← Quay lại trang sách

Phần thứ hai

Ấnh thi đua Đỗ Trung T ín được chuyển về phân xưởng lạnh làm thống kê. Là một anh giã giò, đầu óc ngu si tứ chi phát triển, như chánh văn phòng nói, Tín “không làm được một việc gì”. Bản tin không viết được. Báo cáo lại càng không. Chỉ giỏi rượu. Với lại những lúc rỗi việc, ngồi ở bàn, anh ta có cái tật chép miệng khan, không chép miệng như người ta, tiếng chép miệng của anh kêu to như pháo nổ, có thể làm ai yếu bóng vía giật mình. Anh ra đi khi vẫn chưa ai phá được câu chào của anh ta:

- Xin chào ở như các cụ.

Hai tiếng ở như kéo dài, quai hàm trẹo bên nọ sang bên kia, cằm dưới đưa ra, lúc ấy trông anh rất tươi tắn đáng yêu. Vào phòng thanh tra, tới văn phòng công đoàn, lên đảng ủy, tới phòng hàng hải hay đi đâu trở về văn phòng, thấy đám nhân viên cùng phòng, có khi chỉ toàn phụ nữ, những cô Phòng văn thư, bà Nga chạy văn phòng phẩm hay cái Nhạn đánh máy, cái Tám tiếp tân, anh cũng nở nụ cười rất tươi, hai mắt long lanh, cái cằm râu ria đưa ra xin chào ở ở ở như ư ư các cụ! Mãi sau khi anh đi được một tháng, cô Phòng, vâng chính cô Phòng dân bánh chưng đất, văn thư đã nghĩ ra câu đối đáp lại.

Ây là vào cái hôm cả hội vừa ăn ốc luộc xong (hôm ấy sếp đi họp trên thành phố - vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm) thì Giò Tìu từ phân xưởng lên ghé vào văn phòng có việc gì đấy, vừa bước vào cửa, đã đưa cái hàm dưới ra:

- Xin chào à ở như các cụ!

Đang dương dương tự đắc và nở nụ cười thỏa mãn vì biết người ta không thích mình, không thích cả câu chào độc đáo của mình mà vẫn phải cắn răng chịu, bỗng anh ta tái mặt.

- Để mời à các cụ ngồi chơi!

Đó là cô Phòng! Phút xuất thần của cô Phòng! Chánh văn phòng Điều vỗ tay trước tiên:

- Con này giỏi! Con này giỏi! Khá! Tao sẽ xin giám đốc tăng cho mày một bậc lương con ạ.

Tất cả cười ngặt nghẹo và đều công nhận câu đáp của cô Phòng hay. Cái Tám hỏi:

- Chị nghĩ ra từ bao giờ đấy?

Cô Phòng hai gò má đẫm nước mắt, tính cô hễ cười nhiều là nước mắt cứ chảy ra:

- Vừa nghĩ xong. Tức quá. Tự nhiên bật ra thôi.

Chánh văn phòng đưa cằm ra phía trước:

- Xin a chào à ở như các cụ.

Cả hội đồng thanh, trừ Tín:

- Để a mời à các cụ ngồi chơi.

Và cười ầm. Tín cung cúc bước ra cửa đi về xưởng lạnh trong tiếng cười giòn tiễn đưa của anh chị em đơn vị cũ. Chánh văn phòng còn nói thêm một câu đủ để Tín nghe thấy:

- Cho hết cái thói nhăn nhăn nhở nhở như mồm lở sơn...

Người về thay Tín làm thi đua cờ đèn kèn hoa là một người ít nói nhưng lại có khiếu hài hước. Một người nhiều tuổi hơn cả chánh văn phòng, văn hay chữ tốt, hơn thế, một người từng trải, nếu có thể nói được như vậy. Toàn, Nguyễn Đức Toàn, hơn tuổi chánh văn phòng, đã từng làm trợ lý giám đốc sở công nghiệp thành phố, đã đi thanh niên xung phong Trường Sơn, đã ba lần được là đối tượng kết nạp Đảng nhưng cả ba lần đều hoãn kết nạp vì những lý do khách quan. Một lần ở thanh niên xung phong. Chi bộ đã định ngày kết nạp thì Toàn bị trúng bom. Nằm bệnh viện nửa năm, khi ra viện về một đơn vị khác, làm công việc nhẹ hơn cho phù hợp với sức khỏe. Thế là lại bắt đầu lại từ đầu. Lại phấn đấu. Lại được đi học lớp cảm tình. Lại nghe giảng về đấu tranh giai cấp, về chủ nghĩa tư bản giãy chết, chủ nghĩa cộng sản văn minh. Và lại được đứng trong hàng ngũ đối tượng phát triển. Bỗng có chủ trương tạm ngừng công việc phát triển Đảng một thời gian để tập trung vào nhiệm vụ củng cố Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. Hết thời gian đó Toàn đã xin được về Hải Triều, thành phố quê Toàn và cũng là nơi vợ con Toàn sinh sống. Làm tổng hợp cho đồng chí giám đốc sở công nghiệp thành phố. Có trí nhớ tốt, được việc, trở thành người thân cận của giám đốc, lại một lần nữa, Toàn được là đối tượng kết nạp nhưng giám đốc chuyển đi sau một vụ đấu đá, phó giám đốc - người mâu thuẫn gay gắt với giám đốc, người thắng cuộc - lên thay. Hiển nhiên là ông không dùng Toàn làm thư ký tổng hợp. Việc kết nạp Đảng càng không thể đặt ra. Từ ấy Toàn gạt hẳn mục tiêu vào Đảng ra khỏi đầu óc. Và Toàn cũng hiểu con đường tiến lên của anh thế là hết. Ý chí phấn đấu của anh bị giáng một đòn căn bản, bởi anh biết không vào Đảng thì khó lòng được thăng tiến. Chẳng những thế anh còn phải tạm nghỉ để chờ tổ chức phân công công tác. Hơn một năm sau vẫn chẳng được giao việc, anh gặp giám đốc mới xin tự liên hệ công tác và được giám đốc chấp nhận. Các xí nghiệp trong sở không ai dám nhận anh. Họ đều biết anh bị giám đốc cho ngồi chơi xơi nước cùng với một số cán bộ trong ê kíp cũ. Thế mà trong khi anh còn đương chức, họ tiếp đón anh nhiệt tình đến thế. Phải gần một năm nữa, giám đốc mới (nay đã thành cũ) mới cho anh liên hệ công tác ở ngoài ngành. Đó là một việc bất đắc dĩ vì đồng chí không muốn ngành thất thoát cán bộ! Được về Liên hợp Hải sản Biển Đông - Biendong Fiscom, anh coi như mình trúng số độc đắc và lao vào công việc với tất cả hào hứng, phấn khởi. Nghĩ lại hai năm trời thất nghiệp dở mà rùng mình. Hai năm trời chợ búa nấu cơm, giặt giũ trước bao con mắt tò mò dò xét, những lời xầm xì vào ra của những người trong khu tập thể. Hai năm trời không làm tròn trách nhiệm người chồng, người bố. Vẫn có đồng lương nhưng đó là lương thất nghiệp, bảy nhăm phần trăm lương cơ bản. Tất cả gánh nặng chi tiêu dồn vào vai vợ. Mà nào vợ anh có dễ dàng gì cho cam. Công nhân một xưởng sản xuất cân, sản phẩm không tiêu thụ được, xí nghiệp phát lương bằng các loại cân, từ cân bàn, đến cân móc, cân treo. Về nhà, tháo những dây chằng buộc, những túi đựng quả cân, đĩa cân, méo mặt vì lo, vợ anh vẫn còn hài hước:

- Phóng xe ra tới cổng bảo vệ, tất cả cán bộ công nhân hét to: “Nhấc ba de lên cho chúng tớ đèo lương về đây này!” Giám đốc còn định gán lương bằng cân tạ cho bọn em, ba bốn người chung nhau một chiếc vì cân bàn tồn kho quá nhiều. Chúng em kêu lên sếp có lĩnh lương loại vĩ mô ấy thì lĩnh, chứ chúng em không nhận đâu. Sếp quen các thủ trưởng, sếp bán được cân vĩ mô. Chúng em chỉ có thể mang cân vi mô ra chợ đổ cho mấy bà buôn hay gạ bán cho mấy nhà hàng xóm thôi.

