← Quay lại trang sách

Một người hàng xóm

Vương An bừng mắt, lên tiếng. Đó là giọng rên bất mãn, khi cảm thấy đói. Nắng chói vào, từ cánh cửa mở rộng. Vương An nhắm mắt lại, dỗ giấc ngủ, nhưng cay mắt quá, bèn kêu lên vài tiếng não nuột, ư hư, ha... Xung quanh Vương An là khoảng trống, thế là tung chăn, ngồi dậy, bước chập chững như người say rượu, lần tay vào vách. Đến ngưỡng cửa, Vương An ngồi xuống, rú to lên để than van niềm cô đơn. Rồi nằm sắp, úp mặt xuống gạch, tay chân cựa quậy như con cua, như con nhện. Hai chân đập xuống, đụng vào gạch, càng đập mạnh, càng đau. Sau rốt, từ cửa miệng Vương An vang ra thứ âm thanh quái đản của con thú bị thương. Vương An trườn tới, hai tay chỏi lên, rồi buông xuôi.

Một bà lão bước vào, tay bồng đứa bé, tay nâng cái bánh bao to, trắng phếu, cái bánh nhưn thịt, có hột vịt, lạp xưởng. Vương An ngồi dậy, dựa lưng vào vách, bóp méo cái bánh, cắn một miếng, nhai thử rồi buông ra, nằm dài, rú lên.

Bà lão chạy tới, hươi tay đập mạnh vào mông Vương An rồi lột cái quần ướt mềm. Vương An ù lì, nằm tại chỗ, trong vũng nước nhầy nhụa, không kháng cự, nước mắt tuôn khá nhiều, mồ hôi lại chảy ra, chan hòa với mớ nước miếng. Nắng cứ lên, phản chiếu. Vương An đột nhiên ngồi dậy, liếc ra ngoài cửa.

Tôi ngồi đọc báo, theo dõi chiến sự. Những màn biểu diễn đượm vẻ “hiện sinh”, “hiện hữu” của Vương An chẳng còn gì là mới mẻ cả. Chú Hai, cha của Vương An dừng ngang cửa:

- Chào thầy Hai. Thầy Hai ở nhà, chưa đi làm? Hồi sáng nghe nói nổ lựu đạn ở chợ Tân Định, lính bố ráp.

Tôi đáp:

- Lát nữa phải đi. Chú Hai về sớm?

- Bữa nay ngày mười bốn An Nam, bán đắt lắm, người ta mua đồ về ăn chay. Vợ tôi giữ cái sạp “chạp phô” để tôi về lo cho A Ốn.

A Ốn là tên gọi của Vương An. Chú Hai sanh trưởng tại vùng cầu Ông Lãnh, tên chú là Vương Tường, năm nay khoảng năm mươi tuổi. Chú là người láng giềng trầm lặng, đóng cửa, ít cho con đi chơi ngoài ngõ hẻm. Người trong xóm khen ngợi: Chú đàng hoàng, chưa gây gổ với ai. Tôi nhận xét: Chú là hạng người chí thú làm ăn, “chơi bời kỹ”. Hai vợ chồng chú thay phiên nhau bán hàng trong nhà lồng chợ Thái Bình, mấy đứa bé, tất cả năm đứa, được nuôi nấng đầy đủ, nhờ sự chăm sóc của người quản gia lớn tuổi. A Phò, gọi bà Phò. Năm ngoái, một đứa con gái của chú Hai nâng cái chén đầy cơm, vừa đi vừa ăn trước cửa, vô tình nó lủi vô mình tôi, chén rơi đổ. Chú Hai hay được, trách mắng đứa bé rồi đích thân gặp tôi xin lỗi, mời đến uống trà. Lần đầu tiên, tôi vào nhà chú Hai. Cả một sự bừa bãi: Như cái nhà kho chứa hàng: nào tàu hủ khô, củ cải muối, củ kiệu, muối bọt, mỗi thứ chừng năm ba chục ký lô. Lại có năm ba khạp tương, hàng trăm chai tàu vị yểu, hàng chục hộp nấm đông cô, bún phơi khô... la liệt dưới gầm giường, trên gác, dưới bàn ăn cơm. Sách báo thì vô số kể. Chú Hai luôn luôn tích trữ hàng chục ký lô, đem về rọc nhỏ. Lúc rảnh rang bà Phò khuấy hồ, dán bao để gói hàng. Người trong xóm lo ngại, nhà chú Hai chứa toàn chất “bắt lửa”, rủi bề gì gây tai họa không đo lường được. Uống trà xong, chú tự giới thiệu bằng cách viết lên giấy, nhờ đó, tôi biết chú có năm đứa con, mỗi đứa mang cái tên khá đẹp, nếu đọc theo chữ Hán:

