QUYỂN THỨ NHỨT - TƯỢNG TRỜI 1. PHÉP BÍ-MẬT XEM SẮC TRỜI VÀ SẮC MÂY TRONG TIẾT NGUYÊN ĐÁN
Tiết Nguyên-đán, đúng tháng giêng, ngày mồng một, giờ tý lên lầu bí mật xem bốn phương.
Nếu thấy khi mây màu vàng thi năm ấy thóc lúa trúng mùa lớn.
Nếu thấy khí mây màu trắng thì có việc binh-biến xảy ra, nếu chỉ có một vầng mây hiện ra một mình ở hướng nào thì ở hướng ấy có nạn đao-binh.
Nếu thìn bốn phương không thấy mây mà chỉ thấy hai màu đỏ trắng liền nhau, thì màu đỏ tượng trưng cho máu, màu trắng tượng-trưng cho chất kim (gươm, đao) hai màu ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy sẽ dấy loạn.
Màu xanh là điềm có nạn gió bão, mầu đen là điềm có nạn mưa lụt ; nước nào có điềm ấy thì phải phòng-bị
2. PHÉP XEM KHÍ HẬU BỐN MÙA:
NGÀY LẬP-XUÂN: Vào giờ dần, giờ mão, nếu ở hướng đông có mây trắng hiện ra như là trời thòng binh-khí xuống, xứ nào có điềm ấy thì sẽ sinh loạn lớn.
Nếu mây có hình-đạng như thanh kiếm treo ngược, đầu trên bằng, đầu dưới nhọn, thì xứ ấy sẽ chết hết, đó là điềm xấu. Mây ấy ở cao thì nạn còn chậm, mây ấy ở thấp thì nạn chết mau đến. Trong mọi trường-họp đêu phải lấy trăm phép toán thêm vào để biết chính-xác hơn.
NGÀY LẬP-HẠ: Vào giờ tý, giờ ngọ, nếu thấy ở hướng nam có mây đỏ như là binh trời bày việc chiến-tranh, hoặc giống như chỉa dáo, có hình dạng như khăn tay màu hồng thì ở hướng ấy có việc đao-binh xảy ra trong năm ấy, không đợi tới năm sau.
NGÀY LẬP THU: Vào giờ thân, giờ dậu, nếu thấy ở hướng tây có mây trắng mọc thẳng ngay lên, nếu ở tiết lập-thu thì trong năm ấy về hướng tây có binh dấy loạn.
Nếu vào giờ ngọ mà có mây trắng chắn ngang giữa trời như là tiến binh lập trận thì sẽ có binh dấy loạn.
NGÀY LẬP ĐÔNG: Vào giờ tý, giờ sửu, nếu ở hướng bắc có mây trắng hình dạng như chim thì ở dưới hướng ấy trong năm tới, vào tháng tư sẽ có việc đao-binh.
Nếu mây trắng có hình-dạng giống như Hồ-binh bày trận tiến binh thì năm tới vào thắng bảy xứ ấy sẻ nòi loạn. Hễ nghe có loạn thì phải chuẩn-bị gấp rút việc binh-mã
3. PHÉP XEM MÂY BAY ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI.
Mây là khí núi nhân vì gặp đá mà bốc lên, nên gọi là mây. Sách Cấm-thư nói rằng: Ngày Nguyên-đán vào giờ tốt bậc chủ-tướng nên đi lên lầu xem-xét.
Bốn phương trong sáng mà chỉ có một đám mây xanh hiện ra giữa. trời thì thiên-hạ sẽ đói kém mất mùa.
Nếu lâ mây trắng, sẽ có quốc-tang.
Nếu là mây đỏ sẽ có đổ máu, thiên-hạ đều dấy binh, các giống mọi rợ ở hướng đông và ở hướng bắc sẽ xâm-phạm biên-giới.
Nếu là mây đen, sẽ có mưa lụt.
Nếu là mây vàng đó là điềm lành.
Nếu ở bốn phương trời có gió bụi màu đỏ bay đầy núi sông thì sẽ có mưa.
4. PHÉP NGHE SẤM SÉT ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI.
Sấrn là trống của trời, nổ ra thì làm cho người ta sợ-hãi tới muôn dặm.
Nếu tiếng sấm phát ra hòa nhã khác thuờng thì trong năm ấy ở hướng có tiếng sấm sẽ được an-ổn.
