← Quay lại trang sách

Chương 3

Vào tuần thứ ba sau khi lấy lại ý thức, tôi choàng tỉnh vì ác mộng đêm khuya. Trong mơ, tôi bị tên đàn ông với đôi mắt cá chết đó bắn thủng trán. Đây là lần thứ ba tôi gặp ác mộng như thế kể từ lúc ký ức về vụ việc sống dậy.

Hai lần trước, lúc bừng tỉnh tôi không nhận ra ngay mình đang ở đâu. Lơ mơ cảm thấy bản thân đang ở một nơi là lạ, nhưng không biết là nơi nào, lại phải mất một lúc định vị xem tại sao lại ở một nơi như thế.

Và hôm nay, triệu chứng này trở nặng hơn. Tôi là ai? Trong khoảnh khắc tôi không biết nữa. Tôi ôm đầu, vùi mặt vào gối. Tâm trí tôi toàn những mảnh ký ức rời rạc không thể lý giải. Rồi chúng từ từ định hình.

Chẳng mấy chốc ký ức ùa về. Tôi nhớ lại những chuyện liên quan đến bản thân mình, nhưng đồng thời cũng có cảm giác kỳ quặc. Dường như các cảm nhận của tôi không còn như hôm qua nữa.

Tôi ngồi thẳng dậy, từ lưng đến mông ướt sũng mồ hôi. Bộ pyjama lạnh lẽo. Tôi ra khỏi giường, lấy đồ để thay trong hộp carton nơi góc phòng. Tachibana dặn tôi rằng quần áo lót đặt ở đó.

Sau khi thay quần áo, cảm giác khó chịu trên người không còn, nhưng tâm trạng chẳng tốt lên bao nhiêu. Lồng ngực nghèn nghẹn như thể có một lớp đất sét bao phủ trái tim, và kỳ lạ là tất cả các tế bào trong cơ thể náo động đến mức làm tôi bồn chồn.

Cổ họng khô khốc, nhưng tôi không muốn vươn tới bình nước để ở đầu giường. Tại sao tự nhiên tôi muốn uống cà phê lon? Hiện tượng này lạ quá. Cà phê lon sao? Trước giờ tôi không mấy khi uống loại này, cũng không đặc biệt yêu thích gì. Ấy vậy mà giờ lại tự nhiên muốn uống. Tôi lục túi cái quần đang treo trên giá, trong túi có ví đen, đúng như hôm tôi đến văn phòng bất động sản kia.

Ra gần cửa, tôi vô tình liếc vào tấm gương chỗ bồn rửa, và bất thần giật mình. Tấm gương phản chiếu hình ảnh một người tôi chưa từng nhìn thấy. Tôi bất giác giật lui.

Cùng lúc, người trong gương cũng giật lui. Tôi cử động tay. Hắn hành động tương tự. Tôi vuốt mặt, hắn cũng vuốt mặt, bằng bàn tay ngược hướng tôi.

Tôi bước đến gần, nhìn kỹ người trong gương. Mặc dù tôi vẫn nghĩ ấy là một người xa lạ, nhưng trong lúc chăm chú nhìn, tôi đã hiểu ra rằng đó là mình. Ra vậy, thì ra đây chính là khuôn mặt của tôi. Không có gì đáng sợ cả, chẳng phải sao? Tại sao tôi lại mất thời gian đến vậy để công nhận vẻ ngoài của mình?

Tôi bình tâm lại, cầm tiền lẻ rồi nhẹ nhàng mở cửa và thăm dò tình hình bên ngoài. Hành lang tối om vì chỉ còn vương lại những tia sáng yếu ớt của chế độ đèn ngủ, cũng chẳng có dấu hiệu nào cho thấy có trực ban. Tôi lặng lẽ luồn ra khỏi phòng.

Tầng này không có máy bán đồ uống tự động, không có gì cả. Mình thử xuống dưới xem sao, tôi nghĩ.

Mặc dù có thang máy nhưng lại hiển thị dừng hoạt động.

Bên cạnh có cầu thang bộ.

Ấy vậy mà mới được mấy bước tôi đã phải đứng sững lại vì vấp phải cửa cuốn chặn kín lối ra cầu thang. Tôi nhìn quanh. Không thấy công tắc đóng mở cánh cửa.

Tôi quay lên và chạy sang đầu kia hành lang. Tôi biết ở đó có lối thoát hiểm. Tôi kéo nắm đấm cửa, nhưng nó không xê dịch. Tôi ngước lên trên và thấy cánh cửa đã được cố định bằng dụng cụ kim loại.

Cái quái gì vậy? Tôi đá vào cánh cửa, thế này mà có hỏa hoạn xảy ra thì làm sao thoát được?

Tôi quay lại thang bộ lần nữa, thử đi lên trên. May là ở đây không có cửa cuốn.

Đây là lần đầu tiên tôi tới tầng khác, hành lang tầng này cũng chẳng có gì cả. Dù không hy vọng gì vào cà phê lon nữa, tôi vẫn tiếp tục bước đi.

Phía trước có hai phòng cá nhân. Có lẽ tiến sĩ Dogen và các trợ lý của ông ngủ lại đây. Tôi biết rằng thời gian này họ hầu như không về nhà.

Thấy cánh cửa căn phòng đối diện mở hé, tôi tiến lại gần, hít một hơi thật sâu rồi đi vào. Tôi lần tay trên tường tìm công tắc, bật lên, và chìm trong ánh sáng trắng chói chang.

Chính giữa phòng đặt một cái bàn lớn, trên đó sắp xếp rất nhiều dụng cụ đo. Dọc tường là các kệ thuốc và tủ đứng. Có những kệ trông như tủ bếp, nhưng bên trong không phải ly cốc, mà là cốc mỏ và chai lọ dùng cho thí nghiệm.

Tôi bật kêu khẽ, vì nhìn thấy tủ lạnh. Loại tủ lạnh cỡ đại năm cánh kêu ro ro chứng tỏ đang hoạt động. Dù không có cà phê lon đi chăng nữa, thì chắc cũng có nước ép, thậm chí bia. Biết đâu Wakao lại uống được bia rượu.

Tôi nuốt nước bọt tiết ra trong miệng, háo hức mở một cánh tủ lạnh và bất giác cười toét trước những chiếc lon nhỏ sắp bên trong. Nhưng chẳng mấy chốc, tôi nhận ra mình nhầm. Nhãn lon cà phê sẽ không viết mấy thứ như công thức hóa học này.

Mở các cánh khác cũng thế, bên trong lốc nhốc chai thuốc và ống nghiệm chứa chất lỏng không rõ là gì nữa. Sau cùng, tôi mở cánh tủ lạnh ngoài cùng, trên dưới để hai bình thủy tinh lớn cỡ két sắt mini, đựng chất lỏng màu xám. Nhìn kỹ thì thấy bập bềnh mấy thứ trông như miếng thịt. Tôi trân trối nhìn. Đến khi hiểu ra là cái gì, cơn buồn nôn trào lên.

Đó là não, những mẩu não người trắng toát, giống quả bóng cao su tả tơi. Cái hình thù đặc biệt đó, không thể nhầm đi đâu được.

Trên bình thủy tinh có dán nhãn giấy. Tôi kìm cơn cuồn cuộn ở dạ dày lại, chăm chú đọc. Thấy viết “Người hiến #2” bằng bút dạ.

Tôi nhìn sang bình còn lại. Cái này cũng thế, nhưng mẩu thịt lềnh bềnh bên trong khá nhỏ, nhãn ghi “Người nhận NJ”.

NJ?

Gì đây? Tôi nghĩ. Cùng lúc, chữ cái in hoa tên tôi hiện lên trong đầu. Chỉ tích tắc, ngực tôi cuộn lên. lần này không nhịn được nữa, tôi nôn tóe ra sàn.

Tôi đóng cửa tủ lạnh và tháo chạy khỏi căn phòng. Phóng xuống cầu thang, lao qua hành lang và trở về cái ổ được gọi là “Phòng bệnh đặc biệt” của mình. Tôi lăn ra giường nhưng mãi mà không ngủ nổi. Tôi thao thức nghĩ về mình và não của mình đến tận sáng.