Bán cân. Xí nghiệp tính theo giá của xí nghiệp, còn mình làm sao bán được như đầu ra tính trên giấy ấy. Đồng lương đã kém lại càng kém. Toàn đã đi ra chợ bán cân. La cà dãy các bà bán cá, bán tôm, buôn gà vịt, bán hàng khô. Và gặp nhiều người cũng ra bản lương ở các xí nghiệp khác. Người ta cũng mang bán sản phẩm của xí nghiệp gán thay lương nhưng có lẽ chẳng ai khổ như vợ chồng Toàn, chẳng ai khổ như những người làm xí nghiệp cân. Công nhân xi măng lĩnh lương bằng xi măng rời quá ư dễ bán. Hợp tác xã xe đạp, lương trả toàn bằng poóc ba ga, gác đờ bu, cũng khó bán đấy nhưng cũng còn dễ hơn cân. Hay như cái Liên hợp Biển Đông này mới sung sướng làm sao! Được phát lương bằng cá. Cá băng, cá đông. Cá đóng túi ướp đá. Sau này khi anh đã đi làm thi đua ở Biendong Fiscom, cùng anh chị em văn phòng ôn lại cơ đận ấy, cô Phòng cười khanh khách bảo anh:

- Chúng bố lĩnh lương bằng gạo, gạo các tàu chở từ miền Nam ra. Chúng bố lĩnh lương bằng cá. Thật danh giá. Đạp xe ra Ngã Ba là con buôn đã ơi ới ơi ới gọi rồi. Chỉ có cái chán là cá xí nghiệp tính cao. Bán cho con buôn có được thế đâu. Mỗi cân thế nào cũng mất mấy giá.

Và cô tiếp luôn:

- Nhưng chúng bố không sợ. Chúng bố tát nước theo mưa. Lấy mùa bù chiêm. Xuống tàu xin cá. Trà trộn cá xin với cả lương. Đem qua cổng bảo vệ thoải mái.

Cô Phòng có kiểu nói như vậy. Khi mới đến công ty làm thi đua, về sinh hoạt ở văn phòng, ấn tượng mạnh nhất đối với Toàn là cô Phòng. Cô trạc ba nhăm ba bảy tuổi, có biệt hiệu là “bánh chưng đất” vì quê Hải Dương. Con một gia đình trí thức. Bố là một ông giáo già đã về hưu, học trò ông có những người là tướng, là bộ trưởng. Cô có một anh là phó tiến sĩ, còn một cô em gái là nhà văn đã được giải thưởng Tảc phẩm tuổi xanh. Cô cũng có phải dân văn thư chuyên nghiệp đâu. Báo vụ có hạng được đào tạo chính quy đấy. Trong các cuộc thi tay nghề cô luôn nằm trong danh sách năm người đứng đầu. Chỉ đến khi lấy chồng có con (cái con bé bây giờ đã học lớp 5, thỉnh thoảng vẫn theo mẹ ra văn phòng mà cô gọi là con mảnh sành cong này này), không thể làm ca kíp được, cô mới xin chuyển từ đài thu phát trung tâm về công đoàn làm công tác thư viện, rồi khi anh chàng Trần Minh Mẫn ở đâu lù lù về văn phòng công đoàn phụ trách bổ túc văn hóa kiêm thư viện, cô lại chuyển về làm văn thư. Nước da nâu mịn màng, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười gò má lại đỏ lên, một thời từng làm chết mệt bao chàng trai kể cả thuyền trưởng Trần Nhân Chơn, cuối cùng lại rơi vào tay anh chàng Nghiêm, kỹ sư vỏ tàu quê xứ Bọ, hiền như đất.

Toàn hòa nhập rất nhanh với công việc ở đơn vị mới. Hai công việc đầu tiên phải làm là căng lại dây loa truyền thanh và viết phiếu đặt hàng đưa chánh văn phòng ký đề nghị xưởng cơ khí làm một bảng tin bằng sắt, chôn dưới gốc bàng. Anh đề nghị phòng tổ chức điều cho một thủy thủ dự trữ cùng anh kéo lại những đoạn dây loa bị đứt. Cậu thủy thủ dự trữ này là người đầu tiên thuộc khối dưới nước mà anh tiếp xúc. Trước tiên anh ngạc nhiên về những gì anh ta mang trên người. Còn rất trẻ. Nhưng diện ngất trời. Quần áo, kính, mũ, đồng hồ, nhẫn vàng và lạ nhất là túi áo túi quần, túi nào cũng có ba số và cứ nhất định ấn một bao vào túi áo Toàn. Mà quần áo anh ta nhiều túi lắm.

- Chú cầm lấy hút.

Đó là món lộc đầu tiên của Toàn ở Liên hợp Hải sản Biển Đông:

- Ớ đâu ra lắm thuốc lá thế.

- Bọn tàu 19 mới về. Mỗi thằng cho vài bao.

Toàn ước tính trên người anh thủy thủ dự bị này phải đến hai cây thuốc lá. Nếu Toàn có chỗ ấy, đó là cả một khoản thu nhập. Anh bóc bao thuốc, lấy một điếu hút. Đã lâu lắm mới đàng hoàng bóc bao thuốc ba số như thế này. Từ ngày còn làm tổng hợp cho giám đốc sở công nghiệp...

Mới kéo được một đường dây từ xưởng lạnh ra phòng đời sống, cậu thủy thủ đã bảo:

- Vào căng tin nghỉ một tí đã chú ạ. Chú ăn sáng chưa? Ăn rồi cũng cứ vào với cháu. Cháu chưa ăn. Đói lắm rồi.

Mới hơn chín giờ. Toàn chưa đói. Nhưng rõ ràng chẳng thể bắt cậu dự bị công tử này làm việc tiếp, bởi cậu đã cố gắng hết sức cũng như cậu rất nể và kính trọng Toàn, hơn nữa cũng chẳng thể một mình làm cái việc căng dây. Chưa đến giờ cao điểm, căng tin còn vắng. Một bàn bốn thuyền viên đang ăn phở. Cô căng tin béo núc, cúc áo chật căng, da rất trắng bưng cái khay có bốn bát phở nghi ngút khói lên.

- Sao bát vơi thế em Lan?

- Thế này mà năm nghìn à?

- Đắt thế, anh bắt đền em đấy.

Một giọng ồ ồ của người thứ tư, cất lên:

- Đắt rẻ là phụ thuộc vào mình: Ăn nhiều ớt hay ít ớt.

Tất cả cười ầm. Đúng là ớt năm ấy quá đắt. Và chỉ ngoém một cái, bốn người bốn cái sẻ, đĩa ớt hết veo. Người có giọng ồ ồ chìa đĩa không về phía cô căng tin:

- Cho thêm đĩa ớt đây em. Nếu hết ớt thì thay bằng thịt cũng được. Giá tiền cũng tương đương nhau ấy mà.

Cánh thuyền viên không biết Toàn, nhưng biết chàng lính dự trữ:

- Khương! Tàu bao giờ đi?

Chàng thủy thủ kéo dây cười:

- Chào các anh. Em lên bờ rồi anh Chất ồ ạ.

Chất ồ, người có giọng nói ồ ồ, tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Đã lên à? Mới đi được hơn hai chục chuyến chứ mấy?

Lại cười đồng loạt. Khương cười khẩy:

- Chính xác là hai bốn chuyến, mười chín chuyến Hong Kong, hai chuyến Sing, ba chuyến Nhật. Kể thì nhiều nhưng cũng không nhiều.

- Càng nhiều càng ít.