Nếu sấm dội kinh-khủng thì bên chủ nên chuẩn-bị việc binh vì sẽ có giặc gây loạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng chấn (đông), sẽ thấy cây-cối tốt-tươi, năm lành, nhiều sương.
Nếu sấm động ở hướng ly (nam), sẽ có đại-hạn (nắng lâu không mưa).
Nếu sấm động ở hưóng khôn (tây-nam), sẽ có tai-nạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng đoài (tây), sắt sẽ trở nên quí-báu, nạn đao binh sẽ xảy ra.
Nếu sấm động ở hướng càn (tây-bắc), đó là điềm xấu.
Nếu sấm động ở hướng cấn (đông-bắc), sẽ có nhiều bệnh và nạn đao-binh.
Nếu sấm động ở hướng khảm (bắc), năm ấy sẽ mưa nhiều.
Tại nơi đang hành-binh, nếu quân đang sợ-hãi thì lúc nghe sấm sẽ thua lớn; nếu nghe sấm trước rồi mới sợ hãi sau, quân sẽ bi chấn-động và kiếm chỗ ẩn-núp.
5. PHÉP NGHE SẤM NGÀY NGUYÊN ĐÁN:
Tiếng sấm hòa-nhã thì thiên hạ an-ổn và được mùa.
Nếu ánh chớp chói mắt, sấm nổ điếc tai thì thiên-hạ sẽ rối-loạn, nên lo gấp việc binh-bị, thấy điều ấy chẳng khá khinh-thường.
Sấm-sét là do âm-dương biến-chuyển và cảm-ứng nhau mà sinh ra.
Tướng đang hành binh, nếu sấm nổ đằng sau lưng thì binh sẽ gặp nhiều điều tốt lợi ; nếu sấm nổ ở trước mặt thì binh sẽ gặp điều xấu lắm.
Nếu sấm nổ trước rồi mới thấy sét đánh thì tiểu nhân thịnh mà quân-tử suy ; nếu thấy sét đánh trước rồi mới nghe sấm thì quân tử thịnh mà tiểu-nhơn suy.
Sấm thuộc âm, sét thuộc dương.
Tháng giữa xuân (tháng hai) sấm bèn phát, tháng giữa thu (tháng tám) sấm bèn ẩn, nếu nghịch thời sẽ có việc đao binh nổi lên.
6. PHÉP XEM HƯỚNG GIÓ THỔI LÊN TRỜI HAY XUỐNG ĐẤT
Gió từ hướng khảm (bắc) – thổi lại gọi là hắc-tuyền-phong (gió suối đen): năm ấy không có nạn đao-binh, nhân dân bị bệnh-tật và giữa năm chết về bệnh ôn dịch.
Gió từ hướng cấn (đông-bắc) thổi lại gọi là huỳnh-tuyền-phong (gió suối vàng): năm ấy không có việc binh, cọp beo xuống đòng nội làm tổn hại nhân dân.
Gió từ hướng chấn (đông) thổi lại gọi là vọng-nữ-phong (gió gái trông chồng): năm ấy không có việc binh, sinh~mạng của nhân dân bị nguy-khốn.
Gió từ hướng đoài (tây) thổi lại gọi là kim-liên-phong (gió sen vàng): năm ấy không cô việc binh, gái phạm vào tâm tư của trai, dân.chúng bị chết về bệnh ngặt.
Gió từ hướng ly (nam) thổi lại gọi là hỏa-huyết-phong (gió máu lửa): năm ấy nắng lâu không mưa, có nạn đao-binh.
Gió từ hướng khôn (tây-nam) thổi lại gọi là thai-bệnh-phong (gió bệnh thai nghén): năm ấy không có việc binh, đàn-bà nhiều người chết vì sinh-đẻ.
Gió từ hướng càn (tây bắc) thổi lại gọi là tang-phục-phong (gió tang-phục): năm ấy người người chét gấp, có dân nổi loạn.
Nếu hành-quân tới trận, gặp năm tuổi của tướng-súy, gió từ hướng sao Thái-tuế thổi lại gọi là đại sát phong (gió giết nhiều) thì tai-hoạ đang đến gấp.
7. PHÉP BÍ MẬT DẠY CÁCH XEM GIÓ TÁM HƯỚNG
* Thứ nhứt: Gió dữ sắc đỏ: Nếu trong nưởc có hiền thần bị tù-tội, thì người ấy thình-lình thấy sắc đỏ hiện lên khắp mặt.