NJ. NARUSE JUNICHI.

Cái mẩu thịt đó là não của tôi ư?

Nếu não tôi đang ở trong bình thủy tinh đó thì bây giờ, não trong đầu tôi rốt cuộc là của ai?

Sáng hôm sau, Tachibana đến sớm, bảo rằng tiến sĩ Dogen cho gọi tôi.

“Hình như là có chuyện quan trọng đấy ạ.” Khuôn mặt cô tươi cười đầy ngụ ý.

Chúng tôi ra hành lang, Tachibana im lặng bước đi. Tôi đành đi theo. Tachibana dừng chân trước phòng phân tích, đưa tay gõ cửa.

Giọng ông tiến sĩ vang lên, “Vào đi.”

Đây là lần đầu tiên tôi vào phòng phân tích. Phòng này không phải nơi tiến hành kiểm tra hay điều trị gì, mà là phòng xử lý dữ liệu thu thập bằng nhiều phương pháp. Máy tính và các thiết bị khác chiếm bảy phần căn phòng, ba phần còn lại đặt bàn và giá sách. Tiến sĩ Dogen đang hí hoáy viết ở chiếc bàn phía trong.

“Tôi xong ngay đây. Cậu ngồi đi, chờ tôi.” Ông vừa viết vừa nói.

Tôi nhìn quanh, thấy chiếc ghế gấp dựng cạnh tường thì mở ra, và ngồi xuống.

“Thưa thầy, còn em thì sao ạ?”

“À, em cứ ra đi.” Ông tiến sĩ trả lời.

Tôi quan sát căn phòng, xem có phát hiện ra thứ gì liên quan đến bản thân không. Nhưng chỉ thấy la liệt giấy với những con số chẳng rõ nghĩa dán trên tường, không có manh mối nào cả.

Tôi chờ đến gần mười phút, tiến sĩ lẩm bẩm, “Rồi, xong.” Sau đó ông cho các tài liệu đã viết vào một phong bì lớn màu nâu, cẩn thận dán miệng phong bì lại, mỉm cười nhìn tôi.

“Tài liệu tôi gửi cho bạn ở Mỹ, một người đàn ông đáng tin cậy, cố vấn tuyệt vời của tôi.”

“Tài liệu liên quan đến tôi sao?”

“Chuẩn đấy.” Ông xoay ghế lại phía tôi. “Cậu lại gần đây.”

Tôi nhấc ghế lên bằng cả hai tay, nhích đến trước mặt tiến sĩ trong khi mông vẫn dính vào ghế.

“Vậy,” ông xoa xoa tay. “Trước hết, tôi sẽ hỏi về mục đích của cậu. Ban đêm cậu muốn tìm gì hả?”

Tôi ngả người ra lưng tựa ghế, nhìn chằm chằm vào mặt ông, “Ông biết à?”

“Trước cửa tủ bảo quản lạnh có dấu vết của cậu.”

Là bãi nôn.

“Xin lỗi vì đã làm bẩn sàn.”

“Cậu xin lỗi Tachibana thì hơn. Người dọn dẹp là em ấy mà.”

“Tôi sẽ xin lỗi cô ấy.” Tôi gật đầu và ngồi nhích sát ra sau hơn. “Tôi rời khỏi phòng vì tôi khát, tôi muốn uống cà phê lon nên ra ngoài tìm máy bán hàng tự động.”

“Cà phê lon ư?” Ông tiến sĩ làm mặt hoài nghi.

“Vâng. Tự dưng đêm qua, không hiểu sao tôi muốn uống…”

“Hừm.” Tiến sĩ đan các ngón tay vào nhau, “Nhưng ở đây không có nhỉ?”

“Không có. Đừng nói máy bán hàng tự động, mà cái gì cũng… cả cửa ra cũng không.”

“Cửa ra?”

“Đúng vậy. Thang máy ngừng hoạt động, cửa cuốn chỗ cầu thang kéo kín còn cửa thoát hiểm bị cố định. Tại sao chúng đều rơi vào tình trạng đó? Tôi không hiểu.”

Tôi nói bằng giọng hết sức dữ dội, ông tiến sĩ cong môi lên như thể bối rối. Song chỉ tích tắc, ông đã lấy lại vẻ ôn hòa và nói như dỗ dành.

“Về chuyện này, cần giải thích từ từ, nói cho lớp lang. Nhưng mở đầu hơi khó. Thật ra sắp tới cũng sẽ phải nói với cậu hết, nhưng cụ thể là lúc nào thì cần cân nhắc.”

“Thôi được rồi.” Tôi giục. “Ông nói hết ra đi, từ khi bắt đầu. Tôi bị thương thế nào, tình trạng ra sao, và còn…” Tôi nuốt nước bọt rồi tiếp tục. “Não của tôi nữa…”

“Ừm,” tiến sĩ Dogen cúi xuống. Ông đan hai tay vào với nhau, rồi buông ra, và lại nhìn tôi, “Cậu mở xem tủ bảo quản rồi à?”

“Xem rồi.” Tôi trả lời. “Cả cái bình có chữ cái viết tắt NJ nữa.”

“Tôi đã bảo là đừng đặt chữ viết tắt đấy mà!” Tiến sĩ Dogen tặc lưỡi, “Cứ để người nhận là đủ, chứ NJ thì trên đời đâu còn ai ngoài cậu, phải không? Wakao chuyên đời tỉ mỉ đến quái đản.”

“Người nhận là sao?” Tôi hỏi, “Ông giải thích đi.”

Trong chừng hai giây, tiến sĩ Dogen như ngừng cử động. Sau đó ông giơ ngón tay trỏ, rồi vớ tờ báo vứt bừa trên bàn đưa cho tôi.

“Trước hết cậu hãy đọc cái này.”

Tôi nhận tờ báo và mở mục thể thao. Đây là thói quen.

Lâu rồi mới đọc chữ in nên mắt tôi bị lóa.

Đội bóng chày tôi thích đã thua rồi, chán thật, tôi cong môi.

“Không phải mục thể thao.” Ông tiến sĩ nhấc. “Trang nhất ấy.”

Tôi gấp tờ báo lại và nhìn trang nhất, đầu tiên tôi thấy một bài viết ngắn ở góc về sự bất ổn của giá cổ phiếu. Tiếp đến, mắt tôi từ từ di chuyển và dừng ở tấm ảnh lớn ngay giữa trang. Ảnh chụp ba người đàn ông trong buổi họp báo, đứng giữa là tiến sĩ Dogen. Bên trên ảnh là dòng tiêu đề lớn

CA CẤY GHÉP NÃO ĐÃ KẾT THÚC TỐT ĐẸP

Tôi đọc đi đọc lại cái tiêu đề, vừa nghiền ngẫm ý nghĩa của chữ “cấy ghép”, vừa ngẩng mặt lên hỏi, “Cấy ghép não ư?”

“Đúng đấy.” Tiến sĩ Dogen từ tốn gật đầu. “Cậu đọc cả nội dung bài viết đi.”

Tôi lại nhìn vào tờ báo lần nữa.

Toàn thân tôi nóng ran lên như thể máu trong người chảy ngược, tim đập nhanh và các mạch máu sau tai phập phồng.

“Anh A này là tôi à?”

Thay vì gật đầu, tiến sĩ chớp mắt.

“Cấy ghép? Não ai khác đã được cấy vào đây ư?” Tôi đưa hai tay ôm đầu.

“Đúng.”

“Thật khó tin.” Tôi rên rỉ. “Não mà cấy ghép được.”

“Không cần phải quan trọng hóa bộ não. Nó cũng tiến hóa từ các tế bào đơn giản qua năm tháng dài giống như thận hay tim thôi. Đối với tín đồ đạo Thiên chúa, tất cả đều là sản phẩm của Chúa.”

“Nhưng… não đặc biệt mà.”

