ĐẠO LÀM TƯỚNG (2)
86.- NĂM ĐIỀU KIỆN:
Phép dùng binh buộc năm điều kiện: nhân ái, tín thực, trí mưu, dõng cảm, uy nghiêm, thiếu một điều cũng không thể được.
87.- BA THẾ:
Việc hành binh có ba thế lớn: một là trời, hai là đất, ba là người.
Thế trời là trời trăng trong sáng, năm sao đúng độ, sao chổi không sinh, thời tiết điều hòa.
Thế đất thuận lợi là thành cao, bờ dốc, nước rộng ngàn dặm, cửa đá, động hẹp, đường đi khúc khuỷu như ruột dê.
Thế người là chúa thánh, tướng hiền, ba quân giữ lễ, sĩ tốt tuân mệnh, lương thực và giáp trụ đầy đủ, chắc chắn.
Tướng giỏi thì nhân thời trời, dùng thế đất, dựa vào lợi người, cho nên hướng vào nơi nào địch cũng không đánh lại được, đó là nhờ hoàn toàn vậy.
88.- NĂM TÀI VÀ MƯỜI LỖI:
Tướng có năm tài và mười lỗi.
- Năm tài ấy là dũng, trí, nhân, tín, trung.
Dũng thì không để cho ai xúc phạm mình.
Trí thì không rối loạn.
Nhân thì thương dân.
Tín thì không lừa dối.
Trung thì không hai lòng.
- Mười lỗi là:
Dõng cảm mà khinh chết.
Làm gấp rút mà lòng nôn nóng.
Tham lam mà mong lợi.
Nhân ái mà bất nhẫn.
Có mưu trí nhưng lòng khiếp sợ.
Tín thực nhưng hay tin người.
Có tánh liêm khiết nhưng chẳng thương người.
Có mưu trí nhưng lòng trễ biếng.
Có tánh cương nghị nhưng cậy mình.
Có tánh nhu nhược mà thích dùng người.
Dõng cảm mà khinh chết thì có trở nên hung dữ.
Làm gấp mà lòng nôn nóng thì có thể bị làm chậm trễ.
Tham lam mà mong lợi thì có thể hối lộ (đút lót).
Nhân ái mà bất nhẫn thì có thể khuấy nhọc.
Có mưu trí nhưng lòng khiếp sợ thì có thể dồn vào chỗ cùng quẫn.
Tín thực mà hay tin người thì có thể bị lừa dối.
Liêm khiết mà không thương người thì có thể bị khinh lờn.
Có mưu trí nhưng lòng trễ biếng thì có thể bị đánh úp.
Cương nghị nhưng cậy mình thì có thể thờ người.
Nhu nhược mà thích dùng người thì có thì có thể bị lấn hiếp.
89.- DÙNG NGƯỜI:
Phải biết sử dụng những kẻ có mưu trí, những kẻ dõng cảm, những kẻ tham lam, những kẻ ngu ngốc.
Những kẻ mưu trí thì thích lập công.
Những kẻ dõng cảm thích thực hành chí hướng của mình.
Những kẻ tham lam thích chạy theo lợi lộc.
Những kẻ ngu ngốc không nhìn thấy cái chết.
Tùy theo tánh tình của mỗi người mà dùng họ, đó là phép dùng người vi diệu của quân lữ.
90.- TÁM ĐIỀU TỆ HẠI:
Trong nghề làm tướng có tám điều tệ hại:
Thứ nhứt: Tham lam cầu mong không biết chán
Thứ hai: Ghen ghét kẻ hiền tài
Thứ ba: Tin kẻ dèm pha, ưa kẻ nịnh hót
Thứ tư: Liệu lường về người mà chẳng liệu lường về mình
Thứ năm: Do dự mà không quyết định được
Thứ sáu: Mê say rượu ngon, sắc đẹp
Thứ bảy: Thích việc dối trá nhưng lòng hãi sợ
Thứ tám: Nói năng bừa bãi mà chẳng giữ lễ nghi.
91.- PHẨM CÁCH CỦA TƯỚNG SÚY:
Người tướng có nhiệm vụ nguy hiểm, bởi vì nhiệm vụ quan trọng ắt phải nguy hiểm. Cho nên người tướng giỏi không ỷ mạnh, không cậy thế, được thương yêu mà không mừng, bị lăng nhục mà không sợ hãi, thấy lợi mà không ham, thấy rượu ngon sắc đẹp mà không mê say, một lòng liều thân vì nước mà thôi.
92.- ĐIỀU MONG ƯỚC:
Bốn điều mong ước là:
- Đánh thì mong dùng được kế lạ.
- Mưu đồ thì mong được kín nhẹm.
- Quân lính thì mong được yên tĩnh.
- Lòng người thì mong được chuyên nhất.