Bỗng dưng trời đất biến ra hồng
Hiền-sĩ bất ngờ vuớng ngục gông
Kỳ-hạn không ngoài trăm ngày tới
Nước chia hai xứ quyết tranh hùng
* Thứ hai: Gió bắc sắc vàng: nhìn không thấy người, ắt có trung-thần bị tội chết: gió từ hướng bắc thình-lình thổi tới làm cát bụi sắc vàng tung bay là đó vậy:
Bỗng dưng trời đất biến ra vàng,
Tất có trung thần phải chết oan,
Hạn tới không ngoài ba tuần nhật,
Bốn phương yêu quái khởi làm càn.
* Thứ ba: Gió sắc đen: Hoặc ban đêm hoặc ban ngày, trời quang tạnh mà mặt trời, mặt trăng và các sao vẫn không sáng, gió ấy bỗng thổi đến làm cho trời đất u ám ; trong vòng 300 ngày (10 tháng) sẽ có mọi-rợ miền nam và miền đông xâm-lấn biên giới.
Gió đen bỗng thổi giũa trời quang
Trời đất sao trăng phải tối-tăm
Trăm ngày chưa tới là kỳ-hạn
Man ải ắt khởi cuộc xâm lăng!
* Thứ tư: Gió giết giặc: (sát tặc phong): Hoặc tại bản-dinh hoặc ở giữa trận, gió làm cho nhành reo, cây gãy, chốc chốc lại thổi, phầng kè ngày đêm, mỗi ngày đi được ba mươi dặm.
Giữa trận tùy thời ta hay theo
Nhành rung cây gãy, gió kêu gào
Ba quân gấp tiến theo chiều gió,
Gặp thời giao-chiến, lập công nhiều!
* Thứ năm: Gió dữ thừa lệnh quỷ-thần (thần lệnh ác-phong): Bỗng thấy gió ẩy uyển~chuyển thồi tới luôn cả ngày đêm.
Giữa ngày bỗng nổi gió thần-phong,
Nhổ trại, cầm thương tất gặp hung,
Trước đường khòng quá muời dặm đất,
Phải phòng bên địch phục binh-hùng!
* Thứ sáu: Gió làm bại binh: (Bại binh-phong): Hoặc mau hoặc chậm, thồi ngược tới trước mặt ta, chốc chốc lại thổi, trận này kbó định:
Dàn binh bỗng thay gió bại binh,
Rát mặt bụi mù gió lớn kinh.
Ba quân truyền lệnh lui binh-mã
Giao-chiến thời này ắt hại mình!
* Thứ bảy: Gió nóng ác hại (ác-noãn-phong): Gió nóng như lửa xuyên qua người, đang yên-ồn bỗng nổi lên, về mùa đông cũng chảy mồ-hôi, trong bụng hơi nóng trong vòng trăm ngày thiên-hạ sẽ đổ máu.
Bỗng trận cuồng-phong thổi nướng người
Nóng ran sĩ tốt đẫm mồ hôi
Trăm ngày chưa tói, phòng đánh lớn
Máu đổ xương rơi ắt loạn rồi!
* Thứ tám: Gió mưa ác hại (Thủy-ác-phong): Gió phá-hoại tới ruột xương người đang yên-lặng bỗng gió thổi tới vùn vụt, lạnh buốt như sương tuyết, sĩ-tốt không mở mắt ra được Binh-mã phải giải-tán, chắc-chắn sẽ thua.
Lạnh thấu ruột xương, ấy thủy-phong,
Thuyền, cầu thủy trận cũng toi công,
Ba quân truyện lệnh không nhìn rõ
Binh phục bên đường. phải khá phòng.
8. PHÉP XEM GIÓ LÀNH:
Khi có gió lành (báo điềm lành) thì ngày trong sáng, hơi gió hòa-nhã ; theo phần ngày nào, phần tháng nào, phần giờ nào, hoặc theo phương sinh-khí nào mà tới thì lòng người vui đẹp, nước được điều tốt lành.
Về ngày, âm đương là điều bí-yếu: các ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc về hướng phần dương ; các ngày ất, binh, kỷ tân, quí thuộc về hướng phần âm. Hướng quí là hướng dương.