“Nếu ví với máy móc thì nó là chiếc máy tính đấy. Bởi vì chúng ta có thể sửa chữa các bộ phận hư hỏng, và tùy vào từng trường hợp cũng có thể thay thế linh kiện, cậu là chuyên gia sửa chữa máy móc hỏng hóc đúng không? Nếu như bộ phận bị hỏng là quả tim thì nhất định người ta sẽ không bỏ cuộc dễ dàng. À không, nói trái tim thì hơi mơ hồ, nên nói là bộ phận trung tâm chăng?”

“Tôi nghĩ cấy ghép não là truyện khoa học viễn tưởng.”

“Gần đây khoa học viễn tưởng tiến xa hơn rồi đấy. Hơn nữa bản thân việc cấy ghép não cũng không còn là chuyện mới mẻ nữa. Năm 1917, một tiến sĩ tên Dean đã tuyên bố là ông sẽ thử tiến hành rồi. Năm 1976, người ta cấy ghép một phần não của chuột sơ sinh vào chuột trưởng thành, con chuột vẫn sống nhăn. Về sau còn nhiều ca phẫu thuật cấy ghép não dưới nhiều hình thức nữa. Tháng Năm năm 1982, Thụy Điển cấy ghép não người nhằm mục đích điều trị bệnh Parkinson.”

“Từ lâu như thế cơ à?” Tôi thực sự kinh ngạc.

“Nhưng chỉ ở mức rất đơn giản thôi, không phải là cấy ghép một phần não của người này vào đầu người kia, mà chỉ cấy ghép một phần tuyến thượng thận vào nhân đuôi của cùng một người. Dù không có kết quả gì nổi bật, nhưng cũng không phát sinh hậu quả gì dị thường và tình trạng bệnh nhân chuyển biến hơi khả quan. Từ đó, việc cấy ghép não cũng được nghiên cứu nhiều như một phương pháp chữa trị hội chứng Alzheimer hay hiện tượng lão hóa. Mới đây thôi, người ta đã thử tiến hành cấy ghép vào phần gọi là vùng vỏ não trước trán của bệnh nhân bị khuyết tật học vấn. Có vài ví dụ cho thấy việc chữa trị đã thành công. Việc này đã được xác thực bằng thí nghiệm trên chuột vào năm 1984 và tất nhiên cũng đã áp dụng trên người.”

“Nhưng mà ở đây,” tôi chỉ vào tờ báo. “Người ta bảo là lần đầu tiên trên thế giới.”

“Đúng là thế, nếu xét theo khía cạnh cấy ghép não người trưởng thành.” Tiến sĩ Dogen rút tập tài liệu để trên bàn và mở ra. “Trước đây người ta đều áp dụng phần não của bào thai cho việc cấy ghép, bởi giới học thuật cho rằng nếu tế bào thần kinh mất khả năng phân chia thì các dây thần kinh không thể kết nối một cách trơn tru. Quan điểm này không sai, nhưng theo rất nhiều nghiên cứu về sau, có thể thay bằng não người trưởng thành. Đây là một tin tốt vì thật ra có rất nhiều trường hợp người ta phải cấy ghép não.”

“Tôi là trường hợp đó phải không?”

“Đúng.” Tiến sĩ gật đầu. “Để giải thích tình trạng của cậu khi cậu được đưa đến đây nhé. Viên đạn đi vào từ mé phải sau đầu và đi ra mé phải trước đầu. Nói cách khác, nó xuyên thủng não cậu.”

Tôi nuốt nước bọt đánh ực. Ông tiến sĩ nói với vẻ mặt thản nhiên như bàn chuyện cơm bữa.

“Thú thật, tôi không nghĩ đến triển vọng cậu sẽ bình phục. Dù cứu được mạng cậu, nhưng chúng tôi phán đoán rằng có thể cậu sẽ không lấy lại được ý thức. Các bộ phận khác vẫn hoạt động tốt, vậy nên diễn đạt cho dễ hiểu, thì chúng tôi phán đoán rằng cậu sẽ sống thực vật.”

“Kinh khủng quá.”

“Nếu là tôi, ở hoàn cảnh đó, cậu cũng sẽ nghĩ như tôi thôi. Nhưng khi kiểm tra đầu cậu, tôi nhận thấy rằng nếu xảy ra kỳ tích, thì có khả năng cứu được. Kì tích chính là có bộ não tương thích với cậu được chuyển đến đây. Cũng có nghĩa tôi đã xác định, nếu được cấy ghép não, cậu có khả năng bình phục hoàn toàn.”

“Tức là vết thương của tôi không nặng lắm chứ gì?”

“Ai bảo!” Tiến sĩ Dogen trợn mắt. “Vết thương của cậu vô cùng nghiêm trọng. Tuy nhiên tôi đã thí nghiệm dạng tổn thương tương tự cậu lên động vật và kết quả cho thấy có khả năng cấy ghép.”

Thí nghiệm trên động vật… Nghĩa là chưa từng thử nghiệm lên người.

“Cho đến giờ chưa có bệnh nhân nào gặp tình trạng giống tôi sao?” Tôi hỏi thử.

“Không, có chứ. Tình trạng nào cũng có.”

“Thế mà chưa hề cấy ghép? Tại sao?”

“Điều kiện chưa cho phép.” Ông tiến sĩ nói với khuôn mặt cau có. “Ở những quốc gia chấp nhận cấy ghép não hiện nay, chỉ cần có cơ hội là họ sẵn sàng thực hiện luôn, nhưng các điều kiện vẫn mãi không đủ. Vì thế cho đến giờ chưa nơi nào làm được cả.”

“Điều kiện là gì?”

“Là người hiến. Nghĩa là người cung cấp não ấy. Rất khó lấy được bộ não tươi đúng lúc. Mà lấy được đi nữa thì còn phải xem tính tương thích.”

“Tính tương thích? Như là nhóm máu ư?”

“Nhóm máu chỉ là một phần. Chưa kể so với những yêu cầu khác thì nó tầm tầm như môn chạy vượt rào thấp thôi.” Tiến sĩ Dogen vừa nói vừa duỗi cánh tay phải ra trước. “Còn phải tính toán chi tiết đến mức độ các tế bào thần kinh cơ. Con người có rất nhiều loại tế bào thần kinh não, chúng lại còn mang tính cá biệt. Thậm chí có thể tuyên bố rằng trên thế giới này gần như không tồn tại hai người mang các tế bào thần kinh giống hệt nhau. Tính đến khả năng cấy ghép thì, chúng tôi nhận thấy rằng nếu đồng nhất ở 26 mục thì có thể nói là tương thích và không xuất hiện phản ứng đào thải. Tỷ lệ đạt được mức độ này là 1/100.000.”

“Một trăm nghìn người mới được một…” Tôi thở dài.

Tiến sĩ tiếp tục, “Tôi nghĩ kể cả không có một bộ não lý tưởng như vậy đi nữa thì vẫn có khả năng cấy ghép nếu đồng nhất được một nửa, tức là 13 mục. Trường hợp này thì phải phòng ngừa phản ứng đào thải. Nhưng tỉ lệ tìm ra đã cao hơn rồi, 1/200.”

Nghe thực tế hơn nhiều đấy! Nhưng mà, cứ hai trăm người đã có một người phù hợp thì trên thế giới phải đầy nhóc tiền lệ rồi chứ?

Ban nãy tiến sĩ Dogen nói rằng nếu xảy ra “kỳ tích”, tức là tìm thấy bộ não tương thích…

“Nghĩa là đã có một bộ não tương thích với tôi ư?”

“Đúng vậy. Hai tiếng trước khi cậu được chuyển tới, có một ca chết vì bệnh tim. Kiểm tra não người đó thì xuất hiện kỳ tích.”

“Chết tim… là não của người đã chết phải không?”

“Dĩ nhiên, đâu thể lấy não của người sống được.”

Đúng nhỉ.

“Thế tính tương thích đạt ở mức nào?”

Bác sĩ nhìn chăm chăm vào khuôn mặt tôi, ông hít một hơi thật sâu và nói, “Hai mươi sáu.”

“Sao cơ?”

“Hai mươi sáu đấy. Trùng khớp ở tất cả các hạng mục xác định khả năng cấy ghép, kỳ tích 1/100.000 đấy.”