Toàn chỉ biết nghe. Khương gọi bia Heineken, một đĩa bò xào. Nâng lên đặt xuống. Bia sủi bọt mát lạnh. Thịt bò mềm. Ba số thơm. Lại thêm hai bát phở. Ăn xong, Khương bảo Toàn nghỉ thôi chú ạ. Ăn xong nặng bụng leo trèo mệt lắm. Chiều chú cháu mình làm tiếp.

Thế là nghỉ. No. Ca cơm mang theo có mấy viên lạc rang mỡ mắm, không dùng đến, không phải vào bếp đặt ghé bên bếp than chung quanh thùng nước của bà Nhàn, vần vần xoay xoay cùng với bao nhiêu người, bao nhiêu ca, cặp lồng khác. Toàn lang thang. Đứng nhìn cầu cảng. Chầu rìa mấy ván tiến lên. Chiều chẳng thấy cháu đâu. Chú đến phòng tổ chức. Không thấy cháu. Lại ra cầu cảng thì thấy cháu từ trên tàu 19 bước xuống. Toàn rảo bước tới gặp Khương: Chiều không làm à? Chú cứ chờ mãi. Mặt Khương đang bừng bừng tức giận: Chú xin người khác đi. Cháu không làm nữa đâu. Rồi Khương trèo lên một chiếc xe máy đen kềnh càng những ống thép mạ kền, hai ống xả sáng chói mắt, ghi đông thì vểnh lên xòe cong ra hai bên, ấn nút khởi động. Xe không nổ. Mấy lần xe không nổ. Co chân đạp. Chỉ rồ lên được một tí lại tắt lịm. Một thanh niên còn rất trẻ đứng cạnh chiếc xe DD đỏ chót mới cứng dựa trên chân chống sát cầu, cạnh mũi tàu HL19 cười:

- Xe gì thế. Vất đi thôi!

Khương quắc mắt nhìn anh thanh niên:

- Mày nói gì thế thằng Duy? Nói lại tao nghe xem nào!

- Thay xe đi! Giọng anh thanh niên tên Duy đã có vẻ dìu dịu.

- Được rồi! Nhớ đấy! Nhớ lấy nhé thằng con giời ạ!

Đám người rải rác trên cầu tàu dừng cả lại chăm chú theo dõi câu chuyện đang có chiều căng thẳng. Duy - cũng là người sang trọng từ đầu đến chân, phủ lên người anh ta là toàn những thứ đồ ngoại đắt tiền - cười cười đùa vui cho bớt căng:

- Đạp như thế một chân to một chân nhỏ về vợ nó không nhận ra đâu!

Không ngờ câu ấy càng làm Khương tức hơn. Đỏ mặt tía tai, lấy hết sức bình sinh đạp cần đề. Xe nổ. Khương điều chỉnh ga, tiếng máy gầm lên nhức óc:

- Tao cho cái xe của mày xuống sông đây này. Mày muốn không?

- Dám à?

Khương dận số, chiếc xe lao tới chỗ Duy. Quá hốt hoảng, Duy nhảy vọt ra, tránh được chiếc xe máy đang phóng thẳng vào mình. Không giảm tốc độ, Khương cho xe lượn sát chiếc xe DD đỏ, co chân đạp mạnh vào thân xe, chiếc xe máy đỏ chót bóng loáng rơi xuống lòng sông. Tất cả kêu lên. Không quay lại, đang đà phóng, anh chàng thủy thủ thuộc lực lượng dự trữ phụ việc căng dây truyền thanh cho Toàn tăng ga phóng ra phía cổng xí nghiệp.

Có lẽ sau khổ chủ Duy, Toàn là người sửng sốt nhất về việc ấy. Mà sao lúc đi căng dây với anh, Khương một điều chú hai điều cháu, ngoan ngoãn, lễ phép, hiền lành đến thế. Nó cả gan đạp chiếc xe máy của người ta xuống sông. Không suy nghĩ đắn đo. Không thương tiếc. Chiếc xe máy có giá trị bằng cả một gia tài. Chiếc xe máy có thể làm bất kỳ ai sở hữu nó, hay chỉ ngồi phía sau ôm eo lượn quanh phố thôi, tăng thêm hàng chục nấc thang giá trị. Cả cầu cảng náo động. Mấy chiếc máy hàn của cánh thợ sửa chữa thôi hoạt động, những tiếng hú inh tai của máy hàn tắt hẳn. Rồi đến tiếng gõ gỉ từ phía đà nổi cũng tắt. Chị em gõ gỉ quần áo, khăn trùm đầu, khẩu trang găng tay một màu gỉ sắt lệt sệt giày ủng đứng xa xa. Tạm ngừng mọi công việc. Người ở các tàu kéo ra cả boong. Chỗ chiếc xe máy rơi đông đặc người. Toàn cũng ra đứng đó, nhìn xuống sông. Chẳng thấy gì. Chỉ có dòng nước đang ròng, trôi ra phía cửa sông, kéo theo rến rác, lá sú, mấy miếng xốp trắng bập bềnh cùng những giọt dầu loang...

Đã qua cơn bất ngờ, bình tĩnh trở lại, khổ chủ Duy ngồi bệt xuống nền bê tông cầu cảng, rồi đứng phắt dậy, chạy tới chiếc xe máy dựng gần đấy, thét lên:

- Anh Thu ơi! Chìa khóa xe anh đâu! Cho em mượn. Em phải sống chết với thằng này.

Bao nhiêu người lên tiếng can ngăn Duy. Hãy bình tĩnh. Việc đầu tiên là lo vớt cái xe lên đã. Ngâm lâu dưới nước mặn là hỏng hết. Chiếc xe nặng thế không trôi đi đâu. Ngay dưới này thôi. Một người bước tới chỗ Duy đang đứng bên chiếc xe máy:

- Chìa khóa đây. Nhưng mày định đánh nhau với nó à? Đánh nhau tay đôi với nó mày thua hay nó thua? Lo tìm người vớt xe đi. Ông Chín lặn tốt đấy. Nói cảng vụ cho mượn cái cần cẩu thiếu nhi. Rồi làm đơn lên giám đốc, lên tổ chức. Tre có chỗ chẻ chứ. Vừa nãy ở trên tàu anh đã thấy nó điên điên. Con giời đang cú. Lên bờ mấy chuyến rồi. Bố nó làm đơn gửi tổng giám đốc xin đi tăng nữa. Nhưng chưa được giải quyết.

Bao nhiêu người bày tỏ sự phẫn nộ về hành động của Khương. Qua những lời bàn tán, đến lúc ấy Toàn mới biết Khương là con ông Nguyễn Thạc, phó giám đốc công an thành phố. Học mãi thi mãi không đỗ phổ thông, đàn đúm ăn chơi với đám bạn bè toàn những đứa như mình, bố mẹ làm sếp, lắm tiền nhiều của, Khương là một trong những thanh niên sành điệu nhất Hải Triều. Con đường hư hỏng đối với Khương khó mà tránh được. Chỉ còn là thời gian thôi. Biết tin Liên hợp Hải sản Biển Đông mới tổ chức cho mấy tàu đánh cá chuyển sang vận tải nước ngoài, ông phó giám đốc công an vội xuống gặp tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng. “Không được đâu anh ơi. Con anh cũng như con tôi.