9. PHÉP XEM GIÓ DỮ:
Khi có gió báo nạn dữ thổi tới, thì ngày đó nặng nề u-ám, khí trời tối-tăm, bế-tắc, tiếng gió gào thét như là giận-dữ, cát bay lá rụng, gió theo phương dữ mà thổi đến. Nên gấp lo việc binh-bị để giữ kỹ, thế nào cũng có giặc tới.
10. PHÉP BÍ MẬT XEM CHÍN THỨC MÂY:
* Thứ nhất: Trời có sắc xanh biển: Trời mờ-mit, hỗn-độn, xanh thẩm, thấy mặt người cũng có màu xanh ắt là giặc tây nhung xâm-phạm biên-giới, nước trung-ương chẳng được yên-ổn:
Thứ nhút, trời xanh thẩm lạ-lùng
Đế Vương lên điện hỏi Chu-Công,
Hiện ra điềm ấy chừngh nủa tháng,
Biên-cương ắt phạm giặc Tây-Nhung.
* Thứ nhì: Trời có sắc hồng: Điềm này chủ về việc đại-tướng, hiền-than bị tù hãm, đang yên-ổn mà bỗng đựng sinh ra như vậy Khi sắc hồng ấy hiện ra thì trung-thần bi chết oan.
Tự-nhiên trời đất biến ra hồng,
Hiền-sĩ không ngờ vướng ngục gông,
Ví bằng chẳng có cuồng-phong khởi
Trăm ngày hai nước cũng giao-phong
* Thứ ba: Trời có sắc vàng: Trung-thần, mưu-sĩ bị chết oan. Nếu dùng chín người để xem-xét sắc trời ấy thì mọi người đều nhận ngay là màu vàng.
Đang yên, tròi đất biến ra vàng,
Ắt có trung-thần phải chết oan,
Máu lan đầy đất trong muời tháng,
Yên, Tần, yêu-quái khởi làm càn.
* Thứ tư: Trời có sắc đen: Điềm này chủ về việc trong vòng ba trăm ngày sắp tới sẽ có kẻ. âm-mưu làm loạn. Bấy giờ sắc trời u-ám.
Đang yên, trời đất biến đen sì
Ắt có kẻ nao mưu loạn chi
Một tháng mà thôi, cơn loạn lạc
Tự -nhiên dập tắt chớ hồ nghi.
* Thứ năm: Trời làm sợ hãi vô cớ (sợ hụt): Trời phát ra tiếng nổ như sấm, bay ra vang dội tới ngàn dặm. Tự-nhiên trời đang quang-đãng mà sinh ra như vậy.
Cây có điều hòa lặng-lẽ bao
Tiếng vang như sấm tự trời cao
Kinh-hoảng không quá ba tuần nhựt
Bốn phương cùng khởì việc binh-đao.
* Thứ sáu: Trời mở cửa : Nghe tiếng động lan ra giống như tiếng trời mở cửa. Bậc đế-vương đăng đàn bái tướng, trong một trăm ngày lệnh chúa hưng vượng, bèn trước hết dấy binh dẹp luạn. Nếu trong một tuần nhật, cửa trời mở về phương Ngọc-nữ thì có tiếng nổ như sấm nhưng không phải sấm.
Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh,
Ngọc-nữ phương trời cửa mở nhanh
Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm.
Trăm ngày chưa tới ắt ra binh,
Bỗng dưng phá giặc ngoài biên-cảnh,
Hưng lệnh trời ban xuống nước mình,.
Để khiến ba quân tùy tướng lệnh,
Vua bèn bái tướng mới xuất-chinh.
* Thứ bảy: Trời thòng binh khí : Khí mây thòng xuống ở chân trời, như là dao cưa. Nên gấp tiến binh, đánh thì thắng lớn.
Mây trời hình:dạng giống cưa dao,
Thòng xuống chân trời, giặc bại mau
Hướng ấy tuớng binh cùng quyết chiến,
Bốn phuơng tám sớ tất hàng đầu.
* Thứ tám: Khí trời không điều hòa: Bốn mùa đều trái thời-tiết:
Hè làm tiết đông, bắc-phiên phản,
Đông làm tiết hè, ắt chinh nam,
Thu làm tiết xuân, giặc đông dậy,
Xuân làm tiết rhu, giặc tây tràn.
* Thứ chín: Trời sinh biến ở hướng càn: Chủ về việc hiền-thần khó trách luận để nhà Vua nghe theo. Mặt trời và mặt trăng khi sắp lặn còn cao một trượng thì có sắc đỏ.