Tôi không tìm được từ ngữ nào để đáp lại.

“Nói thật, đây là ca cấy ghép não người trường thành đầu tiên, chưa có tiền lệ, nên e rằng sẽ tốn ít nhiều thời gian cho mặt thủ tục. Ví dụ, người hiến tặng mới ngừng tim được vài tiếng mà đã moi não người ta ra, hành vi này liệu có được phê duyệt không? Phê duyệt rồi thì làm sao đem ghép được nếu chính chủ, tức là cậu, chưa cho phép? Hội đồng y đức khẩn cấp được thành lập. Tôi đã lo là ý kiến bảo thủ sẽ chiếm đa số. Song cuộc họp diễn ra cực kỳ chóng vánh, vì thực tế là chẳng còn cách nào khác để cứu cậu. Hơn nữa họ đều nhận thức được rõ ràng, rằng nếu không hành động thì chúng tôi sẽ đánh mất kỳ tích 1/100.000 kia. Hơn nữa đây còn là một là đề tài lớn mà lâu lắm rồi mới có ở Đại học Towa.”

“Là cuộc thí nghiệm vĩ đại phải không?” Tôi hỏi.

“Đúng rồi.” Tiến sĩ Dogen gật đầu phấn khởi.

Tôi lại vỗ khẽ lên đầu, bên trong cái đầu này là kết tinh của kỳ tích khó tin. Mà không, chính việc tôi ý thức được điều đó đã là kết tinh của kỳ tích rồi.

“Tôi nghĩ đêm qua cậu đã thấy hai bình thủy tinh trong tủ bảo quản. Lát cắt của mỗi bộ não nằm trong một bình đấy.”

“Ngâm trong chất lỏng như dung dịch nuôi cấy.”

“Đó là dung dịch bảo quản đặc biệt. Một thứ là não của người hiến tặng sau khi đã lấy đi phần cần cho cấy ghép. Thứ còn lại mẩu não đã bị hủy hoại của cậu. Tất cả đều tồn tại dưới dạng tiêu bản.”

Tôi lại thấy bứt rứt, nhưng không đến mức buồn nôn.

“Trên đây là mọi chuyện liên quan đến ca phẫu thuật của cậu. Cậu có câu hỏi nào không?”

Tôi khoanh tay và tìm kiếm sơ hở của ông tiến sĩ. Tôi đã lắng nghe và đã hiểu, nhưng dù thế nào đi nữa tôi vẫn không cảm thấy những chuyện vừa kể thực sự đã xảy ra với mình. Tiến sĩ Dogen nói rằng nó cũng giống việc thay linh kiện máy móc thôi, có thể nghĩ như thế thật ư?

“Dù muốn hỏi… cũng không biết nên bắt đầu hỏi từ đâu.” Tôi lắc đầu.

“Giả sử cậu bị bắn trúng tim, và được cấy ghép tim của một người khác, thì chắc cậu đã chấp nhận sự thật đó rồi. Tuy nhiên, như ban nãy tôi có nói, không cần phải quan trọng hóa bộ não.”

“Người hiến nhỉ… Tôi muốn biết về người đã cho tôi não.”

Nghe tôi nói, tiến sĩ Dogen nhíu mày, má phồng lên.

“Không được ư?”

“Trên nguyên tắc, điều này là tuyệt mật. Kể cả với gia đình của người hiến chúng tôi cũng không tiết lộ sẽ cấy ghép não cho ai. Tuy nhiên, nếu điều tra về những bệnh nhân được chở đến bệnh viện này hôm đó thì dễ dàng tra ra là ai thôi. Cậu nhất định muốn biết sao?”

“Não người ta giờ là một bộ phận của tôi, tôi muốn biết.”

Tiến sĩ Dogen xoa cằm như thể băn khoăn, rồi gõ nhẹ tay lên bàn.

“Được, song cấm tiết lộ ra ngoài đấy.”

“Tôi hiểu.”

Tiến sĩ Dogen lục túi áo lấy chìa khóa, tra vào ngăn kéo dưới cùng, ông rút ra một tờ giấy từ trong chồng tài liệu dày, mở soạt ra và đưa cho tôi.

Đầu trang viết tên Sekiya Tokio. 22 tuổi. Sinh viên. Bố mẹ vẫn còn sống khỏe mạnh.

“Cậu ấy gặp tai nạn giao thông, bị kẹp giữa xe và tòa nhà. Chuyển tới bệnh viện thì tắt thở. Liên lạc với gia quyến mới biết cậu ấy đăng ký làm người hiến tạng, có nghĩa đã chỉ định sẵn rằng sau khi mình mất đi thì sẽ hiến nội tạng hoặc một số bộ phận cơ thể cho các cuộc cấy ghép. Chúng tôi bèn kiểm tra tính tương thích của bộ não cậu ấy với cậu.”

Tôi thở dài. Cứ nghĩ bản thân đã gặp may hết lần này đến lần khác, tự nhiên trong người tràn đầy sức lực. “Tôi muốn đến thăm phần mộ của người này. Muốn nói lời cảm ơn.”

Nhưng tiến sĩ Dogen lắc đầu, “Cậu không nên làm thế. Việc cấy ghép não tiềm ẩn nhiều vấn đề lắm, như tảng băng trôi vậy. Một trong các vấn đề đó là: cá nhân là gì? Từ giờ cho đến khi làm sáng tỏ – mặc dù tôi nghĩ có lẽ hết thế kỉ này vẫn chưa làm sáng tỏ được đâu – cậu không nên điều tra về người chủ cũ của bộ não.”

“Cá nhân là gì ư?”

“Đến một lúc nào đó cậu sẽ hiểu.” Tiến sĩ nói. “Tôi nghĩ rằng lúc đọc báo cậu cũng biết rồi, người ta không hề công bố tên của cậu. Việc này đã được thống nhất với truyền thông, cho đến khi chúng ta hiểu đúng về việc cấy ghép não.”

“Có phần nào đang bị hiểu nhầm ư?”

“Có nên nói là hiểu nhầm không nhỉ?” Tiến sĩ Dogen tránh ánh mắt tôi, giọng ngắc ngứ, “Nếu hiểu nhầm toàn bộ thì đã chẳng sao. Ví dụ, người ta có thể nghĩ con người có linh hồn…”

“Linh hồn? Vậy là có thế giới sau khi chết?”

Tôi khẽ mỉm cười nhưng tiến sĩ Dogen thì trái lại, ông nghiêm mặt.

“Không phải nói chơi đâu. Rất nhiều người trên đời tin vào sự tồn tại của linh hồn và ảnh hưởng của nó đến thể xác đấy. Thế nhưng những người nghĩ như thế lại không phản đối gay gắt việc cấy ghép não, vì họ tin não bộ cũng nằm dưới sự chi phối của linh hồn.”

“Chính là một phần thể xác muốn ra sao thì ra phải không?”

“Là vậy đấy, nhưng thật ra linh hồn cũng chỉ là ảo giác thôi. Mấu chốt vấn đề là ở đây.” Tiến sĩ nhìn tôi và hắng giọng. “Không, giải thích việc này sẽ dài dòng lắm và chắc cậu cũng chưa chuẩn bị sẵn sàng.”

“Tôi là người bình tĩnh dù nghe bất cứ chuyện gì. Ông cứ nói đi.”

“Đến đúng thời điểm tôi sẽ nói, chứ nói bây giờ chỉ khiến cậu rối beng. Tuy nhiên, mong cậu hiểu cho rằng, vấn đề cần giải quyết rất nhiều, và ai cấy não ai chưa phải là vấn đề cấp thiết.”

Giọng tiến sĩ trở nên gắt gỏng, khiến tôi bất bình, nhưng tôi không khăng khăng truy hỏi nữa.

“Chúng tôi cấm truyền thông tiếp xúc với cậu, bù lại sẽ cung cấp định kỳ các thông tin như mức độ hồi phục của cậu sau phẫu thuật. Nhưng có đâu như hai người phớt lờ thỏa thuận đó và cố tìm cách lẻn vào đây đấy.”

“Vậy nên ông mới phong tỏa lối ra vào phải không?”