Đứa gái lớn là Vương Thái Phụng, gọi nôm na là Thởi Phùng, các em gọi nó là A Ché (tỷ là chị)

Thằng trưởng nam là Vương Khôn, gọi Khoánh, các em gọi là Tò Co (đại ca).

Đứa trai kế là Vương Xương là Vương An, gọi A Ốn. A Ốn, tức là nhân vật rắc rối mà tôi vừa mô tả phong cách ở phần nhập đề.

Ngoài ra còn có hai đứa con gái, ghi vào danh sách này cho sát với thực tế: Vương Kim Ngân, gọi A Ngàn, Vương Thái Hồng, gọi Thởi Hùng. Trong tương lai, còn nhiều nhân vật bé bỏng khác lần lượt xuất hiện. Vợ chồng chú Hai sanh năm một và lấy làm hãnh diện với thành tích ấy.

Chú Hai ngập ngừng:

- Tôi về nhà, lo cho A Ốn.

- Cái thằng Vương An phải không?

- Nó đó, thầy ơi. Cưng nó lắm. Bữa nay nhõng nhẽo, hồi khuya chắc nó bịnh, tôi đánh nó mấy roi, bây giờ nghĩ lại, buồn quá. Nó mập mà đau hoài, tôi mua cái móng con cọp cho nó đeo. Nó biết nói chuyện cũng nhờ thầy “khai khẩu” giùm, thầy quên rồi sao?

Tôi trầm ngâm, sực nhớ hồi năm ngoái Vương An đi bác sĩ về, ngồi cú rũ, rên ư hư. Tôi chạy qua, đứng lại ngưỡng cửa, hỏi thăm. Chú Hai nói: “Nó không biết nói chuyện đâu, nói ít lắm, mang cái tật. Cái lưỡi nó lớn, hình vuông”. Tôi nhìn Vương An, hỏi thử: “Đi bác sĩ bằng xe gì? Xe xích lô hả?”. Bỗng dưng Vương An há miệng, trợn mắt, nói ra hai tiếng thật lớn, như cái máy “ra dô” vặn to:

- Xích... nô

Cả nhà vui mừng, chú Hai, thím Hai mua cua biển thật nhiều, hàng chục con, luộc chín để thết đãi bầy con và người có phép thần thông là tôi. Ăn xong một con cua khá to, Vương An cười mủm mỉm. Tôi dạy nó hai tiếng khác. Nó trợn mắt quát to: “Tắc xi”. Thật là kỳ diệu. Vợ chồng chú Hai hỏi thăm tuổi tác của tôi rồi nhìn nhau. “Thầy Hai tuổi Dần, con cọp. Cái tuổi Dần của thầy Hai... oai linh lắm, không như cái tuổi Dần khác”.

- Bữa nay chú Hai nhờ tôi chuyện gì? Tôi sẵn sàng. Làm đơn xin nhà nước giảm thuế?

Chú Hai ngập ngừng:

- Mời thầy Hai qua nhà.

Vương An vẫn nằm dài, trên nền gạch. Chú Hai rót nước trà, nói giọng kính cẩn:

- Thầy... khoán cái bùa giùm.

Tôi làm thầy bùa hồi nào mà ngày nay chú Hai phong chức cho tôi như vậy? Tôi muốn từ chối, chưa kịp mở lời là chú nói:

- A Ốn bịnh cái miệng.

- Tôi đâu biết khoán bùa.

- À, cái đó dễ lắm. Cái tuổi Dần, con cọp của thầy Hai...

- Thế gian này, trong xóm này, con nhiều người tuổi Dần.