Nhật nguyệt máu hườm, biến sắc đây
Âm dương có biến, chủ không hay
Tư-thiên rõ việc, bàn sai quấy,
Ngoài cuộc nói vào xét chẳng sai.
11. PHÉP XEM HAI MẶT TRỜI MỌC KỀ NHAU.
Hai mặt trời cùng mọc thì thiên-hạ sẽ động binh, kẻ vô-đạo bị tiêu diệt, hai quân đánh nhau có sức mạnh ngang nhau.
Hai mặt trời cùng mọc thì sẽ có đánh lớn, thành-trì bị phá-hoại, đồng nội chia ra nhiều phần mà đánh nhau.
Hai mặt trời mọc kề nhau ở nước nào thì nước ấy gặp loạn lớn, nạn dữ.
Chất tinh trắng của mặt trời rơi xuống đất xứ nào thì ở xứ ấy bên chủ (quốc-vương, chánh-phủ) phải thất-bại.
Dưới mặt trời có ánh-sáng giống như chân chim thì xứ bên phe chủ bị tai-ương, việc binh thất-bại, quân-đội tiêu-diệt.
Trong mặt trời có vết đen thì vua tôi chống đối nhau, trăm họ gặp việc xấu.
12. PHÉP XEM CÁC LOẠI NHẬT-THỰC:
Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời.
Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối tháng) và ngày sóc (đầu tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm lấn nhau, đi lạc đường tới ôm nhau, đô gọi là nhật-thực.
Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu làm hại nhà Vua, ắt là mặt trăng đi ngược án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn.
Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không sáng nữa đó gọi là mặt trời bệnh. Mặt trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng dưng không sáng nữa, đó gọi là mặt trời chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu gặp nạn lớn, các gian-thần đều nổi lên khuấy rối.
Nếu mặt trờí đỏ như máu thì tbiên-hạ sẽ có loạn lớn.
Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất thành.
Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì binh-gia nghỉ việc giao chiến.
Vào tháng tám mùa thu mà có nhật thực thì. có việc đao-binh xảy ra và phe khách được thắng.
Vào tháng mười hai mà có nhật-thực, điều ấy chủ về việc có binh dấy loạn.
Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì rợ man (phía nam) và rợ di (phía đông) nổii loạn, nên gấp lo việc binh-bị
Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ thì sẽ có việc đao-binh.
Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh, tân, nhâm, quí thì không nên tính tới việc binh.
13. BÀI THƠ MẶT TRĂNG LẠC ĐƯỜNG:
Trăng lạc giữa trời, chúa chẳng hay
Hậu-cung say đắm may nàng phi,
Ba tuần chưa tới binh liền dấy
Âm dương sai lạc khiến vong nguy.
14. PHÉP BÍ-MẬT XEM TRĂNG:
Mặt trăng mới mọc ma đi về hưởng bắc đó gọi là “cung giương” thì có kẻ âm-mưu vào thành khuấy rối.
Nếu mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen chắn ngang như chữ nhất thì trong ngày ấy có mưa.
Mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen ở giữa có dạng như cầm thú thì:
- nếu vào ngày giáp ất sẽ có hại về hướng đông;
- nếu vào ngày bính đinh sẽ có hại về hướng nam;
- nếu vào ngày mậu kỷ sẽ có hại về nước trung-uơng;
- nếu vào ngày canh tân sẽ có hại về hướng tây;
- nếu vào ngày nhâm quí sẽ có hại về hướng bắc.
Trong mặt trăng có sao lọt vào sẽ thua quân, chết tướng.
Có mây trắng như rắn rít xuyên qua mặt trăng thì sẽ có tướng chết, quân thua.
15. PHÉP BÍ-MÂT XEM TRĂNG TRÒN KHUYẾT:
Mặt trăng giống như tròn nhưng chẳng phải tròn, giống như khuyết nhưng chẳng phải khuyết, lặn mà chẳng lặn, ắt có gian-thần mưu phản.
Mặt trăng giống như tròn mà chẳng phải tròn, bờ trên và bờ dưới đều bị khuyết, mọc tại Phù-tang, lặn tại Phù-tang, đó là điềm loạn-thần làm cho nước nhà bại-vong.
