ĐẠO LÀM TƯỚNG (4)
138.- CỜ XÍ:
Vua Thái Tôn hỏi: Về phương sắc lấy năm cờ làm chính chăng? Dùng cờ phan vẫy xông vào đánh làm kỳ chăng? Lấy phân hợp làm biến, lấy số đội cho thích nghi chăng?
Tịnh nói: Hạ thần dùng theo phép xưa, phàm ba đội hợp lại thì cờ dựa vào nhau mà không tréo nhau, năm đội hợp thì hai cờ tréo nhau, mười đội hợp thì năm cờ tréo nhau. Thổi tiếng giốc, mở năm lá cờ tréo nhau thì một lại tản ra làm mười, mở hai lá cờ tréo nhau thì một lại tản ra làm năm, mở thứ cờ dựa nhau mà không tréo nhau thì một lại tản ra làm ba. Binh tản thì lấy hợp làm kỳ, binh hợp thì lấy tản làm kỳ. Dặn dò đôi ba phen rằng ba tản năm hợp rồi rở về chính. Như thế bốn sư, tám đuôi có thể tập hợp được, phép sử dụng đội ngũ mới thích nghi được.
Vua Thái Tôn khen hay.
139.- PHÉP HOẠCH ĐỊA:
Vua Thái Tôn hỏi: Sách Thái Công nói rằng: Đất vuông hoặc 600 bước, hoặc 60 bước, đều tiêu biểu cho 12 giờ, thuật ấy như sao?
Tịnh đáp: Vạch đất vuông 2200 bước, là hình khai phương. Mỗi bộ chiếm đất vuông vức 20 bước, bề ngang 5 bước đặt một người, bề dọc 4 bước đặt một người. Tất cả 2500 người chia ra 5 phương, là không địa và bổn xứ. Cái gọi là khoảng trận là chỗ chứa trận vậy. Võ Vương đánh Trụ, dùng quân hổ bôn là 3.000 người, mỗi trận 6.000 người, cộng lại là 3 vạn quân, đó là phép hoạch địa (chia đất) của Thái Công.
Vua Thái Tôn hