nhờ vậy mà nổi danh. Móc đất sét tụi nó nắn hình người rồi đặt tên: đây là ông cả, đây là hương chủ, đó là ông hương sư, hương giáo, chánh lục bộ. Rồi hô một tiếng, tụi nó quăng mấy hình nhơn đó xuống sông, lõm bõm. Đất sét thì phải chìm. Trời xui đất khiến, cớ sao có một tượng đất sét nổi lình bình. Đó là tượng ông hương cả. Hay được, dân làng thỉnh tượng đó về thờ, cất đình. Bây giờ còn danh là “đình chăn trâu”. Nước mình xứ nào cũng có chuyện lạ.

Một giọng khác nói:

- Xứ của tôi ở xa lắm, vì mới khai phá nên sung túc. Trước năm kinh tế khủng hoảng 1930, giới điền chủ thiệt là no đủ, “trên ô-tô, dưới thời ca nô”. Đời văn minh, khó mà xảy ra chuyện linh hiển lạ kỳ như ông anh mới nói.

- Vậy thì buồn quá!

- Đâu mà buồn. Cũng có cất đình nhưng đâm đơn về Huế mà không được vua Bảo Đại phong sắc thần gửi vô. Dân chúng mới chế biến ra nhiều ông hiền, ông thánh mà thờ! Tam hiền, nhị thánh.

- Chẳng hay quý danh mấy ông đó là ai?

- Nói ra họ kiện chết. Đó là ba ông chuyên môn cho vay cắt cổ, tính theo bây giờ thì hồi đó họ ăn lời 3.650 phần trăm mỗi năm... tiền lời thì đem xây cất am Di Đà, đình Thần nông... Ba ông cho vay được bà con chế giễu là ba ông hiền.

- Còn nhị thánh?

- Là hai tay gộc, ruộng đất cò bay thẳng cánh. Tay thứ nhất mang tật mù từ thuở bé nhưng đá gà rất tài tình. Ông ta dùng tay mà rờ đầu, cổ, mông, cựa vảy... Đá trăm độ bảo đảm ăn chín mươi chín độ rưỡi. Đó là ông thánh thứ nhứt. Ông thánh thứ nhì là cậu công tử đi học trường “Bôn Đu-me” về. Một tuần cậu lái xe hơi ra chợ để nhảy đầm. Cậu mang tật cà nhót một chân mà nhảy đầm rất tài tình. Tây đầm ngán cậu ta quá xá!

Có tiếng cười khúc khích. Chập sau bầu không khí dịu xuống. Cậu lơ nói:

- Bà con ai còn chuyện gì ngộ nói ra chơi, trước mua vui, sau làm nghĩa nè. Coi chừng xe qua mặt nghe! Bà con cô bác rút cái tay vô, ló cái đầu ra!

Ông “sốp phơ” quát:

- Đừng hỗn mày! Bỏ cái thói đó nghe. Ở đây bà con cô bác ai nhỏ bằng tuổi mày mà mày nói giọng đó?

Một hành khách nói:

- Đứa cháu nó quen miệng nói cầu vui vậy mà. Ông già này khó tính quá ta. Nãy giờ sao ngồi êm rơ vậy?

- Ngồi êm chớ tôi nghe đủ hết.

- Vậy thì ông phải nói một chuyện gì để trả lễ lại chớ.

- Theo kỷ luật “sốp phơ” nghe bà con... thì tôi không được nói chuyện lúc hành nghề và không được ngồi gần gái đẹp. Rủi lãng trí thì hư hao. Nhưng mà bà con châm chế giùm. Bữa nay không có cô gái đẹp nào ngồi gần tôi. Mấy cổ kiếm xe tốt mà đi chớ đâu thèm đi xe này, mất “le” hết. Với lại tôi là sốp phơ lão thành, dẫu nói chuyện chớ luôn luôn nhớ nhiệm vụ. Bây giờ nói chuyện xứ tôi. Không có tam hiền, nhị thánh. Nhưng có ông tổng bảy, ông phó ba với thầy xã hai cắc chín. Từ chợ quận ra chợ tỉnh, hồi xưa chỉ có xe ngựa, mấy người sang trọng hễ đi thì bao trọn một cỗ xe. Mỗi cuốc như vậy, thầy cai tổng cho “buộc bo” bảy cắc, ông phó tổng tiết kiệm hơn, trả giá ba cắc, thầy xã thì trả hai cắc chín xu thôi... Riết rồi thành “tà ríp”, thành danh “tổng bảy, phó ba, thầy xã hai cắc chín”.