16. PHÉP XEM CÁC LOẠI NGUYỆT-THỰC:
Binh chưa đánh mà đã gặp nguyệt-thực thì đến khi đánh, binh ấy sẽ được thắng lớn.
Binh đang ở trong mà đã gặp nguyệt thực, điều ấy chủ về việc có tai ương.
Mặt trăng đang tròn đầy mà bi ăn, điều ấy chủ về việc binh sẽ bị chết ở đồng nội.
Mặt trăng bị ăn một bên thì tướng súy và bề tôi không còn giữ đạo.
Mặt trăng bị ăn ở phía dưới thì công việc cửa tướng-quân mất phép-tắc, lề-lối.
Nguyệt-thực mà có màu xanh thì ngũ-cốc trở nên quí-báu, híếm-hoi, thiên~hạ đói kém.
Nguyệt-thực mà có mầu đỏ thì lúc khởi đầu lợi cho pbe khách.
Nguyệt-thực mà có màu vàng thì có việc lập chư-hầu thành vương-quốc.
Mặt trăng bị ăn hết thì sẽ có quân thua tướng chết.
Hai mặt trăng cùng mọc thì thiên-hạ có loạn lớn.
Mùa xuân bi ăn về phía đông, mùa hè bị ăn về phía nam,mùa thu bị ăn về phía tây, mùa đông bị ăn về phía bắc thì xứ gặp nguyệt-thực sẽ có điều lo buồn về việc binh.
Mặt trăng đang bị ăn mà mọc lên thì chỗ đóng quân bi tổn hại, lại thêm nữa có sự mất mát đồ-đạc, tướng chết, binh tan.
17. PHÉP XEM MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG ĂN NHAU:
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày dần, ngày mão, thì lúa rẻ, nhândân chiu thiệt-hại, nên khởi binh trước, lợi chủ mà hại khách.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày ngọ, ngày mùi, điều ấy chủ về việc có trâu ngựa chết, binh dấy loạn tại phía tây đánh về phía đông.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày thân, ngày dậu, trong năm này có khí độc gây ra nhiều bệnh.
Nguyệt-thực xảy ra trong ngày hợi, điều ấy chủ về việc thiếu-thốn ngũ-cốc.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày tý, ngày sửu, điều ấy chủ về việc đói-kém, loạn-lạc.
18. PHÉP BÍ MẬT XEM ÂM DƯƠNG XÂM PHẠM NHAU:
Đường mặt trăng mọc lên và đi theo là:
- thanh-đạo về mùa xuân;
- bạch-đạo về mùa thu;
- xích-đạo về mùa hạ;
- hắc-đạo về mùa đông ;
- huỳnh-đạo trong bốn tháng 3, 6, 9, 12.
Nếu đế-vưong trái đạo thì mặt trời và mặt trăng chạy trái đường, lấn âm, ôm dương, nên gọi là âm dương lấn nhau, thiên-hạ sẽ có loạn lớn.
Nếu mặt trăng và mặt trời cùng đi ngang nhau, tbì có quan đại-thần âm-mưu nổi loạn.
Nếu hai mặt trăng chọi nhau, điều ấy chủ về việc có hai vua tranh thiên hạ.
Nếu mặt trời và mặt trăng chọi nhau điều ấy chủ về việc trong nước có đổ máu, thiên-hạ có loạn lớn.
19. PHÉP BÍ-MẬT XEM ÂM DUƠNG BỐN MÙA:
Mặt trời có sắc trắng thì trong vòng chín ngày có rợ tây nhung xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng có sắc trắng thì hiền-thần bi lao tù. Mặt trời có sắc đỏ thì có âm-mưu dấy loạn trong. nước.
Mặt trăng có sắc đỏ thì loạn âm.
Đây là cách xem nhật nguyệt, âm-dương chậy loạn:
Mặt trời hè không theo nam-đạo, mặt trời đông không theo bắc-đạo thì trong vòng trăm ngày rợ man. (phía nam), rợ di (phía đông) sẽ xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng đi về hướng bắc gọi là mặt trăng trương cung, thì có kẻ âm-mưu vào thành dấy loạn, bên ngoài giặc phiên. sẽ dấy binh xâm-đoạt nước trung-ương.
20. PHÉP BÍ-MẬT XEM SAO THÁI-BẠCH, THẦN-TINH:
Sao mai gọi là Thần-tinh, sao hôm gọi là Thái-Bạch đều là một sao.