“Mục đích không phải là giam giữ cậu.”

Tôi gật đầu và trả lại tập tài liệu về người hiến não, “Nhân tiện, trên báo có viết về đội ngũ cộng sự, còn có các bác sĩ khác ư?”

“Họ từ các trường đại học khác đến hỗ trợ. Chứ trường này thì chỉ có ba người chúng tôi thôi.”

“Vậy nhờ ông chuyển lời đến các bác sĩ khác giúp tôi, cảm ơn họ rất nhiều.”

“Chắc chắn tôi sẽ chuyển lời.” Ông tiến sĩ nheo mất, làm hằn lên vô số vết chân chim. “Cậu còn gì muốn hỏi không?”

“Một câu cuối cùng,” tôi nói. “Kết quả ca phẫu thuật thế nào? Có thể nói là thành công không?”

Ông tiến sĩ thư thả ngả người ra ghế, nói đầy tự tin, “Về điểm này, cậu phải là người hiểu rõ nhất mới đúng chứ.”

Nhịp sống buồn chán kéo dài nhiều tuần liền. Tôi phải tiếp nhận cơ man nào là bài kiểm tra và trắc nghiệm. Tiến sĩ Dogen cùng hai trợ lý chẳng tiết lộ điều gì.

Rốt cuộc tình trạng hồi phục của tôi ra sao?

Mỗi khi thay băng tôi đều soi gương nhìn vết sẹo súng bắn, ít nhất bên ngoài đang dần dần khôi phục như cũ. Nghe nói là thuật chỉnh hình đã có những bước tiến xa.

Dạo này, hễ ngủ dậy là tôi lại thấy mình tràn trề sinh lực. Cơ thể tôi khỏe mạnh, phải chăng tâm trí cũng hồi phục tương ứng rồi? Tôi đoán là ca phẫu thuật cấy ghép não đã mang đến những kết quả bất ngờ, song tiến sĩ Dogen lại không nghĩ thế.

“Tầm nào tôi được ra viện?” Tôi hỏi Tachibana sau bữa ăn trưa. Gần đây nó đã trở thành câu cửa miệng của tôi.

“Sắp rồi.” Tachibana trả lời. Đây chắc chắn là câu cửa miệng của cô ấy, nhưng câu tiếp theo lại khác hẳn mọi lần. “Tuy nhiên, hôm nay anh có quà đấy.”

“Quà ư?”

Hai tay bưng cái khay xếp đầy bát đũa, Tachibana nhìn tôi, tủm tỉm cười, bước lùi ra sau. Rồi cô đến bên cạnh cửa và nói, “Cô vào được rồi đấy.”

Cánh cửa từ từ mở ra. Tôi nhìn thấy một cánh tay mảnh dẻ.

A! Tôi bật thốt.

Người có cánh tay mảnh dẻ ló mặt vào. Tóc ngắn, và cả những đốm tàn nhang trên mũi, trông vẫn y như trước kia.

“ Hi, ” Megumi nói. “Anh sao rồi?”

Bắt chước kiểu nói của ông tiến sĩ và Wakao thì, vùng vận động ngôn ngữ thùy trán của tôi gặp trục trặc hả? Tôi không thốt nên lời, cứ mấp máy môi rồi nhìn Tachibana.

“Kể từ hôm nay hai người có thể gặp nhau.” Tachibana nói. “Tuy nhiên, cánh nhà báo thì khác nhé. Người đầu tiên tôi báo tin là cô Megumi đấy.”

“Cho tôi biết trước có phải hơn không!” Cuối cùng tôi cũng xoay xở lên tiếng được.

“Động cơ đơn thuần là khiến anh bất ngờ mà. Lâu nay nhàm chán đủ quá rồi còn gì?” Tachibana nháy mắt. “Vậy, hai người cứ thong thả nhé.” Cô đi ra, đóng cửa lại.

Tôi và Megumi im lặng, đăm đắm nhìn nhau. Chẳng có lấy một lời phù hợp. Quả nhiên vùng ngôn ngữ của tôi đang bị làm sao rồi!

“Meg…”

Tôi vừa mở lời, Megumi đã ùa tới, đôi cánh tay dài choàng lấy cổ tôi. Tôi ghé lại gần khuôn mặt tàn nhang, ghì chặt tấm thân mảnh khảnh của em và hôn ngấu nghiến đến mức phát khó thở.

Sau khi buông tôi ra, Megumi sụp xuống sàn nhà, kéo tay tôi lại áp lên má mình.

“Thật tốt quá, quả thật anh còn sống!” Người em run lẩy bẩy.

“Sống mà, em biết anh được cứu mà, phải không?”

“Dạ, nhưng em không thể nào tin nổi. Tại vết thương nghiêm trọng quá.”

“Em biết anh bị bắn vào đầu khi nào vậy?”

“Ở chỗ làm thêm. Usui báo cho em.”

Usui là cậu sinh viên sống bên cạnh phòng tôi. Chúng tôi thường đi uống với nhau, cũng gọi là có chút thân thiết.

“Chắc em hoảng lắm nhỉ?”

“Tưởng sắp chết luôn. Em ấy! Tim em như ngừng đập vì sốc.”

“Nghe nói ngày nào em cũng đến?”

“Bởi vì…” Megumi áp chặt tay tôi vào má hơn. “Em lo lắm, em hầu như không ngủ được. Người của bệnh viện báo cho em rằng anh bình an vô sự, đã được cứu chữa rồi, nhưng vì không tận mất thấy nên em không an tâm. Thành ra khi nhận thư và ảnh của Jun, em mừng phát khóc.”

Tôi ôm Megumi và hôn em thật lâu lần nữa. Khi dứt ra, tôi nhìn vào mắt em và hỏi, “Tại sao họ lại cứu anh? Họ làm phẫu thuật gì cho anh? Những chuyện đó Meg biết không?”

“Dĩ nhiên em biết.” Megumi chớp mắt và khẽ gật đầu, em chăm chú nhìn vào mắt trái, rồi mắt phải tôi. “Jun được đưa đến viện này, sau đó người ta tiến hành cuộc đại phẫu não đầu tiên trên thế giới. Trên báo người ta chỉ nói là anh A ở công ty nào đó thôi nhưng em nghĩ những người biết Jun bị bắn có thể đoán ra. Nhưng thời điểm được thông báo chính thức là khi nhận được thư của Jun kia, một anh tên là Wakao nói em biết.”

“Phải đến lúc đó họ mới chính thức báo cho em à?”

“Anh ấy bảo quy định là không báo cho ai khác ngoài người thân. Vì Jun không còn ai thân thích nên họ phá lệ báo cho em. Đúng là người tốt anh nhỉ? Anh Wakao ấy.”

“Có điều anh hơi lo lắng.” Tôi thoáng cười, rồi rẽ tóc mái Megumi, rờ rẫm chân mày đẹp đẽ của em. “Trong đầu anh bây giờ, lắp linh kiện của người khác.”

“Không thể tin được.”

“Kinh lắm hả em?”

Megumi nhắm mắt lại và lắc đầu. Mái tóc ngắn màu nâu đậm của em lắc lư như bộ lông của một con chim nhỏ.

“Em nghĩ thật kỳ diệu, anh sẽ tiếp tục sống cuộc đời của hai người.”

“Nếu nói theo cách đó thì anh thấy nặng gánh lắm đấy.”

“Nhưng…” Megumi nhìn vào mắt tôi. “Anh cảm thấy thế nào? Đến giờ anh có cảm thấy điều gì thay đổi không?”

“Không có em ạ. Chẳng có gì thay đổi cả.”

“Ừm…” Megumi nghiêng đầu, làm vẻ mặt là lạ.

“Những người khác thì sao em? Ông chủ Shindoko thì sao?”

Shindoko là tiệm họa cụ mà Megumi đang làm việc, tôi đã quen ông chủ tiệm có bộ râu kẽm ấy khoảng bốn năm rồi.

“Chú lo lắm, nhưng mà cũng phấn khích nữa.”

“Phấn khích ư? Thấy anh phải chịu tội tình này mà còn phấn khích?!”