Nhưng xuống tàu phải có chức danh. Phải qua đào tạo. Giá cháu có một cái chứng chỉ đào tạo ở một trường nào đó, công nhân thôi cũng được thì tốt quá. Anh làm gì không kiếm được cái chứng chỉ ấy”. Ngừng một lát ông cười: “Có thằng cháu nhà anh xuống tàu, chúng tôi càng yên tâm. Anh em có gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ”. Con anh cũng như con tôi. Tổng giám đốc đã nói rất thực lòng. Ông cũng đã chịu biết bao khổ sở đắng cay vì con cái. Không biết bao nhiêu đêm, ông đạp xe đi (không dám một mình đi xe máy ban đêm) các nơi tìm con. Đến nỗi những người bán hàng đêm khuya các đầu cầu đã quen mặt ông. Họ biết cả con ông và băng đảng của nó. Những đêm tìm con, ông hiểu thêm thế giới ban đêm và càng thấy sự nguy hiểm đã ập đến gia đình ông. Ông đã nhìn thấy nhiều đứa con trai và cả con gái còn trẻ hơn con ông từ đâu ào vào một quán hàng ở bờ sông ăn uống, cười nói, rồi lại ầm ầm phóng xe đèo nhau đi vào lúc hai giờ đêm. Thằng ngồi sau giơ cao kiếm, mã tấu, côn, chùy... hoa múa trên đầu, hò reo như những đoàn quân xông lên giao chiến trên phim ảnh. Ông vội chạy vào hàng nước gọi điện cho cảnh sát 113. Bà hàng nước cười bảo ông: “Chỗ này bao giờ chả có cảnh sát trực. Họ chỉ giải quyết hậu quả thôi chứ không can thiệp đâu. Có hỏi thì bảo: Cho chúng nó giết nhau bớt đi”. Đêm khuya, trong mùi phân hoai nồng nặc ven đê, ông đã mò mẫm gần như nằm rạp xuống đất, nhìn vào sát gầm cầu, bấm đèn pin và thấy một lũ nằm nghêu ngao hát cải lương. Ông đã thấy một cái xác nằm co trên bãi sông, một đàn chuột đang xúm vào gặm đầu và cổ. Theo lời chỉ dẫn của một người hàng nước tốt bụng, ông xông vào một chiếc lều bỏ hoang, kéo tung những cái lõi chăn bông bẩn thỉu, hôi hám thủng rách phủ trên ổ rơm và thấy gần chục đứa còn rất trẻ hoàn toàn trần truồng ngồi bật dậy co rúm vào nhau, trong đó có hai đứa con gái chỉ mười bốn mười lăm đẹp như thiên thần và ông đã lôi được thằng con ông về nhà. Nhưng rồi nó lại bỏ đi. Ông lại đi tìm và lại một lần nữa xông vào nơi tụ tập của chúng nó nhưng lần này không có con ông ở đó và ông bị bọn chúng đuổi đánh, suýt mất mạng, nếu không có một người đàn ông cũng đi tìm con như ông phóng xe máy đến... Ông giám đốc Liên hợp cũng rất thành thật khi nói: Có con anh xuống tàu chúng tôi càng yên tâm. Anh em có gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ. Ông phó giám đốc công an cũng rất cởi mở và thân mật: Điều ấy anh không cần phải nói. Nhưng cũng phải bảo anh em làm cái gì cũng vừa vừa thôi, giới hạn thôi. Rồi ông chép miệng than thân: Đến khổ vì con vì cái. Ngay hôm sau ông phó giám đốc công an đã đích thân cầm hồ sơ của con trai ông có cả chứng chỉ đã tốt nghiệp khoa boong của trường công nhân kỹ thuật. Và Khương xuống tàu. Khương xuống tàu, đi hơn hai mươi chuyến. Hơn hai mươi chuyến tàu 19 an toàn. Không bị khám. Không bị thu. (Tất nhiên đối với hải quan công an vẫn phải thu xếp cống tiến như đã thỏa thuận trong hợp đồng ngầm). Không xảy ra một hiện tượng đáng tiếc nào, một trục trặc kỹ thuật nào.

Đưa Khương lên dự trữ sau hơn hai mươi chuyến đi nước ngoài là ý kiến của trưởng phòng tổ chức Nguyễn Văn Thục. Lý lẽ của trưởng phòng tổ chức khiến giám đốc thấy thật có lý có tình, khó bác bẻ. Hơn nữa chính ông cũng nghĩ như vậy: Khương là một thanh niên ở đâu đến đây, chưa có một đóng góp nào cho xí nghiệp thế mà được xuống tàu đi nước ngoài ngay, đi liền hơn hai năm nay. Trong khi ấy bao nhiêu cán bộ công nhân cả khối dưới nước lẫn trên bờ cống hiến cho xí nghiệp từ thời còn tàu vỏ gỗ, đánh giã đôi, cho tới thời chiến tranh bắn phá vẫn còn phải xếp hàng chờ đợi. Như thế đã là ưu tiên quá rồi. Hẳn ông phó giám đốc công an cũng nhận thấy điều ấy. Tổng giám đốc nghĩ vậy. Với lại thằng con ông cũng đi tàu vận tải nước ngoài. Hai thằng như vậy đi nước ngoài là không ổn. Lại còn cái mối ân tình với bác sĩ Bá nữa... Để Khương lên bờ dự trữ rồi ta hãy định liệu sau. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng gật đầu, bảo Thục:

- Cậu làm quyết định đi. Mình tán thành.

Ông không biết mỗi chuyến tàu đi nước ngoài về cập bến, trưởng phòng tổ chức đều xuống thăm tàu, tươi cười tay bắt mặt mừng với mọi cán bộ, thuyền viên. Sau khi hỏi thăm sức khỏe, là một câu nói xanh rờn, thản nhiên như chẳng có gì quan trọng:

- Tàu chuẩn bị nhé. Chuyến này có một số thay đổi về nhân lực đấy.

Thế là cả tàu nháo nhào lên. Xôn xao. Hoang mang. Lo lắng. Và người ta không ai bảo ai đều tìm tới nhà trưởng phòng tổ chức. Không đến người không. Hẳn rồi. Cũng không đến với những thứ cồng kềnh, những quạt máy, đầu máy khâu, tivi hay tủ lạnh. Những thứ ấy sếp có đủ rồi, thừa rồi. Mà đến với cái phong bì, mỏng thôi bởi không phải phong bì tiền Việt. Mọi chuyến lời báo trước của trưởng phòng tổ chức “tàu, chuẩn bị nhé, sẽ có một số thay đổi về nhân lực đấy ” chỉ là lời báo trước. Nhưng chuyến vừa qua, lời báo trước ấy đã biến thành sự thật. Bởi Thục thấy cần phải biến thành sự thật. Vì đã có những dư luận đến tai Thục. Những dư luận không hay. Nào là thằng ấy luôn khủng bố tinh thần anh em, xóc như xóc cua trong giỏ để gặt hái. Nào là cái thằng đi biển say sóng không chịu được giờ lên bờ tác oai tác quái. Xuống tàu làm thủy thủ không xong... Với lại cái thằng Khương này chưa một lần đến nhà Thục, chưa một chút quà, nó làm như đã là con phó giám đốc công an thì có thể qua mặt tất cả, coi thường tất cả. Thục cũng biết giám đốc muốn đưa bác sĩ Bá xuống tàu. Chính giám đốc nói với Thục điều ấy. Thu xếp cho ông bác sĩ người dân tộc đi một vài chuyến. Phục vụ viên. Ông ấy kêu quá. Gặp đâu cũng nhăn nhó, xin xỏ, mè nheo. Sốt cả ruột. Bác sĩ Bá thì chẳng lấy đâu ra tiền rồi. Nhưng cũng chẳng phải vì sốt ruột mà sếp cho đi. Mà vì cái chứng thần kinh tọa của sếp. Đủ các thứ thuốc. Các thứ bệnh viện không khỏi. Bá chỉ châm cứu và bó mấy lần bằng thuốc gia truyền. Thế là cái bệnh đau nhói từ hông xuống đến mắt cá chân của sếp biến đi lúc nào không hay. Tổng giám đốc và trưởng phòng tổ chức đã gặp nhau ở một điểm.