Sao Thái-Bạch bi vầng sáng mặt trăng che khuất, điều ấy chủ về việc tướng súy phải chết.
Sao Thái Bạch được mặt trăng chở ở trên, thì trong năm ngày sẽ có dấy binh.
Tháng tám ngày mồng ba, sao Thái.Bạch đi sai đường về phía bắc thì sẽ có binh đánh nhau.
Sao Thái-Bạch đi về phía bắc thì nước nhỏ rối loạn.
Sao Thái-Bạch đi về phía nam thl nước lớn rối loạn.
Sao Thái Bạch ở trong mặt trăng cũng được gọi là nguyệt-thực.
Sao Thái Bạch là điềm xấu của nhà Vua.
Sao Thái-Bạch mọc bên trái mặt trăng thì nước âm rối loạn, mọc bên phải mặt trăng thì nước dương rối loạn.
Sao Thái-Bạch dính liền với mặt trăng thì trong ba năm có việc đao-binh, mất đất.
Sao Thái-Bạch chạy vào mặt trăng thì tướng – quân phải chết.
Sao Thái-Bạch bảy ngày không mọc thí sẽ có nạn đao-binh dữ-dội..
Nếu sao Thái-Bạch lên giữa trời mà sáng ra thl ba quân tan-vỡ, loạn-lạc.
Nếu trên có một đế-tinh và dưới có một cá-tinh thẳng hàng với nhau thì các quan phản Vua.
Nếu sao Thái-Bạch xuất hiện không đúng lúc thì Vua Tôi cùng khởi binh.
Sao Thái-Bạch mờ tối thì chủ-tướng gặp việc xấu.
Sách Cấm-Thư chép rằng: Thái-Bạch Thần-Tinh cùng một ngày mọc lên ở hướng đông, ắt có dấy binh ở hướng đông ; nếu cùng mọc lên ở hướng tây, ắt có binh dấy lên ở hướng tây.
Nếu cùng mọc ở hướng đông mà không gần nhau, từ hai mươi tới ba mươi ngày không lặn vào hướng đông-nam thì có điều binh nhưng không đánh ; đến mùa xuân, mùa hạ sẽ có dấy binh.
Thần-Tinh và Thái-bạch mọc ở hướng đông, gần nhau trong khoảng ba bốn thước thì từ bai mươi tới ba mươi ngày có binh đánh lớn.
Thần-Tinh đi theo Thái-Bạch ở hướng đông thì có dấy binh ở khắp nơi, từ đó đến sáu mươi ngày sẽ có dấy binh ồ-ạt.
Thái-Bạch từ Thần-Tinh đi ra thì lợi chủ.
Nếu mọc ở hướng đông thì lợi cho việc đánh hướng tây,binh ở phía đông được thắng lớn ; nếu mọc ở hướng tây thì lợi cho việc đánh hướng đông, binh ở phía tây được thắng lớn.
Thái-Bạch và Thần-Tinh cùng mọc ở hướng đông; Thái-Bạch mọc trước, Thần-Tinh theo sau rồi vượt qua Thái-Bạch mà đi trước thì xứ ở dưới có binh làm phản, không tới một năm sẽ thấy ứng-nghiệm.
Thần-tinh mọc ra như tờ giấy mà Thái-Bạch chưa mọc thì tướng-quân phải chết; thấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ẩy có quân tan, tướng chết.
Thái-Bạch mọc ở hướng đông, Thần-Tinh ở phía trước mà không mọc thì trong vòng năm mươi ngày có âm-binh dấy loạn trong nước.
Thái-Bạch có vầng sáng thì trong thiên-hạ có ân-xá cho kẻ phạm tội.
Thần-Tinh có vầng sáng thì sẽ có dấy binh và mưa lụt.
Vầng sáng của Thái Bạch và Thần-Tinh mà có ánh sáng màu vàng che khuất. thì sẽ có quân tan, tướng chết.
(Thiếu 21)
22. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO LÀNH:
Sao Cảnh Tinh là sao đức-tinh. Sao ấy lớn có hình-đạng như nửa mặt trăng hiện ra vào ngày ba mươi, mồng một. Nước nào thấy được sao ấy thì gặp nhiều điều tốt lành.
Sao Chu Tinh có sắc vàng, ánh sáng rực rỡ, nước nào thấy được thì gặp điều tốt lành, ai thấy được thì người ẩy gặp điều tốt lành.