- Nhưng mà cái tuổi Dần của thầy oai linh lắm. Cọp có nhiều thứ, cọp hiền, cọp dữ, cọp đen, cọp trắng, cọp... đi tu lâu năm. Thầy Hai hồi đó ra đời nhằm giờ... con cọp linh.

Nói xong, chú Hai kéo ngăn tủ nhỏ, đem ra cây bút lông, thỏi mực, cái nghiên, rưới nước, bắt đầu mài:

- Lát nữa thầy khoán giùm hai cái bùa ở hai bên gò má thằng A Ốn.

Vì quan niệm đó là trò đùa vô thưởng vô phạt, tôi nhận lời, cầm bút lông múa máy, như viên dũng tướng cầm kiếm:

- Khoán bùa kiểu gì, chú dạy tôi đi.

- Thầy biết chữ Tàu mà. Vẽ chữ hổ, là con cọp đó. Tôi nhúng mớ lông thỏ mềm mại vào nghiên mực, viết thử vào lòng bàn tay. Chú Hai khen ngợi:

- Được rồi. Thầy là con cọp linh, thầy viết lên gò má A Ốn một bên một chữ hổ. Làm vậy, nó nói chuyện mau. Nhờ thầy mà mấy tháng rồi nó nói chuyện nhiều quá.

A Ốn cười hề hề, nhưng khi bút lông cọ vào má, nó nhảy dựng khóc ré lên. Chú Hai nắm tay nó, bồng nó:

- Xúi chẩy, Xúi chẩy. (Thằng nhỏ không tốt).

Tôi thối chí vì nó lắc đầu lia lịa. Chú thò vào túi, đem ra tấm giấy 20 đồng, nhét vào tay. Nó cầm lấy, nhưng cứ phản đối. Tôi thở dài. Chú giải thích:

- Thầy đừng buồn. Nó sợ cái con cọp của thầy đó.

Sau rốt, tôi đem hai đồng bạc tặng cho nó, nó chịu ngồi yên. Tôi viết xong hai chữ hổ là chú khen:

- Tốt lắm. Tốt lắm.

- Vậy là xong.

Nhờ thầy vẽ thêm hai cái vòng tròn ở ngoài cái chữ hổ, như nhốt con cọp trong chuồng.

Lát sau, chú Hai buông A Ốn ra. Nó chạy mất ngoài đầu hẻm, mang theo tiền bạc. Chú Hai nhắc bà Phò:

- Coi chừng A Ốn. Đừng đánh nó. Đi theo nó mà coi chừng.

Sau khi thị oai với con nít, tôi về nhà, sửa soạn đi dạo phố. Khi về, được hay tin: A Ốn đã nhập học, tại trường tư thục Chí Thanh, vào buổi xế. Mấy người dì, người chú của A Ốn đã chọn ngày lành tháng tốt, mua sắm cho đứa cháu cưng nào giấy, vớ, cặp da, thêm cái “kết” bằng vải ka ki. Bà Phò cho biết:

- Thầy Hai ơi, “xí chảy” đi học rồi. Nó vui lắm, bận quần áo tốt lắm.

Tôi ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao A Ốn còn có tên là “xí chảy”, bèn viết lên giấy, mấy chữ Vương An, bà Phò lắc đầu, mượn cây viết viết nhanh lên giấy, hai chữ “tiểu tử”.

Đồng hồ trên vách gõ bốn tiếng. Vì có ý chờ đợi nên thỉnh thoảng tôi nghiêng mình, trông ra cửa sổ, từ bên nhà tôi. Bà Phò nói vọng qua:

- Năm giờ, xí chảy mới về. Còn một giờ nữa, tôi đi rước nó.

Bỗng dưng ngoài đầu hẻm, tiếng khóc nhừa nhựa vang lên, mỗi lúc càng to. Đúng là A Ốn, tại sao cậu ta lại khóc ré trong lúc chưa tan học? Thím Hai - mẹ nó - mặt mày hầm hừ, nắm tay mà kéo lết nó. Trông A Ốn thật buồn cười, thiểu não: đầu đội kết, gắn ngôi sao trắng kiểu Quốc dân đảng, như ông tướng, hai chân mang loại vớ khá cao tận gối, nhuộm từng khoanh đen đỏ xanh vàng, kiểu vớ dành cho “anh chị” múa lân dịp tết. Hai sợi dây tréo quần sắp tuột, còn vướng víu trên vai. Và rõ ràng là không gài nút quần.