“Đúng đấy anh nhỉ, nói phấn khích không phù hợp. Nhưng mà nói cách khác nhé, tên của Jun không được công bố trực tiếp, nhưng Jun đã thành người nổi tiếng khắp thế giới rồi chẳng phải sao? Gần gũi thân quen với người như thế nên mới phấn khích.”

Ha ha!

Tâm lý đó tôi cũng có phần tưởng tượng ra được. Đặt vào trường hợp chú, có khi tôi cũng mang cảm giác tương tự thôi.

“Quên bẵng mất,” Megumi cầm cái túi giấy dưới sàn lên. “Em nghĩ chắc anh thấy chán nên xách ở tiệm đi. Tại em chẳng có thời gian để mua bó hoa nữa.”

Trong túi giấy là một cuốn sổ phác họa lớn. Tôi thốt lên, “Tuyệt vời quá! Em đã mang đúng thứ anh muốn nhất bây giờ rồi đấy.”

“Không biết đến khi xuất viện anh sẽ vẽ được mấy tờ nhỉ?”

“Anh sẽ vẽ hết trước khi ra viện. Thực sự cảm ơn em.” Tôi vừa nói vừa vuốt vuốt mặt giấy trắng, cứ như thể làm thế thì các hình ảnh sẽ nhanh chóng hiện lên vậy.

Sau đó, tôi kể cho Megumi nghe về cuộc sống trong bệnh viện. Tôi kể về việc tìm thấy mẩu não lúc nửa đêm, em nín thở lắng nghe.

“Không thể nào, đã giờ này rồi.” Chuyện đang đến hồi gay cấn thì Megumi nhìn đồng hồ đeo tay, mắt mở to. “Em đang trong giờ làm việc.”

“Em bỏ tiệm đấy mà đi sao?”

“Tại tự nhiên có điện thoại. Người ta bảo gặp anh được rồi nên em cứ thế đi ngay mà chẳng nhắn nhủ lại gì.” Vẫn cầm tay tôi, Megumi đứng dậy, áp tay tôi vào ngực. “Em vẫn còn hồi hộp, cứ như mơ đây.”

“Anh vẫn sống.” Tôi đắm đuối nhìn em và dõng dạc nói. “Không phải là lúc thập tử nhất sinh nữa, có rất nhiều việc anh muốn làm.”

“Dạ,” Megumi nhẹ nhàng hạ tay tôi xuống như hạ một thứ quý giá dễ vỡ. Rồi lại ngước mắt nhìn tôi, “Jun này, anh có vẻ đáng tin cậy hơn trước đấy.”

“Ồ!” Trước câu nói không ngờ đến, tôi cười ngại ngùng. “Thật ra, bây giờ tâm trạng của anh rất tốt, cảm giác như thể tái sinh.”

“Vừa trông thấy anh là em thấy thế luôn rồi, thì ra không phải em tưởng tượng.” Megumi vui vẻ ra mặt. “Ngày mai em lại đến.”

“Anh sẽ chờ em.” Tôi nói.

Megumi ra về. Còn lại một mình, tôi bất giác ngâm nga nho nhỏ.

Ngày thứ ba kể từ khi được phép thăm bệnh, cậu đồng nghiệp làm cùng nhà máy tên là Kasai Saburo đến. Vừa vào phòng, Kasai đã nói liền tù tì.

“Gì thế này, chẳng phải quá ổn sao? Phòng thì y như khách sạn. Lo lắng cho cậu đúng là bằng thừa.”

Chúng tôi vào làm cùng đợt với nhau, nhưng Kasai là một chàng trai hoạt bát khác hẳn tôi.

Tôi nói xin lỗi vì đã làm phiền mọi người, rồi hỏi thăm, “Tình hình chỗ làm ra sao? Có gì thay đổi không?”

Kasai nhăn nhó gãi cằm, “Vẫn y nguyên, chẳng có gì thay đổi cả.”

“Vậy ư? Mới một thời gian ngắn nhỉ! Khó mà thay đổi được.”

“Anh Sakai đang nói xấu công ty. Anh ấy cứ lải nhải suốt, đại loại ‘Tôi sắp bị sa thải khỏi cái nhà máy này rồi. Lúc đó tôi sẽ tẩn tay giám đốc một trận.’ So với bọn mình thì anh ấy chẳng làm công việc gì quan trọng, suy nghĩ cũng không được thông suốt. Toàn làm mình làm mẩy và vờ vịt về chuyện động lực làm việc thôi.”

“Ra thế! Đúng là không khí vẫn như trước đây.” Tôi thở dài.

Sự bất tín nhiệm của chúng tôi với cấp trên leo thang từ khoảng năm ngoái, ban đầu là với giám đốc nhà máy. Trước thời điểm đó mọi chuyện vẫn chỉ âm ỉ và chưa có đối đầu trực diện. Giọt nước tràn ly là khi loại máy bán ra có trục trặc về nguồn điện, đáng lẽ phải thu hồi, nhưng nhà máy không công bố gì về lỗi này và cứ im ỉm bán. Chúng tôi được chỉ thị giữ mồm giữ miệng, rồi cứ quay mòng mòng ngày này qua ngày khác để sửa chữa cho khách. Rốt cuộc chúng tôi cũng chữa được, nhưng vẫn có những điểm không sao hiểu nổi. Nỗi nghi ngờ mỗi lúc một sâu sắc.

Nguồn điện có vấn đề là do một bên thứ ba cung cấp. Tôi ngờ rằng trong số cấp trên của chúng tôi có người móc ngoặc với bên này. Đây không đơn thuần là đoán mò, vì ngày trước đã vài lần xảy ra tình huống tương tự, lần nào rắc rối cũng bắt chúng tôi phải đi dọn dẹp.

Tình trạng này tất nhiên sẽ dẫn đến phản kháng, mà điển hình là mọi người lục tục nghỉ việc, đặc biệt là những người trẻ.

Một số tạm thời chưa nghỉ, thu mình chờ thời. Anh Sakai có lẽ nằm trong số này.

Những người còn lại chia thành hai nhóm rõ ràng. Một là không muốn nghỉ việc, nhưng không còn tinh thần cống hiến nữa. Một là im lặng chịu đựng mà làm việc bất chấp tình hình, nhóm này là những người đã vay tiền nhà máy để mua nhà.

Tôi thuộc nhóm sau dù chẳng hề vay mượn. Dù cũng phẫn nộ với cấp trên như mọi người thôi, nhưng tôi không đủ can đảm bộc lộ thái độ. Không chỉ bởi nhà máy đã hỗ trợ từ hồi tôi học ở trường dạy nghề, mà còn bởi tôi chẳng nghĩ ra được con đường nào khác. Vì thế, tôi bị gọi là “kẻ ba phải”.

“Này Jun, ghi điểm với sếp thì cũng được thôi, nhưng đừng có làm gián điệp đấy.”

Những lúc nghỉ giải lao, một vài đàn anh nói xấu cấp trên thường lại gần hăm he tôi như thế. Chắc là tại tôi không vô tụ nói xấu mà toàn im lặng nghe ngóng.

Một tiền bối từng hỏi tôi rằng, không lẽ tôi không có chút bất mãn nào?

Chính xác thì tôi đã nghĩ cái gì nhỉ?

Có phải tôi đã nghĩ rằng “sao cũng được” không?

Dù không bất mãn nhưng tôi không hề nghĩ “sao cũng được”. Tôi đã từng cân nhắc xem mình có thể làm gì để rồi sau đó lại tiếp tục cảm thấy mình vô dụng. Kết cục là mỗi ngày đều lặp đi lặp lại y chang nhau.

“Nhưng không thể như thế được.”

Tôi đột nhiên thốt lên làm Kasai ngơ ngác, “Gì cơ?”

“Việc ở nhà máy ấy, không thể cứ như bây giờ được.”

“Gì thế cái cậu này. Tớ đang tám chuyện phim ảnh thì cậu lại nhảy độp về chủ đề lúc nãy hả?” Kasai cười méo mó, nhưng sau câu nói như thể bị sốc ấy, cậu lấy lại vẻ nghiêm túc. “Đúng đấy. Cứ thế này thì không được, càng ngày càng quái lạ.”