Trưởng phòng tổ chức viết quyết định đưa giám đốc ký nhưng giám đốc bảo đã phân cấp rồi, ký quyết định điều thủy thủ là trưởng phòng tổ chức. Có lẽ sếp đã quên. Quy chế là trưởng phòng tổ chức chỉ ký quyết định điều động thuyền viên tàu đi đánh cá. Còn thuyền viên đi tàu vận tải nước ngoài là sếp. Sếp trực tiếp quản. Sếp trực tiếp ký. Càng hay. Càng chứng tỏ vị trí của mình, Thục nghĩ vậy. Thế là quyết định điều động lên khỏi tàu thủy thủ Trần Đắc Khương có chữ ký trưởng phòng tổ chức T/L giám đốc (thừa lệnh giám đốc) được thi hành.

Tưởng thế là xuôi. Nào ngờ lại xảy ra sự cố, ầm ĩ cả xí nghiệp. Chiếc Honda DD nhanh chóng được vớt lên. Xí nghiệp không tính tiền cẩu. Nhưng Duy phải trả tiền cho thợ lặn. Phải đem xe lên phố bảo dưỡng... Tất cả căm phẫn hành động của Khương. Duy thề sẽ trả mối thù này. Chí ít là đưa ra hội đồng kỷ luật. Nhưng thật không ngờ. Duy có quyết định lên bờ về lực lượng dự trữ ngay chuyến ấy. Chính ban chỉ huy tàu lên gặp giám đốc đề nghị đưa Duy lên. Nếu không cả tàu sẽ chết. Cả tàu sẽ bị giết. Xí nghiệp cũng gay chứ chẳng riêng tàu. Duy lên. Khương xuống. Ngay. Không chậm trễ. Khương xuống tàu với quyết định do đích thân tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng ký.

Suốt thời gian kéo dây loa, đặt hàng bảng tin rồi giồng bảng tin, Toàn chỉ nghe người ta nói về chuyện ấy.

Khương đã xuống tàu vận tải nước ngoài. Phụ cho Toàn không phải Duy (Duy đã xin nghỉ phép) mà là Nhược, anh chàng đã đánh chén cả suất cơm của giám đốc Trần Công Bằng ngày nào. Rồi khi cần phải thêm nhân lực để giồng cái bảng tin bằng sắt dài sáu mét dưới gốc cây bàng ở giữa sân thì có thêm cả Thuyền, người thủy thủ to béo đã đi tù về tội buôn bốn ki lô đá lửa. Cả hai đều là thuyền viên của đại phó Phạm Cương, thủ trưởng tàu 307, con tàu có số chuột nhiều hơn toàn bộ số thuyền viên của Liên hợp Biển Đông. Buổi chôn bảng tin lại xảy ra một sự cố nhỏ nhưng vui. Khi Toàn, Nhược, Thuyền đang de chân chèo, cố dựng chiếc bảng tin nằm dưới đất đứng thẳng lên sao cho sáu chân cọc của nó vào đúng sáu cái lỗ đã đào sẵn, giám đốc ở đâu xộc tới:

- Ông Toàn! Chánh văn phòng không nói gì với ông à?

Toàn ngơ ngác:

- Báo cáo tổng giám đốc, không ạ!

- Để đấy đã! Ông vào đây với tôi!

Toàn xoa xoa hai bàn tay đất cát (thật phúc là lúc này lại có hai bàn tay đầy đất cát), bước theo sau giám đốc, vào buồng văn phòng tổng giám đốc, ngơ ngác không hiểu có chuyện gì. Buồng văn phòng tổng giám đốc cũng là buồng làm việc của Toàn. Mặc dù là buồng làm việc của mình nhưng Toàn không dám ngồi mà cứ đứng vịn tay vào chiếc ghế dựa đặt sau bàn làm việc của anh. Giám đốc bừng bừng tức giận bước thẳng tới bàn Điều:

- Ông Điều! Ông Toàn! Hai ông ra đây với tôi! Ra đây!

Điều vội xếp các giấy tờ trên bàn, đặt chiếc cặp ba dây đè lên, rồi đứng dậy theo tổng giám đốc ra ngoài. Toàn đi sau cùng. Tổng giám đốc dẫn hai người tới toa lét.

- Các ông không ngửi thấy gì à? Tôi đã bảo các ông từ hôm qua là cho vệ sinh thật sạch sẽ cái toa lét này cơ mà? Sao các ông không làm? Rồi cho kẻ ngay hai cái bảng đóng lên cửa để phân biệt bên dành cho nam bên dành cho nữ mà các ông không chịu làm gì cả. Việc nhỏ như thế mà các ông không làm được, hỏi còn làm việc gì nữa. Tôi đến chết với các ông mất thôi. Các ông đúng là những thợ nói.

Toàn im lặng. Còn Điều phân trần:

- Báo cáo giám đốc toa lét chiều qua trước khi về đã cho cọ rửa kỹ rồi. Khai thế này là mới từ sáng. Sáng nay nước lại bị cắt...

Tổng giám đốc lắc đầu chán nản:

- Mới từ sáng đến giờ đã khai nhức óc lên thế này. Phòng ban nào cũng vậy. Làm việc thì ít. Uống chè thì nhiều. Uống chè rồi đi đái. Đúng là ăn hại đái khai. Chỉ lo tiền mua chè với đun nước sôi cho mấy ông cũng đủ chết. Ông cho người gánh nước từ bên bể xưởng lạnh về đây. Cọ ngay cho tôi. Ông Toàn vẽ ngay cho tôi hai cái biển. Như ở các khách sạn ấy. Một cái dành cho nam. Một cái dành cho nữ. Ông hiểu ý tôi chứ? Ông đã đến khách sạn bao giờ chưa?

Toàn lí nhí:

- Rồi ạ.

- Bên dành cho nam vẽ cái đầu đàn ông dưới viết Gentleman, bên nữ vẽ cái đầu đàn bà dưới đề Lady. Đây. Ông có biết tiếng Anh không? Tôi viết ra cho ông đây. Cứ thế mà làm. Hay là thôi, để sau cũng được. Trước mắt lo cọ ngay cái toa lét. Đi mãi xa, chưa vào đến sân đã ngửi thấy mùi khai rồi. Không ra làm sao cả. Bước vào xí nghiệp là thấy mùi khai. Mũi các ông điếc hết cả rồi à? Ông biết khách sắp đến rồi chứ. Cái toa lét là bộ mặt của xí nghiệp ông hiểu chưa? Khách quốc tế đến một xí nghiệp thực phẩm, ngửi mùi nước đái người ta đã khiếp còn nói gì chuyện làm ăn.

Ông giơ tay xem đồng hồ:

- Thằng cha Robert Lee sắp đến rồi đấy.

Sếp lên phòng sếp. Điều làu bàu:

- Có cái toa lét chứ cái đếch gì đâu mà cứ nhặng lên. Thôi ông Toàn, ông bảo hai thằng dự bị ngừng việc chôn bảng tin lại, để đến chiều, lên đây lấy xô, cọ nhà xí. Còn ông đi lĩnh sơn, kẻ bảng treo ngay lên cho tôi.

Phải nói sếp rất quan tâm đến cái toa lét. Nó nằm sát ngay cửa văn phòng tổng giám đốc và ăn hoắm vào chân cầu thang, bên dưới chỗ chiếu nghỉ, lối lên tầng hai, trên ấy là nơi tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc làm việc. Cái toa lét mới được sửa lại, nền lát gạch men, tường ốp gạch men trắng muốt, với những bàn cầu, những trang bị tiểu tiện gắn vào tường cho nam và những nơi vệ sinh cho nữ. Có đèn tuýp, có gương, có la va bô rửa tay. Và cũng có cả vòi nước để rửa chân. Đúng là chỉ trông thôi cũng thấy mát mẻ, hiện đại. Khác hẳn cái nhà toa lét cũ, cũng là cái này nhưng tường gạch, nền láng xi măng, cặn nước giải bám trên rãnh cáu khú vàng khè, cọ rửa thế nào cũng chẳng hết mùi.