Lũ trẻ trong ngõ hẻm xúm nhau bao vây A Ốn và thím Hai.

A Ốn dừng lại, hươi tay. Thím Hai quát to:

- Tụi con nít này làm gì kỳ khôi vậy? Chận đường không cho người ta đi. Ngộ lắm hả?

Hai bên gò má A Ốn còn mấy lằn nguệch ngoạc của chữ hổ, đã lem lấm vì nước mắt. Lúc A Ốn đi ngang nhà, tôi ẩn lánh để khỏi e thẹn. Rõ ràng tôi chẳng có chút oai linh nào cả.

Bà Phò cởi quần, bắt buộc nó tắm rửa. Nó phát chạy, trần truồng. Thím Hai nắm nhanh tay nó, kéo vào nhà rồi chụp lấy cây roi mây. Nó chửi rủa vu vơ, thím đập túi bụi. Nó té xuống, hai chân cựa quậy, tung tăng đôi vớ màu “dã thú”. Lát sau, hai tay nó bị trói, đầu dây buộc vào chân bộ ván. Nó ngồi xuống, chịu phép. Thím Hai quát to như phân trần với hàng xóm:

- Mầy chạy hả? Tại sao mầy ngồi học trong trường rồi mầy chạy băng qua đường? Xe hơi nó cán mầy. Mầy coi xe hơi là đồ bỏ, mầy không sợ chết hả. Tao làm ăn mua bán trong nhà lồng chợ, kiếm tiền nuôi mầy ăn học, mầy biết không? Tại sao trong chợ tao kêu mà mầy chạy, người ta đạp nhằm, mầy lòi ruột. Tao lớn như vầy mà chạy đua không kịp mầy hả? Giỏi lắm, cái chân nào chạy đâu. Chạy hay lắm! Hay lắm!

Một tiếng hay lắm được điểm bằng một ngọn roi khá mạnh tay. A Ốn cựa quậy, đập đầu vào chân bộ ván, xuống nền gạch. Bà Phò can gián, toan giựt roi, nhưng thím Hai đánh thêm:

- Hay lắm. Cái chân này hay lắm. Trói mầy luôn trong nhà. Tao ra ngoài chợ lo công việc mua bán. Tại tao đánh mầy mà tao bỏ bê công chuyện hết... Xúi chảy.

Thím Hai vừa ra, bà Phò khép cửa lại. Tụi trẻ con còn lẩn quẩn nhìn vào. A Ốn nói to:

- Đ.m. tụi bây. Tụi bây cũng ngu như tao vậy đó.

Bộ tụi bây hổng có bị đòn lần nào hả?

Một đứa trẻ hỏi:

- Bộ mày mới đi học?

A Ốn đáp:

- Hổng vui. Học kỳ cục thấy mẹ.

Tôi đến gần cửa sổ, nói đùa:

- Vương An. Biểu bà Phò mở trói cho.

Nó lắc đầu:

- Cái gì mà Vương An. Kỳ cục thấy mẹ.

- Vương An là cái tên A Ốn đó.

- Không có cái tên gì hết. Không biết cái tên. Hồi chiều cô giáo kêu cái tên tao, rồi đánh đít tao, đau quá.

Mười phút sau, chú Hai về.

Mưa lắc rắc, bóng đêm lan tràn quá sớm. Trẻ con chui vào nhà, ngõ hẻm mất vẻ náo nhiệt. Ăn cơm chiều xong, tôi ngồi bên cửa sổ, nghe tin tức chiến sự.

A Ché, chị của A Ốn, bước vào:

- Thầy ơi, ba tôi kêu kìa.

“Kêu” có nghĩa là mời mọc. Tôi hứa:

- Về đi, lát nữa chú qua. Ba làm gì bên đó? Ăn cơm chưa?

- Ăn rồi. Ăn con cua luộc.

Nói xong, A Ché chạy mất, tôi phập phồng, chẳng hiểu lát nữa ăn nói ra làm sao, đóng kịch gì. Chắc chú Hai muốn bàn việc gì quan trọng chớ nào phải mời ăn cơm. Buổi cơm đã tàn, như A Ché cho biết.