- Tại sao thiếu một đồng xu?

- Vì sau ngựa phải qua đò, đò ăn một xu. Thầy xã bắt buộc chủ xe ngựa phải chịu tổn phí đó, nên chủ xe còn hai cắc chín. Bây giờ xin nói qua ông cai tổng. Về già ổng sắm một chiếc xe ngựa riêng cho oai. Năm đó ổng đi Sài Gòn mua được một con ngựa bắc thảo, thứ ngựa cao lớn dình dàng mà nhà binh Tây hồi xưa dùng để kéo súng “cà nông” lớn. Ngựa già, nhà binh dạt nó ra.

Mỗi tuần, con ngựa bắc thảo đó kéo xe, đưa ông cai tổng ra chợ để hầu quan chủ quận Châu Thành.

Năm ấy, dịp lễ 14 Juillet, tục gọi là lễ Chánh Chung, ông cai tổng đánh xe ra chợ tham dự. Kèn nhà binh thổi tò te tí te, cờ tam sắc đi tiên phuông, theo sau là binh sĩ nai nịt chỉnh tề đều bước. Con ngựa bắc thảo bỗng nhảy nhổm, trố mắt. Ông cai ghì cương lại. Ngựa vẫn lồng lộn, hí vang rền. Giật mình, ông nhảy xuống.

Đoàn quân nhạc tiến lại, càng gần, kèn tò tí te như thổi trong tai. Con ngựa bắc thảo vụt hí lớn... phóng mình, dây cương vuột khỏi tay ông cai tổng.

Rồi đúng theo tinh thần kỷ luật, nó đến sắp hàng sau toán lính, đi biểu diễn. Ông cai tổng la hoảng, lính mã tà can thiệp đuổi con ngựa ra khỏi hàng ngũ. Nó đành thối lui, hầm hừ. Binh sĩ biểu diễn kéo qua, đi xa, vào thành.

Nhưng thừa lúc ông cai tổng sơ ý, nó vụt chạy lần nữa, chạy tuốt vào thành. Phải vất vả lắm mới đuổi nó ra ngoài được.

Rồi ông “sốp phơ” kết luận:

- Lời tục ví “ngựa quen đường cũ” là như vậy đó. Chiếc xe hơi này không khác gì con ngựa “xích thố” chở ông Quan Công theo đường cũ, ngày hai chuyến đi hai chuyến về như vầy hoài. Tôi thì như người nông phu đi dạo giữa hai bên đồng ruộng. Mùa cày, mùa cấy, mùa gặt, lúc mặt trời mọc thả trâu ra ruộng, khi chạng vạng nhắc nhen kêu... thảy thảy đều có mặt tôi.

Cậu lơ cười:

- Bây giờ thì ông thúc nó về đường cũ cho lẹ lẹ một chút. Mau lên con ngựa xích thố!

Ông “sốp phơ” nói buồn buồn:

- Con ngựa này già quá rồi. Vài năm nữa cho nó vô nhị tì xe hơi của Chệt ve chai ở đường Cây Mai. Còn tôi thì về vườn, xuống lỗ...

Nhưng khách bộ hành sẽ về đâu? Họ cúi đầu xuống, nghĩ đến cái lúc mà xác chiếc xe CU này hóa ra con quỷ vô thường. Từng bộ phận của nó sẽ trở thành những mảnh sắt vụn, những cây đục, con dao yếm, như khi con trâu chết thì phân thây ra làm con cờ, lược chải đầu, mặt trống. Sanh kế sẽ đưa họ về đâu? Họ còn được về quê mỗi tuần một lần, đúng ngày thứ bảy? Hay là họ sẽ phát tài, dời cả gia đình lên thành đô để ngày đêm đầm ấm trong cửa rộng nhà cao? Hoặc là một trường hợp não lòng sẽ xảy ra. Họ mất sở làm, không có tiền để về quê nữa, phó mặc việc sinh sống của vợ con cho vợ con đảm nhận. Rồi họ lê gót khắp đô thành từ Bàn Cờ, Phú Nhuận, Hòa Hưng, Tân Sơn Nhất, ăn gởi nằm nhờ, nhìn lá me rụng bên vệ đường, nhìn bóng mát cây trứng cá nhà ai rồi hững hờ dang tay hái trộm thử một trái để tự an ủi.