Chánh văn phòng nói tiếp:

- Hôm qua sếp bảo kẻ hai cái biển ở toa lét thì cứ nghĩ lúc nào kẻ mà chẳng được. Hôm nay ông dựng bảng tin. Mai kẻ. Nào biết đâu phải có biển ngay để đón thằng cha Robert Lee. Nó đến để bàn kế hoạch làm ăn chứ nó đi vào xem toa lét làm gì. Nhưng thôi, ông cứ kẻ ngay đi.

- Nó đầu tư cái gì hở anh?

- Thằng này quốc tịch Mỹ chuyên buôn bán cá. Nó gặp ông sếp nhà mình ở Singapore. Cái dự án xuất cá ướp đá thẳng từ ngư trường sang Sing mà ông Thắng đề ra là sau buổi gặp nó. Nó muốn sang khảo sát các thiết bị phương tiện đánh bắt của mình. Cách thức muối ướp. Phương tiện vận tải. Nếu cần nó sẽ đầu tư cho mình tàu thu gom muối ướp đá trên biển. Dự án lớn lắm. Ông Thắng rất hy vọng. Nếu thành công thì đây sẽ là cứu tinh của xí nghiệp.

Nghe biết vậy thôi. Mãi sau Toàn mới hiểu được những con tàu đang vận tải cá ra nước ngoài kia là chỉ chở cá đông lạnh. Mà năng lực sản xuất của xí nghiệp chủ yếu lại là những con tàu đánh cá ướp đá. Tàu đánh cá ướp đông thiết bị ngày một kém, càng đánh càng lỗ, đã tìm được lối thoát là vận tải hải sản đông lạnh cho các công ty hải sản xuất khẩu, trong khi ấy các tàu đánh cá ướp đá cũng trong tình trạng thiết bị xuống cấp, ngư trường ngày càng ít cá, càng đánh càng lỗ nhưng vẫn chưa tìm được lối thoát. Và bây giờ một hy vọng được nhen lên là ông khách người Mỹ Robert Lee, cái ông khách sắp đến xí nghiệp.

Dưới sự hướng dẫn của chánh văn phòng, Thuyền, Nhược, hai người vớ hai cái xô trong kho cái Tám và mượn hai cái nữa của phòng công đoàn, xách nước từ xưởng lạnh băng qua sân huỳnh huỵch, huỳnh huỵch vào trong toa lét cọ dội ào ào.

- Làm thật sạch hộ tôi các bạn nhé. - Chánh văn phòng vào tận nơi chỉ trỏ - Tí nữa ông sếp ông ấy vào kiểm tra đấy. Tính ông ấy là cứ phải làm ngay như thế.

Và quay lại nói với đám nhân viên các phòng ban đang lượn lờ gần toa lét:

- Tôi xin các bố các mẹ có đi đái chịu khó sang xưởng lạnh mà đái nhé. Chỗ này cọ sạch là để làm mẫu đấy, không phải chỗ toa lét đâu. Các bố các mẹ đái còn tôi lĩnh đủ đấy.

Có tiếng cười:

- Thế thì ông Toàn phải kẻ dòng chữ vào đây: Cấm đái.

Một người gầy gò da xám ngoét răng nâu xỉn, cười cười nói với một phụ nữ cao lớn, xinh đẹp hai má ửng hồng rừng rực khí thế:

- Liễu ơi. Có sang xưởng lạnh toa lét cho anh gửi một bãi nhé. Xa lắm anh không đi được đâu.

Cô gái tên Liễu, nhân viên phòng tài vụ lườm nguýt:

- Anh rủ thêm người nữa đi. Hai người mới đầy. Mình anh chỉ được một góc thôi.

Càng cười giòn giã. Chánh văn phòng bảo với anh chàng gầy gò xám ngoét vừa nói:

- Thằng Lập mà vào đây đái tao cắt dái. Gửi được ai cứ gửi.

Khi công việc dọn nhà xí đã xong, đám đông đã giải tán, chánh văn phòng đã vào tận nơi hít hít, gật đầu tỏ vẻ hài lòng, không những thế còn bảo cái Tám tiếp tân xịt thêm một ít nước thơm, hai anh thủy thủ dự trữ sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chưa muốn trở về quan tài sắt ngay, còn đang ngồi cả ngoài hành lang xem Toàn lúi húi vẽ hình một người mặc váy, bên dưới đề chữ Lady (Quý Bà) thì khách đến. Tổng giám đốc đã ngồi chờ ở sa lông trong văn phòng. Một chiếc ô tô sáng bóng, lượn vào và dừng ở giữa sân. Lái xe mở cánh cửa phía sau, nghiêng người, giang tay nhìn vào trong xe. Một người từ trong xe bước ra. Như chỉ đợi có vậy, tổng giám đốc đứng bật dậy, tươi cười sải những bước dài ra sân, cái sân mới được phủ một lớp xi măng cát, láng một lớp phù sa, dấu vết của những ngày nước lớn tràn vào lếnh láng một nửa sân hơi dốc.

- Chào ông Robert Lee.

Hai người ôm lấy nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những chiến hữu lâu ngày mới gặp. Khách là một người nhỏ nhắn, ăn mặc giản dị, da nâu, có cái trán bị bóp lại, khuôn mặt càng xuống phía dưới càng to ra, điểm cực đại là chỗ bắt đầu xương quai hàm dưới, từ đó cái cằm đưa ra, môi dưới dày hơi bị thưỡi trong khi môi trên lại mỏng. Trông rất bình thường nếu không nói là bẩn tướng, ấy thế mà lại là một nhà tư bản kếch sù, buôn bán xuyên quốc gia.

Chủ khách dắt tay nhau lên gác. Chánh văn phòng Điều cắp cặp theo sau.

Toàn, Thuyền, Nhược cùng nhìn theo ba người đang vui vẻ lên từng bậc thang. Bỗng Toàn nghe thấy tiếng Thuyền bên tai:

- Quen quá. Lạ quá nhỉ? Hay là...

Thuyền đứng thẳng lên, ngây người lẩm bẩm:

- Robert Lee à? Đúng rồi. Không chệch đi đâu được. Sao lại có thể thế được nhỉ?

Toàn hỏi anh thủy thủ to béo:

- Anh quen à?

- Quen. Nhưng không biết có đúng không.

Nhược cười:

- Thấy người sang bắc quàng làm họ. Người ta là một nhà tư bản bên Mỹ, còn mình là thằng thủy thủ dự bị mà cứ nói quen. Thôi về tàu đi bố.

Nhược về. Thuyền không về. Thuyền ở lại xem Toàn kẻ chữ Lady và chờ ông khách Robert Lee xuống. Dù có phải chờ đến trưa. Nhưng Thuyền không phải chờ lâu. Có tiếng giám đốc cười nói:

- Mời ông đi thăm quan xí nghiệp. Có thể nói xí nghiệp chúng tôi là xí nghiệp đầu đàn trong ngành. Ta mời khách ra xem cầu cảng, xem tàu trước đã ông Điều nhỉ.

Khi tổng giám đốc, ông khách Mỹ và chánh văn phòng trịnh trọng xuống hết bậc thang cuối cùng, đi qua cửa toa lét không còn tí mùi khai nào và bước dọc hành lang, tiến về chỗ Thuyền, Thuyền buột kêu lên khe khẽ:

- Đúng rồi! Nhọ...

Và đứng lên nhìn thẳng vào Robert Lee. Ông khách Mỹ sững lại:

- Ai như... Ôi! Anh Thuyền! Thuyền Lồn!

Hai người ôm lấy nhau. Ghì chặt. Đẩy nhau ra. Nhìn vào mặt nhau. Rồi lại ghì chặt. Đấm vào lưng nhau. Ép má vào nhau. Thuyền thì thầm rất khẽ vào tai Robert Lee chỉ đủ để một mình Robert Lee nghe thấy:

- Lý Sinh Keng! Nhọ mõm. Nhọ mõm!

Và Robert Lee đáp lại cũng bằng những tiếng thì thầm:

- Thuyền Lợn! Thuyền Lợn!

Họ nhìn vào mặt nhau cười lớn.