“Chúng ta không thể làm gì sao?”

“Kiện vượt cấp chăng? Nhà máy chỉ lớn chừng đó, chẳng biết kiện đi đâu? Và đã muốn kiện thì cũng chuẩn bị tâm lý ăn trù dập đi.”

“Chặt đứt cội rễ của điều xấu là rất quan trọng, nhưng tớ nghĩ đầu tiên chúng ta nên cải thiện chính bản thân mình, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng. Chỉ vì cấp trên hành xử bất chính mà chúng ta cũng làm ăn mèo mửa gà đồng thì có khác gì họ đâu.”

“Ừ đúng, nhưng mãi mà chẳng làm được…”

Tôi lắc đầu, “Đừng ngụy biện.”

“Ừ, đúng, chẳng hay ho gì cái vụ ngụy biện.”

“Đầu tiên phải đoàn kết, làm những việc cần làm. Sau đó tìm cơ hội thích hợp đưa ra yêu cầu của mình.”

“Kiểu công đoàn phải không? Nhưng công đoàn của chúng ta quá hèn nhát.”

“Nếu họ chịu làm theo các bước như trên thì sẽ không thua các sếp đâu.”

“Đúng thế.” Kasai cười xong, bỗng như nhận ra điều gì. “Ờ mà, Jun này, cậu thực sự là Jun sao?”

“Nói nhảm! Không phải Jun thì là ai?”

“Thì, cứ như là tớ đang nói chuyện với một ai khác ấy. Không thể tin nổi những lời đó lại được thốt ra từ miệng cậu.”

“Từ lúc vào viện, tớ đã suy nghĩ kỹ càng về rất nhiều thứ. Tớ nhìn lại mình của quá khứ và cảm thấy xấu hổ. Rồi không hiểu sao lại rất ưng ý với mình của hiện tại.”

“Chủ nghĩa xét lại trong truyền thuyết đấy hả? Có khi tớ cũng phải nhập viện xem sao.” Kasai nhìn đồng hồ treo tường rồi đứng dậy. “Thôi, tớ đi đây.”

“Đoàn kết nhé.” Tôi vung nắm tay với cậu.

Ra đến cửa, Kasai quay người lại và nhún vai, “Tớ mà kể với mọi người chuyện này chắc chẳng ai tin đâu.”

Tôi nháy mắt với cậu ta.

Tối hôm ấy cảnh sát đến. Tôi đang mở cuốn phác họa Megumi cho, vừa vẽ vừa nhớ lại khuôn mặt tươi cười của em thì Tachibana vào thông báo.

“Nếu anh không thích thì có thể từ chối gặp hôm nay. Giả dụ chưa đủ thoải mái…”

Mặc dù rất cảm kích sự quan tâm của cô, nhưng tôi lắc đầu cắt ngang.

“Đúng là việc tôi chẳng muốn nhớ đến, song tôi nghĩ mình phải giải quyết thôi. Cô mời anh ta vào đi.”

Tachibana chăm chú nhìn như muốn xác định trạng thái tinh thần tôi, rồi gật đầu áng chừng đã hiểu, và biến mất ngoài cửa.

Vài phút sau, tiếng gõ cửa vang lên.

“Mời vào!”

“Tôi xin phép.”

Sau giọng nói hơi khàn, cánh cửa mở ra. Một người đàn ông tầm 35 tuổi bước vào, cơ thể rắn chắc như vận động viên bóng chày chuyên nghiệp, gương mặt ngăm đen toát ra vẻ bụi bặm.

Anh ta quan sát kỹ càng khắp phòng bệnh rồi mới dừng mắt ở tôi, cảm giác như thể nhìn đồ vật.

“Tôi là Kurata ở Phòng 1⦾.”

← Tên gọi tắt phòng chuyên trách hung án của cảnh sát hình sự Nhật Bản. Ngoài Phòng 1 (điều tra các vụ giết người, cướp của, hành hung, cưỡng dâm, bắt cóc…), còn Phòng 2 (phòng chống tội phạm kinh tế và công nghệ cao), Phòng 3 (quản lý hành chính trật tự xã hội), Phòng 4 (phòng chống tội phạm băng đảng)…

Người đàn ông trao tấm danh thiếp, tôi đón lấy và để ý thấy ngoài phần nội dung in sẵn còn có ngày tháng hôm nay viết bằng bút bi ở một góc. Chắc là để nếu kẻ xấu lấy dùng bừa, anh ta có thể kiểm tra được đường đi của nó. Cảnh giác đúng là bệnh nghề nghiệp của họ.

“Trông cậu khỏe đấy, sắc mặt cũng tốt nữa.” Anh ta thân mật nói.

“Cảm ơn anh.” Tôi nhường cho anh ta cái ghế gấp mình đã ngồi rồi ngồi lên giường.

“Ừ, cảm ơn cậu.” Vừa cảm ơn anh ta vừa ngồi xuống. “Tôi còn tưởng cậu ngủ rồi, ấy thế mà lại chưa.” Anh ta nhìn chiếc bàn thép bên cửa sổ, nơi có cuốn sổ phác thảo vẫn đang để mở.

“Vì tôi nhập viện không phải do đau yếu nội tạng hay gãy xương gì cả.”

“Ừ.” Thanh tra Kurata gật đầu. “Nhưng dù sao cũng là cái vận đen đủi.” Khuôn mặt anh ta trở nên nghiêm túc.

“Cứ như cơn mộng vậy,” tôi nói, “Ác mộng, tất nhiên.”

“Cô gái phụ trách ở đây – cô Tachibana nhỉ? – kể với tôi rằng cậu gần như chẳng biết gì về vụ việc.”

“Tôi nghe bảo hung thủ chết rồi, nhưng chi tiết thì không rõ. Tôi đã được phép đọc báo nhưng cũng chỉ là báo ra bây giờ thôi.”

“Cậu chịu khổ nhiều rồi.” Thanh tra Kurata liếc đầu tôi. Băng đã tháo ra nhưng vết sẹo vẫn chưa biến mất.

“Tất nhiên cảnh sát các anh biết tôi đã được phẫu thuật như thế nào phải không ạ?”

Nghe tôi hỏi, anh ta đâm ra bối rối.

“Chỉ những người liên quan đến việc điều tra thôi. Chúng tôi được chỉ thị phải giữ bí mật.”

Tôi cười gượng. Có lẽ rất ít người không muốn đả động đến một chủ đề thú vị thế này.

“Tôi có nghe là ký ức của cậu không ảnh hưởng. Cậu nhớ được gì về vụ án?”

“Tôi nhớ rõ đến đoạn bị bắn.”

“Thế cũng được. Kể cho tôi nghe chi tiết đến đoạn cậu nhớ ra đi!” Thanh tra vắt chân và lấy sổ bút để ghi chép.

Dù từ lúc tỉnh dậy tôi chưa hồi tưởng được bao nhiêu về tình huống lúc ấy, nhưng tôi vẫn cố gắng tường thuật một cách chính xác hết mức có thể, đặc biệt là đoạn cô bé cố thoát ra khỏi cửa sổ khiến tên tội phạm chú ý đến và nổ súng.

Nghe xong, thanh tra Kurata trông vừa ngạc nhiên vừa thỏa mãn.

“Những gì cậu kể đại khái là giống lời khai của những người khác. Dĩ nhiên tường thuật của cậu là chính xác nhất rồi. Giỏi thật đấy! Dù sao thì cậu cũng đã bị bắn vào đầu và tiến hành phẫu thuật rất phức tạp mà.”

“Cảm ơn anh.”

“Không, người phải nói lời cảm ơn là tôi. Nhờ cậu mà tôi hoàn thành được báo cáo đấy. Nghe nói cậu có khả năng khôi phục ý thức nên tôi vẫn để trống đoạn này bấy nay.” Thanh tra Kurata vừa nói vừa nhét sổ vào túi áo com lê.

“Tôi có thể hỏi anh một chút được không?”

“Được chứ, cậu cứ hỏi đi.”

