← Quay lại trang sách

Việc thất lạc văn bản và sự đánh giá sai lầm về Bình Nguyên Lộc

Có sự trùng hợp lạ lùng giữa ngày sinh và mất của Bình Nguyên Lộc: cùng ngày 7/3, cách nhau 73 năm: 7 và 3 như hai yếu tố biện chứng của định mệnh, như thể nhà văn đã quyết định chấm dứt đời mình trong vòng bẩy, ba; ba, bẩy. Một thân phận ba chìm bẩy nổi gắn bó với chữ nghiã, khổ đau vì chữ nghiã: suốt đời bị thất lạc tác phẩm. Ngay từ năm 1965, khi trả lời phỏng vấn của Nguyễn Ngu Í (trong cuốn Sống và viết với...) Bình Nguyên Lộc cho biết: Tác phẩm đầu tay tựa đề Hương gió Đồng Nai viết trong gần mười năm (1935-1942), là "tập truyện ngắn và tùy bút bát ngát hương đồng gió nội, và dẫy đầy màu sắc địa phương này, đã được hai nhà thơ có tiếng đương thời: Xuân Diệu và Huy Cận tán thưởng" (Nguyễn Ngu Í, sđd, trang 220), bản thảo bị thất lạc trong lúc tản cư, khi Pháp trở lại chiếm Tân Uyên cuối 1945. Dấu vết Hương gió Đồng Nai chỉ còn lại một truyện ngắn và một tuỳ bút (đăng báo khoảng năm 1943). Mấy chục năm sau, Bình Nguyên Lộc còn có lời rao trên báo, tìm người nào tình cờ giữ được trọn vẹn hay một phần bản thảo, rồi ông đã thử viết lại Hương gió Đồng Nai, nhưng cả hai cố gắng đều vô hiệu.

Phù sa, tác phẩm thứ nhì, khởi viết năm 1942, cũng chung số phận như Hương gió Đồng Nai, nhưng may mắn hơn, đoạn mở đầu đã đăng trên báo Thanh Niên năm 1943, với tên Di dân lập ấp (khiến độc giả biết đến ông) và về sau ông viết lại được độ 1/6 tác phẩm, cho in trên tuần báo Nhân Loại. Theo lời Bình Nguyên Lộc, Phù sa là "tác phẩm quan trọng nhất" của ông, làm sống lại cuộc "tiến vào Nam" của đồng bào Nam-Ngãi để dựng nên miền Lục Tỉnh (sđd, trang 221).

Trong những sách đã xuất bản, Bình Nguyên Lộc phân biệt: loại sách không thương mại, mà ông cho là không mấy ai đọc, in thật ít, còn ghi thêm không bao giờ tái bản, như cuốn Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966) Thịnh Ký, in 658 bản. Thầm lặng (1967) cũng được ông liệt vào loại này; ngoài ra còn cuốn Thu hẹp thiên nhiên, mới thấy quảng cáo sẽ in 569 cuốn, và nói cũng không bao giờ in lại, nhưng có lẽ đã không ra đời được, vì không thấy các tư liệu về Bình Nguyên Lộc nhắc đến cuốn sách này. Tập Nhốt gió (1950) khi ông còn sống cũng không tái bản. Số phận bộ sách biên khảo Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (đã in một phần năm 1971), sau 75, được Mai Thảo thuật lại trong bài Nhân cách Bình Nguyên Lộc. Theo lời người thân kể, khi rời nước năm 1985, ông bị lạc một va-li tác phẩm và bản thảo, những gì còn vớt vát lại của một đời văn.

Mặc dù với những khó khăn về văn bản như thế, ở hải ngoại đã có những cố gắng đáng kể trong việc bảo tồn những tác phẩm giá trị của Bình Nguyên Lộc:

Nhà xuất bản Văn Nghệ của Võ Thắng Tiết đã in lại hai tập truyện ngắn Ký thác (1986) và Cuống rún chưa lìa (1987). Tạp chí Văn Học, do Nguyễn Mộng Giác chủ biên, ra số đặc biệt tưởng niệm nhà văn, sau khi ông qua đời (số 18, tháng 7/1987), trong có bài nhận định đặc sắc của Hồ Trường An về Bình Nguyên Lộc và in lại bài Bình Nguyên Lộc trả lời phỏng vấn Nguyễn Nam Anh (Nguyễn Xuân Hoàng), đã in trên báo Văn trước 75, với những thông tin chính xác về tác giả.

Năm 1999, nhà xuất bản An Tiêm của Thanh Tuệ ở Paris đã in tuyển tập Bình Nguyên Lộc, với lời giới thiệu của Võ Phiến. Rất tiếc, trong bài tựa Bình Nguyên Lộc, một nhân sĩ trong làng văn, Võ Phiến không cho độc giả thấy cái hay của Bình Nguyên Lộc (lý do làm tuyển tập), mà ông lại kín đáo chứng minh sự "bất tài" của Bình Nguyên Lộc, với những nhận định giễu cợt mỉa mai như: "Cả tháng trời, Sơn Nam đọc từng đoạn (Nhốt gió) như thế, và ông lâng lâng. Thì ra ông có đọc truyện đâu! Tay cầm cuốn truyện, ông đọc...ca dao!