- Anh làm ở đây à? Chiều gặp nhé. Bây giờ tôi còn phải theo ngài Tổng giám đốc đi làm việc đã. Thế nào chiều cũng gặp đấy. Anh cứ chờ tôi ở sân này.

Nói rồi Robert Lee chạy tới ô tô, mở cửa xe, lấy ra một cây ba số đưa cho Thuyền:

- Cầm lấy hút tạm. Chiều nói chuyện nhiều. Thật không ngờ gặp anh ở đây. Chiều nhé. Cuộc sống ổn không?

Thuyền chỉ cười ổn ổn.

Khách đã đến rồi. Sếp đã cùng khách xuống tàu rồi. Chẳng cần làm cấp tập cái hình người đàn ông với chữ Gentleman nữa. Toàn thu dọn đồ nghề, bút lông, mấy hộp sơn màu đem vào cất ở góc phòng, đi ra hành lang phía sau nhìn ra cầu cảng. Thuyền cũng đứng đó. Cũng nhìn về phía ba người chủ và khách đang leo lên cầu thang dốc ngược bước vào cabin tàu HL 406 sơn đỏ đỗ áp cầu, nổi dềnh lên để lộ gần hết mạn tàu vì tàu đã bốc hết hàng, vì nước lớn. Ôm cây ba số, Thuyền vẫn còn chưa hết xúc động, nắm tay Toàn, gần như kéo Toàn đi:

- Ra căng tin uống cái gì thôi chứ sếp?

Hai người ra căng tin. Bia ướp lạnh nhưng vẫn bỏ thêm đá. Thuyền bóc bao ba số, ấn một bao vào tay Toàn:

- Sếp cầm lấy hút, sếp mới về xí nghiệp à? Thảo nào lên trên phòng ban bao nhiêu lần hôm nay mới gặp sếp. Cái thằng cha Robert Lee này chính tên là Lý Sinh Keng. Trời ơi cứ tưởng đón ông Robert Lee mắt xanh mũi lõ nào cơ. Cọ rửa nhà xí tí chết. Khớ khớ. Không còn tí mùi nước đái nào. Xách nước bại cả tay. Lại xịt thêm dầu thơm nữa. Nếu tôi biết nhà doanh nghiệp Mỹ Robert Lee chính là Lý Sinh Keng thì tôi đã đề nghị tổng giám đốc huy động thêm một số anh chị em đái thêm một chập nữa. Thì thế. Khớ khớ. Điều đó rất có lợi cho xí nghiệp. Có thể vì vậy mà hợp đồng được ký kết cũng nên. Khớ khớ. Bởi vì doanh nhân Mỹ Robert Lee này đặc biệt thích mùi nước đái. Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Thật mà. Ớ trong tù chúng tôi gọi là Keng nhọ mõm. Vì mồm lúc nào cũng như nhọ, cũng như vừa ăn sắn nướng xong mà không chùi mép. Còn tôi to béo nên anh em gọi là Thuyền lợn. Gọi vui thôi không ác ý gì đâu. Với lại cái tên ghép ấy mà. Hai thằng tù với nhau mãi. Bố ấy lại không có tiếp tế. Vợ bỏ. Tôi thì nhận tắc đều đều. Có gì tôi cũng chia, cũng cho ăn chung. Thì sếp tính cả toán chỉ có hai anh em người Hải Triều thôi, nhiều nhặn gì cho cam. Tù lâu hơn tôi. Mà bây giờ khá thế đấy. Thủy thủ bên Vosco. Cũng buôn lậu. Tôi ra, tay ấy còn tù. Mà bây giờ nên người. Ha ha. Sướng. Ai ngờ đâu mình lại quen với thượng khách của tổng giám đốc. Khớ khớ. Lại nghĩ đến cái nhà xí. Cái nhà xí trong tù ấy mà, không thể tả được đâu. Khai chảy nước mắt nước mũi. Thế mà chẳng mấy tối tôi với Lý Sinh Keng tức là cái ông Robert Lee này này không đun đun nấu nấu ở trong ấy. Mà đâu chỉ mình mình đun. Bao nhiêu người nữa chứ. Khói không mở được mắt. Mồ hôi mồ kê. Thế. Thì thế mà lại... Ai ngờ lúc vượt biển ra đi là đồ phản quốc mà khi trở về lại danh giá thế!

Suốt từ ấy cho đến trưa gần như chỉ một mình Thuyền nói. Thuyền nói hai người gặp nhau ở trại Tân Lập. Rồi cùng chuyển lên trại Phố Lu. Được cái không bị quản chế. Mà là tù tự giác. Tự giác có đỡ hơn nhưng cũng đói lắm. Thích nhất là gánh phân hay lấy lá làm phân xanh. Nhổ được sắn. Nhổ của trại. Nhổ của đồng bào. Thuyền cười lớn:

- Một hôm tôi với ông Robert Lee này này đang cùng anh em ngồi nhổ cỏ vườn rau của trại, nắng quá, nắng hơn hôm nay, có mấy bà người dân tộc địa phương đi qua, tự nhiên Nhọ mõm lại ngẩng lên rền rỉ: Bà ơi! Bà thấy chúng tôi tù thế này bà có thương không hở bà? Một bà trả lời đốp chát: Thương gì mà thương. Có nương sắn của chúng tôi các anh nhổ hết còn thương cái nỗi gì? Thế là tất cả chúng tôi cười ầm. Khớ khớ. Nhưng có cái này phải công nhận. Gầy gò nhỏ bé, làm việc nặng không được, thường xuyên phải ăn mức mười ba cân (gạo), nhưng Lý Sinh Keng à không phải Robert Lee khơ khớ khớ cứ quên thôi này cái tên Robert Lee nghe hay nhỉ, nghe rất Mỹ mà dễ gọi. Lại vẫn giữ được cái họ Lý của mình. Lý là họ phải không sếp. Còn Robert là tên. Phương T ây người ta để tên trước họ có đúng không sếp. Ây là tôi cũng nghe nói thế chứ chữ Tây chữ Tàu là tôi mù tịt. Đang nói cái gì nhỉ? À. Nhớ ra rồi. Đang nói đến trong tù Lý Sinh Keng yếu nhưng rất nhanh. Rất tháo vát. Tôi chưa từng đi đến một bản làng nào, một nhà dân nào thế nhưng Keng nhọ mõm đâu cũng biết. Trùm phe đấy. Anh muốn mấy quả trứng gà bồi dưỡng? Có ngay. Một chai con con mật ong? Nói sáng là chiều có. Kể cả rượu cũng có. Bỗng dưng thấy đã là mùa mít, thèm mít và cần chục múi ư? Có ngay. Cứ vải mưa đem đi là khi về cái gì cũng có. Không vải mưa thì tiền mặt cũng được. Tiền mặt chứ không phải tiền âm phủ đâu. Còn những bánh mì, thịt kho, thuốc lá là những thứ có sẵn trong trại không nói làm gì. Những thứ ấy có thể mua bằng tiền âm phủ [1].

Và Thuyền cười sảng khoái:

- Khớ khớ khớ. Thật là hay! Tự nhiên sáng nay lại được điều đi giồng bảng tin cho sếp mới được gặp bạn cũ. Chiều nay ta cố gắng hoàn thành sớm nhé. Để anh em tôi có thời gian hàn huyên tí chút. Chắc chẳng thể tránh được một chầu lên bờ xuống ruộng.

Buổi chiều ba người, cả Nhược nữa kết thúc công việc sớm. Lúc Toàn và Nhược đang mỗi người một đầu bảng tin giữ cho nó đứng thẳng và Thuyền đang ngắm lại một lần nữa trước khi chèn gạch vỡ, đá vụn vào sáu cái chân cột dưới tán lá gốc bàng và chờ Robert Lee thì tổng giám đốc bước tới. Ông hất hàm về phía Thuyền:

- Đồng chí... gì nhỉ?