“Tên đàn ông đó rốt cuộc là kẻ như thế nào? Tại sao hắn lại tấn công một nơi như văn phòng bất động sản?”

Thanh tra khoanh tay, nhìn trần nhà và bĩu môi dưới.

“Tên hắn là Kyogoku Shunsuke,” anh ta giơ ngón tay vạch chữ vào khoảng không. “Nếu nói kỹ về quá trình dẫn đến hành vi phạm tội của hắn thì dài dòng văn tự lắm nên tóm gọn đơn giản. Hắn muốn trả thù.”

“Trả thù? Trả thù ai?”

“Một là người cha, hai nữa là xã hội.”

“Cha? Ông ta thì liên quan gì đến cái văn phòng đó?”

“Banba Tetsuo, giám đốc công ty bất động sản, là cha Kyogoku, nhưng không cho hắn nhập hộ khẩu, ông ta thừa nhận có quan hệ với bà mẹ song một mực phủ nhận quan hệ với thằng con, và chưa bao giờ hỗ trợ gì hắn hết. Bà mẹ bị cảm chết vào năm ngoái. Chắc lúc đó Shunsuke đã quyết định trả thù.”

“Bị cảm chết?” Tôi tưởng mình nghe nhầm.

“Hình như bà mẹ bị yếu tim. Shunsuke đã nhiều lần cầu xin ông Banba cho hắn tiền phẫu thuật nhưng rốt cuộc đều bị ông ta phớt lờ.”

Tôi thấy lạnh sống lưng. Tôi bị súng lục bắn vào đầu mà vẫn sống nhăn răng, trong khi trên đời lại có những người chết vì bị cảm.

“Mẹ chết rồi, đứa con thi thoảng vẫn lởn vởn quanh giám đốc Banba. Tôi đoán chắc là hắn tìm cơ hội trả thù. Hắn đánh hơi thấy công ty đó đang gom một mớ tiền lớn nên nghĩ đến việc cướp nó.”

“Nhưng mẹ hắn đã mất rồi đúng không? Giờ có trấn lột đi chăng nữa…”

“Thế nên mới là trả thù đấy.” Thanh tra Kurata cười và nheo mắt. “Nhưng đối với ông Banba thì dù có mất 200 triệu yên chăng nữa ông ta cũng chẳng khổ đau mấy đâu, vì nó không thấm tháp gì so với tiền thuế ông ta gian lận hằng năm.”

Tôi thấy ngực thắt lại như có dị vật trồi lên.

“Dù sao nghe cũng thấy đáng thương!”

“Đáng thương thật chứ.” Thanh tra nói. “Trên đời có nhiều người gặp những cảnh ngộ thật đau buồn. Họ vừa nổi giận với số phận vừa biến đau buồn thành năng lượng để sống. Hắn ta, cái thằng Shunsuke này, đúng là tội nghiệp nhỉ? À, nghe nói cậu cũng không còn bố mẹ.”

“Hai cụ qua đời từ hồi tôi còn cắp sách.”

Viên thanh tra gật đầu, “Dù có một mình, cậu cũng đã sống đường hoàng, lại còn hy sinh thân mình cứu em bé. Tôi nghĩ cảnh ngộ chẳng liên quan gì sất, so với người như cậu thì Shunsuke chẳng đáng xách dép, hắn nên chết đi thì hơn.”

“Nghe nói hắn chết rồi mà hả?”

“Trên tầng thượng trung tâm thương mại.”

“Tầng thượng ư?” Tôi thốt lên.

“Sau khi bắn cậu, Shunsuke cướp tiền rồi trốn khỏi văn phòng bất động sản. Hắn giơ súng dọa nạt để mở đường xuyên qua đám đông đang tụ tập xem náo nhiệt. Sau đó lên ô tô, nhưng cảnh sát đã bủa lưới khắp khu phố nên hắn không thoát nổi. Đoạn tiếp theo cậu hình dung được đúng không? Cảnh sát thu hẹp vòng vây và hắn cùng đường.”

Tôi nhận thấy ánh mắt thanh tra lấp lánh hơn lúc nãy, chắc hẳn anh ta rất tự hào vì sự linh hoạt của cảnh sát.

“Giữa chừng Shunsuke vứt xe và chạy như bay vào cửa hàng bách hóa Marubishi. Có rất nhiều người nhìn thấy nên đã báo cho đội truy nã. Shunsuke uy hiếp cô gái điều khiển thang máy và đi thẳng lên tầng thượng.”

“Tại sao hắn lại lên tầng thượng?”

“Đội truy nã cũng thắc mắc tương tự trong lúc lùng bắt hắn. Lên đến nơi thì câu hỏi đã được giải đáp, hắn trèo qua lan can và rải tiền xuống.”

“Từ tầng thượng ư?” Tôi mở to mắt. “Để làm gì?”

“Thì, chỉ hắn mới biết tại sao. Có lẽ đó là một phần trong cuộc báo thù hoặc đơn thuần chỉ là gây rối loạn thêm. Quả nhiên người ta xúm xít ở chân tòa nhà y như kiến bâu đường ấy. Mặc dù cảnh sát ra sức thu hồi nhưng quá nửa số tiền đã thất thoát.”

Cảnh tượng như hiện lên trước mắt tôi.

“Qua đó đủ thấy hắn không có ý định bỏ trốn phải không?”

“Có vẻ thế. Khi cảnh sát đến gần, Shunsuke giơ súng đe dọa họ, đồng thời rải tiền xuống. Rải hết, hắn buông mình khỏi lan can.” Thanh tra Kurata tạo dáng khẩu súng bằng ngón trỏ và ngón cái, gí vào ngực mình làm động tác bóp cò. “Phát đó trúng tim và hắn chết ngay lập tức. Theo lời cảnh sát có mặt tại hiện trường, trước khi nhả đạn Shunsuke đã cười, họ bảo là trông mà sởn gai ốc.”

Tôi có thể tưởng tượng được biểu cảm đó. Hắn vừa cười vừa nhìn người ta một cách trống rỗng bằng cặp mắt đục ngầu như mắt cá chết.

“Còn thương vong nào khác không?”

“May mắn là… Xin lỗi, tôi biết dùng từ này rất bất lịch sự… Nhưng may mắn là chỉ có cậu và công ty bất động sản chịu thiệt hại thôi. Hung thủ đã chết nên vụ án được xử lý theo hướng không khởi tố. Thật tình, tôi chẳng biết nói gì hơn rằng tôi rất tiếc.” Thanh tra Kurata cắn nhẹ môi dưới và lắc đầu.

“Tiền bồi thường thì sao?”

“Cậu biết đấy, kẻ gây tổn thất chẳng còn trên đời nữa. Chúng tôi cũng muốn yêu cầu phía công ty bất động sản, nhưng ông Banba đã đủ nổi điên vì thiệt hại lần này rồi.”

Viên thanh tra lộ vẻ thông cảm, nhưng thật ra tôi hỏi không phải vì muốn đòi bồi thường. Theo như câu trả lời của anh ta thì người đang trả viện phí cho tôi không phải là người có quan hệ với Kyogoku Shunsuke sao? Tôi nghĩ.

“Lạ thật đấy!” Tôi nói. “Sự cố tai hại như thế, và tôi đây thì suýt về chầu ông bà ông vải, thế mà không khởi tố, không xét xử, không có gì hết cả.”

Thanh tra Kurata nhăn mặt khổ sở, chừng như cho rằng tôi đang mỉa mai.

“Tại truy lùng Shunsuke hơi hấp tấp. Đội truy nã không lường được rằng hắn mau nản chí như thế.”

“Tôi không nghĩ là hắn nản chí.”

Nghe tôi nhận xét, thanh tra Kurata ra chiều bất ngờ.

“Thế ư?”

“Vâng. Không phải từ đầu hắn đã quyết định chết rồi sao?”

Viên thanh tra nhún vai rồi khẽ cười, “Có lẽ thế. Nếu muốn chết thì hắn nên tự chết một mình.”

“Đúng vậy.” Tôi lấp lửng đáp, đồng thời hình dung ra điệu cười ngay trước khi tự sát của Kyogoku Shunsuke.