Như thế, Sơn Nam quả là tay sành sõi. Ông Cao Huy Khanh, ông Nguyễn Văn Sâm đọc truyện của Bình Nguyên Lộc, và không mấy bằng lòng...", "Chúng ta có cảm tưởng ông Bình Nguyên Lộc có hảo ý muốn làm vui người đọc. Hảo ý không thuộc về nghệ thuật" (Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, một nhân sĩ trong làng văn, Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, An Tiêm, Pháp, 1999, trang XVII, và XIX). Rồi Võ Phiến kể lại chuyện Nhất Linh khi vào Nam, chỉ mời Bình Nguyên Lộc cộng tác làm báo chứ không đề cử vào Tự Lực Văn Đoàn như đã làm với Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam; lại cũng là một cách gián tiếp nhờ Nhất Linh để hạ bệ Bình Nguyên Lộc. Sự thực Võ Phiến có thể đã đoán sai ý Nhất Linh: Nhất Linh coi Bình Nguyên Lộc là đồng nghiệp chứ không phải là đàn em như Nhật Tiến, Linh Bảo... mà "cho" vào Tự Lực Văn Đoàn. Hoặc như việc Võ Phiến trích lại những phê phán sai lầm của Cao Huy Khanh và Nguyễn Văn Sâm về Bình Nguyên Lộc, coi như là những nhận định chính xác để đánh giá Bình Nguyên Lộc, là một việc làm không tốt, bất cẩn, nhân cái sai làm hai.

Ông Cao Huy Khanh là người Huế, cũng như một số rất đông người Bắc, không muốn hoặc không hiểu, không thông cảm cái mà ông gọi là "tâm lý bình dân" của người Nam, mà ông cho là "tủn mủm" và "dễ dãi" trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Mà Đò dọc cũng không phải là "sự thành công duy nhất và quá hiếm hoi so với sự nghiệp sáng tác đồ sộ của tác giả", như ông Cao đã nhận định. Sở dĩ Đò dọc được ông khen là bởi viết theo lối Bắc, kiểu Tự Lực Văn Đoàn, hợp với "gu" của ông.

Năm 1999, nhà xuất bản Trẻ ở Sài Gòn, cho in lại cuốn "Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc", do Sơn Nam viết tựa. Ai cũng biết Sơn Nam là "học trò" của Bình Nguyên Lộc. Trong bài này, ông Sơn Nam biến Sài Gòn thành "vùng tạm chiếm" và ông biến Bình Nguyên Lộc thành "nhà văn tiểu tư sản yêu nước" và ông có ý "biện hộ" dùm. Nhưng điều đó cũng chưa đáng giận bằng việc họ đã bỏ Mấy lời nói đầu trong bản Thịnh Ký (1966) có lẽ do chính Bình Nguyên Lộc viết, rất ngắn, nhưng có đầy đủ thông tin về văn bản, như sau:

"Nhà văn Bình Nguyên Lộc có viết một thiên điều tra phóng sự dài, nhan là "Thám hiểm đô thành", gồm nhiều bài ngắn và chia ra làm hai phần.

Phần thứ nhứt, cho đăng báo hằng ngày, kể những chuyện lạ của Sàigòn mà chưa báo nào nói đến, chẳng hạn như những bài "Ma máy đá", tả cái viện cơ thể học đầy dẫy xác chết ngâm thuốc của trường Y khoa Đại học, chẳng hạn bài "Người chuột cống", theo dõi những người phu của ty vệ sinh đô thành họ chun xuống hệ thống cống tối thui và chằng chịt như mạng nhện để vét bùn đất cho thông cống.

Phần thứ nhứt ấy, tác giả không muốn in thành sách.

Đây là phần thứ hai mà tác giả đã cho đăng riêng ở các tạp chí. (Nhân Loại, Thời Trân, Sáng Tạo, v.v..) không có tính cách xã hội, hoặc "giựt gân" như các bài của phần thứ nhứt mà chỉ nên thơ hoặc đượm một tý triết lý vụn vặt nào đó thôi".

Thịnh Ký

Theo lời nói đầu này, thì Những bước lang thang... chỉ là phần "không giựt gân", tức là "hiền lành" hơn, có thể không hay bằng phần thứ nhất? Vậy sưu tầm lại phần thứ nhất, sẽ rất bổ ích cho văn bản học và văn học.

Sự thất lạc tác phẩm, kèm theo việc bị đánh giá sai lầm, và thêm khó khăn thứ ba: chưa có công trình tập hợp toàn bộ sáng tác đồ sộ của ông, một nhà văn có bút lực dồi dào như Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương (trên dưới 100 tác phẩm), để lựa phần chủ yếu, phần đáng kể nhất. Chính Bình Nguyên Lộc cũng đã "tâm sự" với Nguyễn Văn Sâm: "Viết hai, ba chục bài mới mong thấy được một bài khá" (Nguyễn Văn Sâm, Xin được lần cuối gọi bằng anh, Văn học, Cali, số 18, tháng 7/1987, trang 67). Nếu dùng sự lựa lọc kỹ càng này của Bình Nguyên Lộc, thì qua trên dưới 1000 truyện ngắn, tùy bút ông đã viết, cũng có trên dưới 50 "bài khá", (không chỉ là một, hai, như ý kiến của Nguyễn Văn Sâm). Với con số 50 tác phẩm hay đã quả là đáng kể của một đời cầm bút, không phải nhà văn nào cũng có thể đạt được.