Qua nhà chú Hai, tôi thấy A Ché, A Khoánh, A Xén, A Ốn... ngồi trên bộ ván, giành nhau mớ bắp nướng và đậu phộng rang. Chú Hai, thím Hai ngồi đối diện, mừng ra mặt:

- Mời thầy Hai.

Tôi cười gượng:

- Vẽ bùa con cọp cho A Ốn hả? Nó đi học mà tôi không hay. Tại sao nó bỏ lớp, về nhà? Ngày mai, cho nó đi nữa, cho quen.

Thím Hai lắc đầu:

- Thằng đó... ăn không hè.

Chú Hai nói, nghiêm nghị:

- Coi vậy chớ nó giỏi lắm. Nhờ cái bùa, nhờ thầy Hai.

Rồi chú rót nước trà đậm, đem kẹo gừng mời tôi ăn cho ấm, lúc trời đang mưa nhỏ. Câu chuyện cũng khá vui. A Ốn thích đi học, và đòi đi học từ hồi năm ngoái. Vô lớp, nó vui lắm, nói chuyện om sòm. Cô giáo hỏi tên để ghi vô sổ học. Nó nói: “A Ốn, A Ốn mà”. Nghe không được, cô giáo hỏi ba bốn lần, vì nó trả lời ngọng. Nó la lớn: “A Ốn, bộ không biết sao mà hỏi hoài vậy?”. Cô giáo dạy nó: “Muốn đi tiểu tiện thì lên cho cô hay, xin phép đàng hoàng.” Nó cười. Cô giáo sắp đặt cho nó ngồi gần chị nó, anh ruột nó là A Ché và A Khoánh... Trường tư, cái gì cũng dễ hơn trường nhà nước... Vô học, chưa cần nạp khai sanh.

A Ché cho biết:

- Cái thằng Ốn nó ngồi, nó cười, nó nói mỏi chân. Nó chạy lên xin cô giáo đi đái. Cô giáo ừ. Nó chạy ra sân chơi, lâu lắm rồi trở vô. Chừng cô hỏi thì... nó đâu có đái.

A Ốn cười, quơ tay về phía A Ché:

- Nói bậy hoài.

Tôi hỏi A Khánh:

- A Ốn học được chữ nào không?

A Khoánh nói dõng dạc:

- Thằng đó kỳ cục lắm. Đi đái rồi lát sau nó nói với cô giáo: “Cho nó đi ngoài sân chơi, coi xe hơi được không?”. Học trò đứa nào cũng cười lớn. Nó mắc cỡ, chửi cô giáo. Cô giáo đòi phạt quỳ gối. Nó chạy ra ngoài sân, vô nhà lồng chợ kiếm ba tui, ba tui cưng nó lắm. Không thôi thì... xe hơi đụng nó rồi, nó chạy qua hai con đường lận.

Cả nhà cười vang lên trong khi A Ốn nổi giận, nhào lăn xuống nền gạch, chú Hai bước theo, nắm tay nó, vuốt ve nó. Nó nói:

- A Pà. Làm con ngựa... cho tao cỡi đi.

Chú Hai ngoan ngoãn khom lưng. A Ốn nhảy thót lên, thích chí thúc hai chân. Tôi đứng nhìn. Chú Hai trở thành con búp bê cho con đùa giỡn. Đây là đời tư, là sanh hoạt gia đình. Không cần có người ngoài làm khán giả. Thím Hai, bà Phò, anh và chị cả A Ốn ngồi xúm xít, rọc xấp báo cũ, dán bao giấy. Tôi đến đầu ngõ hẻm uống cà phê. Lát sau, gió thổi mạnh, mưa nặng hạt. Trở về, thấy chú Hai đang đứng gần cửa:

- Thầy về nhà sớm hả? Chắc... ông trời mưa sáng đêm. Có máy bay. Thầy nghe không? Đêm nào nó cũng bay tiếp viện. Thằng A Ốn ban ngày thấy máy bay, nói máy bay giống như con cá. Nó không phải như người lớn mà biết lo. Chừng này mà nó ngủ trong mùng rồi.