- Báo cáo thủ trưởng tôi là Thuyền. Lê Văn Thuyền ạ.

- Đồng chí quen Robert Lee đấy à?

- Vâng ạ.

- Lâu chưa?

- Khoảng hai chục năm rồi ạ.

- Ông ấy vượt biên năm nào?

- Năm bảy chín.

- Ớ nhà ông ấy làm gì?

- Báo cáo thủ trưởng. Thủy thủ bên Vosco.

- Tôi mời ông ấy đi ăn cơm tối. Nhưng ông ấy nói đã hẹn với đồng chí rồi. Có gì trong bữa ăn, đồng chí nói thêm vào dùm nhé. Ông ta còn ngại khoản máy lạnh trên tàu 600 mã lực. Hơi bị cũ. Nếu ký được hợp đồng, mình sẽ phải đầu tư phục hồi sửa chữa chứ. Đồng chí đang là lực lượng dự trữ à? Bao lâu rồi? Được. Được. Để rồi sẽ tính...

Chẳng biết giám đốc sẽ tính cái gì. Mà có tính cái gì chắc cũng là điều tốt đẹp thôi. Với lại khi sếp chưa nói thì mình chưa thể hỏi. Buổi tối với Robert Lee rồi cuối cùng cũng đến. Ô tô đón Thuyền từ sân xí nghiệp.

Thuyền bước lên xe trước con mắt ngạc nhiên, thèm thuồng của bao nhiêu người đang thập thò ở cửa buồng làm việc, chờ kẻng tan tầm. Một bữa ăn sang trọng tại nhà hàng. Hai người trong phòng nhỏ. Xúp vây cá khai vị. Rượu uyt ki. Tôm hùm nướng. Thịt nhím xào sả. Một cô phục vụ váy ngắn đứng chờ ở phía ngoài cửa phòng sẵn sàng bước vào khi có lệnh của thực khách. Cuối tiệc còn có một phong bì với ba tờ đô. Họ không nói chuyện làm ăn. Mà nói chuyện tù. Bắt đầu là câu chuyện sếp Thắng quát tháo về cái toa lét khai mù, chính Thuyền phải xách nước từ xưởng lạnh lên cọ rửa để đón ngài Robert Lee. Rồi đến cái nhà mét trong tù. Ông khách Mỹ gốc Việt ngả ưỡn người trên ghế làm ra vẻ mơ màng:

- Ôi! Cái mùi khai đến cay mắt ấy.

Và cười rinh rích:

- Ông về nói với tổng giám đốc là tổng giám đốc làm hỏng hết việc rồi. Nếu còn cái mùi khai nhớ nhung thân thương ấy thì hợp đồng đã được ký ngay buổi chiều. Ông tư bản Mỹ gốc Việt này đặc biệt thích mùi khai. Sở dĩ hợp đồng còn lằng nhằng chưa ký là vì không có mùi khai đấy.

Lại cười:

- Mai tôi phải vào toa lét xem thế nào mới được.

Một lúc sau Robert Lee như nói một mình:

- Giờ đây nghĩ lại vẫn rợn người. Giá ngày ấy ông nghe tôi, đi với tôi có phải bây giờ khác rồi không?

Thuyền như đã suy nghĩ rất nhiều lần chuyện ấy:

- Ngày ấy đi là không có ngày về. Đi là mắc tội phản quốc. Mà tôi còn bố mẹ già. Đâu biết đi rồi lại được về, trở thành Việt kiều yêu nước, đón tiếp trọng vọng thế này. Với lại con người tôi ông biết. Chỉ ăn no vác nặng thôi. Đâu tháo vát nhanh nhẹn được như ông.

Rồi Thuyền kể những ngày lao vào kiếm sống sau khi mãn hạn tù. Mình thì xí nghiệp đã cho trở lại đi làm. Nhưng bữa đực bữa cái không đủ sống. Còn bốn cái tàu há mồm nữa phải lo. Tối đêm, tôi với thằng nhớn ra bờ sông khiêng về nhà một miếng sắt không biết nằm ở đấy từ bao giờ. Đục khuôn dép. Khuôn dép trẻ con. Vì tôi đã nghiên cứu trẻ con là hay đánh rơi dép nhất. Người ta chỉ làm khuôn hai chiếc một, giỏi lắm là hai đôi bốn chiếc, tôi chơi cái khuôn tám chiếc. Thế rồi bốn đứa con lớn bé chặt băm dép cũ, màu xanh để riêng, màu đỏ để riêng, màu nâu để riêng, hòa xà phòng bột rửa sạch, xếp vào khuôn nướng trên bếp than. Khổ lắm. Vất vả suốt đêm. Mùi nhựa khía vào hai lỗ mũi, bật máu. Kiếm ăn được. Đàng hoàng. Nhưng ông phòng thuế đến. Thì cũng chỉ mất bữa rượu thịt chó thôi. Nhưng ông công an đến, truy hỏi nguồn gốc của miếng thép làm khuôn thì gay rồi. Đòi xuất trình hóa đơn chứng từ của công ty kim khí hóa chất. Đây là mặt hàng nhà nước độc quyền quản lý. Ông thấy khó sống không? Miếng thép vất ở bờ sông không sao. Mình đem về làm một việc có ích cho xã hội thì lôi thôi. Biết các ông vòi đây, muốn ăn đây. Lại phải một chầu thịt chó nữa thêm vào mỗi ông hai đôi dép trẻ con. Làm được mấy năm, khi hàng nhựa Trung Quốc vào, phải chuyển sang làm máy xay xát.

Ông Việt kiều yêu nước chia sẻ với bạn:

- Tôi sang bên ấy những ngày đầu cũng vất vả lắm. Vất vả không kém trong tù. Nhưng rồi lại nghĩ phải làm sao mở mày mở mặt với đời. Thế là lại cố. Lúc nào thư thái tôi kể cho ông nghe.

Nhấp một ngụm rượu, ông tiếp:

- Vấn đề là phải có nhiều tiền ông Thuyền ạ. Tôi đã rút ra được điều ấy. Ai có tiền người ấy là chủ xã hội. Tiền mua được tất cả. Cái gì tiền không mua được thì nhiều tiền sẽ mua được. Có tiền, người ta sẽ phải phủ phục dưới chân ông. Không có tiền ông chỉ là cục cứt. Trước khi về đây, tôi đã nằm ở Hà Nội nửa tháng. Gặp nhiều kiều khác cũng về tính nước làm ăn. Gặp nhiều quan chức cỡ bự. Tôi biết. Không gì mạnh bằng tiền. Người ta nói thế này thế nọ nhưng ai cũng thích tiền. Nói một đằng nhưng nghĩ và làm một nẻo. Nói cách mạng nhưng thích tiền. Đô la là nhất. Tiền Việt cũng không đứng hạng nhì đâu. Bởi thế bạn ơi, bạn phải có tiền. Tôi có thể biếu ông dăm ba trăm thậm chí một nghìn đô. Nhưng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Cái chính là tạo ra công việc cho ông để ông kiếm được tiền. Nếu việc mua cá đá của công ty Biển Đông suôn sẻ, ông sẽ là đại diện cho tôi ở đây. Được không?

Một điều Thuyền chưa hề nghĩ tới. Một điều trên cả tuyệt vời cầu mong thành hiện thực. Cầm cái phong bì ba trăm đô của bạn, Thuyền nghĩ ngay tới cái máy xay xát cọc cạch đặt ở nhà, không ngày nào không giở chứng. Thằng Trịnh con nhớn anh luôn miệng kêu ca cằn nhằn, chân tay bê bết dầu mỡ vì sửa chữa. Kỳ này phải thay một cái máy mới hoàn toàn. Mô tơ ngoại. Đi lại đường dây điện. Thay mới cái cầu dao điện ba pha. Thiếu thì lấy tiền bán máy cũ bù vào...

Chú thích:

[1] Tiền âm phủ: Số tiền được ghi trong một tờ giấy có xác nhận của giám thị trại tù.