93.- TƯỚNG GIỎI:
Đức tánh của người tướng giỏi là: cứng rắn mà không bị bẻ gẫy, mềm mỏng mà không bị vày vò. Cho nên có thể dùng yếu để chống mạnh, dùng mềm để chống cứng. Mềm mãi, yếu mãi thì sẽ bị tước đoạt. Cứng mãi mạnh mãi thì sẽ bị thất bại. Không cứng, không mềm, đó là lẽ thường của đạo.
94.- HAI TÁNH XẤU: KIÊU CĂNG VÀ BIẾNG NHÁC:
Người tướng không thể kiêu căng. Kiêu căng thì thất lễ. Thất lễ bị người rời bỏ. Bị người rời bỏ thì quân lính sẽ phản loạn.
Người tướng không thể biếng nhác, nếu biếng nhác thì việc tưởng thưởng không được thi hành chu đáo, sĩ tốt sẽ không hết lòng vâng mệnh, quân đội sẽ không lập công, nước nhà sẽ bị hư hoại, giặc cướp sẽ đầy rẫy.
Khổng Tử nói: Nếu có người tài giỏi như ông Chu Công, nhưng kiêu căng và biển lận thì kẻ ấy không dùng được, không cần xét tới các đức tánh khác.
95.- NĂM ĐỨC TÍNH:
- Cao quý, trong sạch để khuyên đời
- Hiếu kính để nêu danh
- Tín nghĩa để giao du với bạn bè
- Nhân ái để dung người
- Hết sức để lập công.
Đó là năm đức tính của người tướng.
96.- TÁM VIỆC XẤU:
- Có mưu trí mà không phân biệt được phải trái.
- Biết lễ nghi mà không dùng được bậc hiền lương.
- Làm chính trị mà không chỉnh đốn được hình pháp.
- Giàu mà không cứu giúp được kẻ nghèo.
- Có trí thức mà chẳng có thể chuẩn bị khi việc chưa thành hình.
- Lo toan mà không phòng bị được việc nhỏ kín.
- Khi thành đạt mà không thể tiến cử kẻ mà mình biết khả năng.
- Thua mà không thể tự mình ngăn mình đừng hủy báng.
Đó là tám việc xấu.
97.- KHINH NGƯỜI:
Kinh thư nói rằng: Khinh lờn người quân tử thì không thể được lòng hết mọi người, khinh lờn kẻ tiểu nhân thì không thể dùng hết người.
98.- PHÉP DÙNG BINH:
Điều cốt yếu trong việc dùng binh là: cầm nắm lòng dạ của mọi anh hùng, thi hành nghiêm chỉnh việc thưởng phạt, bao gồm nghề văn nghiệp võ, kiêm cả hai thuật cứng mềm, xem hết các thuyết lễ nghĩa, trước dùng đức rồi sau mới dùng võ lực, yên tĩnh như cá lặn, di chuyển mau lẹ như con rái cá, phá tan chỗ kín liền của giặc, bẻ gãy chỗ mạnh của giặc, dùng cờ xí rực rỡ, ban hiệu lệnh bằng chiên trống, lui như núi dời, tiến như gió mưa, dấy binh như xuống dốc, đánh mạnh như cọp dữ, bức bách nhưng dung nạp địch, lấy lợi để dụ địch, dùng lễ để giữ địch, tự hạ mình để địch sinh kiêu căng, kết thân để ly gián địch, làm cho ta thêm mạnh, mà trái lại làm cho địch suy yếu.
99.- CHÁNH TRỊ CỦA TƯỚNG SÚY:
Ai bị nguy khốn thì làm cho họ yên ổn, ai sợ sệt thì làm cho họ vui lòng, ai phản nghịch thì đem họ trở về, ai bị oan ức thì giải cứu họ, ai cường thắng thì đè nén họ, ai yếu đuối thì nâng đỡ họ, ai nhiều mưu kế thì gần gũi họ, ai dèm pha thì lật tẩy họ, ai được của cải thì cho họ, không ỷ sức mạnh mà khinh địch, không cậy giầu có để tỏ vẻ kiêu ngạo đối với người, không cậy được yêu mến để thị uy, tính toán trước rồi sau mới dấy binh, biết chắc thắng rồi sau mới đánh, được ngọc lụa không được dùng làm của riêng, được con trai, con gái không được tự sai dùng. Như thế, khi sửa trị và ban bố mệnh lệnh mọi người đều tình nguyện chiến đấu, dùng binh không đổ máu nhiều mà địch tự thất bại vậy.
100.- TAY CHÂN CỦA TƯỚNG SÚY:
Bậc tướng súy ắt phải có kẻ tay chân làm tim bụng, có kẻ tay chân làm tai mắt, có kẻ tay chân làm móng răng. Nếu không có người làm tim bụng thì cũng giống như người đi đêm không đuốc, không có người làm tai mắt cũng giống như ở chỗ tối tăm không biết cách vận động, không có người làm móng răng cũng giống như người đói ăn vật độc không thể nào khỏi chết. Cho nên người tướng giỏi phải có những kẻ nghe rộng, nhiều mưu trí làm tim bụng, phải có những kẻ trầm lặng, dò xét kỹ càng, cẩn thận, kín đáo làm tai mắt, phải có những kẻ gan dạ, mạnh dạn làm móng răng.