Sao Hàm-Dự sáng như sao Tuệ, nước nào thấy được thì gặp điều vui mừng, rợ man phía nam vào cống-hiến.
23. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO BẮC-ĐẨU:
Bắc-đẩu có sao nhỏ thì thiên-hạ không yên, mọi việc chiến tranh cùng dấy lên.
Bắc đẩu có khí đỏ xâm- nhập, điều ấy chủ về việc quân phải thua lớn, nếu cử binb g~p thì có hại.
Nếu có mây trắng xâm-nhập, điều ấy chỉ về việc đổ máu nhiều.
Nếu có mây như xà-mâu ăn vào, điều ấy chủ về việc có loạn lớn, nên ra ngoài.
Nếu có mây hình-dạmg giống như con heo, điều ấy chủ về việc binh sợ-sệt vô cớ.
Nếu có khí vàng tản-mác ở đông, tây thì không nên dấy binh động chúng.
Nếu có vết đỏ, đầu lợt, đuôi đậm, điều thấy chủ về việc quân được thắng lớn.
Nếu có màu đỏ lạt thì đại thần làm loạn.
Nếu có mây ở phía đông và tây thì phe chủ cử đại-binh, phe khách nên lui về mà giữ.
Nếu có mây đỏ xây thành bốn phía, điều ấy chủ về việc dấy binh lớn.
Nếu hiện ra ban ngày thì xã-tắc không yên, bậc vương*giả gặp tai-biến.
Nếu đang xoay trận mà đêm sau xem lại, thấy sao Bắc-đẩu có mây xuyên vào thì ba mươi ngày sau lại bị một lần lữa.
Nếu đêm mồng một đầu năm có sắc hồng bọc quanh sao Bắc-đẩu, thì hai mươi ngày sau sẽ có tướng chết quân bại.
24.- PHÉP BÍ MẬT XEM SAO KHÁCH :
Các sách Thiên-văn đều nói: Chẳng phải thường được thấy mà tình-cờ mới thấy được sao ấy trên trời, thì đó là sứ-giả của Thiên- Tinh Đại-đế: sao ấy là then chốt của bí thuật xem điềm tốt xấu.
Hoặc mọc ở hướng tây, hoặc nằm ở hướng đông. Nếu thấy sao ấy trong nhiều ngày thì có vỉệc to tát xảy ra mà lại có họa lớn; nếu chỉ thấy sao ấy trong ít ngày thì có việc xảy ra nhưng không quan-trọng lắm mà tai-họa chỉ nhỏ nhẹ mà thôi.
Hoặc hình-dạng biến ra sừng nhọn ắt là có âm-mưu gây loạn; nếu sắc của nó mờ lạt, ắt là có binh nổi loạn.
Nếu có sao (nhỏ) mà thấy nó có sắc trắng thì sẽ có việc binh-đao xảy ra trong địa-phận của nó ; nếu sao ấy có ánh-sáng như gai nhọn thi xứ ở đỉnh bị quân tan, tướng chết, bị giặc lấn đất, đoạt ấp, thiên-hạ loạn lớn.
Hễ hằng ngày thấy sao ấy trên trời, không đúng vào giờ khắc nào cả, thì sao ấy gọi là sao khách.
25. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO CHỔI:
Ngày xưa kinh của họ Sở nói rằng: Sao Tuệ gọi là sao chổi, hoặc dài vài thước, hoặc dài một trăm thước, sao ấy hiện ra ắt có dấy binh.
Khi nhà Vua sắp gặp tai-họa mà sao chổi hiện ra, nếu sao ấy chỉ về hướng nào thì đánh thắng về hướng ẩy, chỉ vào ta thì ta gặp điềm xấu, chỉ vào người thì người chịu thất-bại, đều phải phân-biệt đia-phận mà đoán.
Sao chổi dài ba trượng thì việc xấu kẻo dài một năm, dài bốn trượng trở lên thì việc xấu kéo dài ba năm, dài một trăm năm mươi trượng trở lên thì việc xấu kéo dài bảy năm.
Sao chổi hiện ra ắt là nước địch chịu việc binh-biến. Sao chổi lớn thì tai-họa lớn, sao chổi nhỏ thì tai-họa nhỏ, đuôi sao chổi mà cong giống như lá cờ thì nhà Vua đẹp giặc bình-định bốn phương.