101.- TRÍ VÀ NGU:
Dùng ngu để chống trí là nghịch, dùng trí để chống ngu là thuận, dùng trí để chống trí là có cơ mưu.
102.- BA CƠ HỘI:
Có ba đường lối:
- Thứ nhất là công việc;
- Thứ hai là thế lực;
- Thứ ba là tình cảm.
Cơ hội của công việc đã xẩy tới mà không ứng biến được, là không có trí thức.
Cơ hội của thế lực đã chuyển tới mà không mưu đồ được là không có tài năng.
Cơ hội của tình cảm đã phát sinh mà không thi hành được là không mạnh dạn.
Người tướng giỏi ắt nhân cơ hội mà xếp đặt để thắng trận.
103.- LỀ LỐI:
Khi ra quân, phải có lề lối. Mất lề lối thì phải gặp việc bất lợi. Lề lối có 15 thứ là:
Thứ nhứt: Biết lo liệu, nghĩa là rành rẽ về việc gián điệp
Thứ hai: Biết nói, nghĩa là giữ gìn lời nói
Thứ ba: Mạnh dạn, nghĩa là đánh với số đông mà không nhiễu loạn
Thứ tư: Liêm khiết, nghĩa là thấy lợi mà vẫn nghĩ đến điều nghĩa
Thứ năm: Công bằng, nghĩa là thưởng phạt đều nhau
Thứ sáu: Nhẫn nhịn, nghĩa là giỏi chịu điều xấu
Thứ bảy: Khoan hồng, nghĩa là dung nạp người
Thứ tám: Tín thực, nghĩa là nhận lời một cách khó khăn
Thứ chín: Cung kính, nghĩa là giữ lễ đối với các bậc hiền tài
Thứ mười: Sáng suốt, nghĩa là không dung nạp các điều sai lầm
Thứ mười một: Cẩn thận, nghĩa là không làm điều trái lẽ
Thứ mười hai: Nhân ái, nghĩa là giỏi nuôi dưỡng sĩ tốt
Thứ mười ba: Trung nghĩa, nghĩa là liều thân vì nước
Thứ mười bốn: Giữ phận, nghĩa là biết dừng, biết đủ
Thứ mười lăm: Có mưu trí, nghĩa là tự lo cho mình rồi sau lo cho người
104.- TƯỚNG LÀ GỐC:
Vả lại nước lấy binh làm gốc, binh lấy tướng là gốc, sĩ tốt lấy tướng làm chủ. Bởi thế muốn có binh mạnh để đánh thắng hoặc giữ vững thì trước hết phải biết dùng tướng, tìm được người phò tá rồi sau mới có thể thị uy giữa thiên hạ, làm cho mọi rợ bốn phương phải tới hàng phục, đó là gốc lớn của kẻ được nước.
105.- PHÒNG THỦ VÀ TẤN CÔNG:
Tướng chỉ biết dùng phép chính mà không dùng phép kỳ, đó là tướng phòng thủ.
Tướng chỉ biết dùng phép kỳ mà không dùng phép chính, đó là tướng chuyên về chiến đấu (tấn công).
Tướng chuyên về kỳ hay chuyên về chính đều có thể giúp nước được cả.
106.- QUAN SÁT:
Khi dấy binh, lập dinh, đánh trận, hãy xem cờ xí lay động thế nào, lắng nghe tiếng chiêng trống, tính toán ngày giờ để xem điềm tốt xấu, tùy theo cách chuyển vận của năm hành, tùy theo sự ra vào của thần vị, để tùy cơ ứng biến mà dùng binh.
107.- THIÊN TƯỚNG:
Nếu có bậc thiên tướng thì quân địch không biết quân ta từ đâu mà tới, thực giống như thần linh dùng binh. Quân ta không biết tướng ấy làm gì. Tướng ấy động hay tĩnh đều có tiết độ phương hướng, nắm sự thắng bại trong tay, thấy trước lòng dạ của trời đất quỷ thần nên có thể làm cho binh sĩ yên lòng.
108.- TƯỚNG CẦM NẮM HẾT THẢY:
Trong biên giới, việc của trăm họ đều giao cho tướng.
Ngoài biên giới, việc của nước ngoài cũng giao cho tướng.
109.- KHÔNG CẦN DÙNG BINH:
Ngạn ngữ nói rằng:
Tướng văn, tướng võ hiểu rành việc nước thì không cần dùng binh.
110.- ĐẠI TƯỚNG:
Biết mềm, biết cứng; tài hoa mà mạnh dạn; dõng cảm mà mưu cao; tròn nên có thể vận chuyển; quay về mà ngay thẳng; thông hiểu khắp muôn loài mà lòng muốn giúp thiên hạ; người thông thạo các điều trên có thể gọi là bậc đại tướng.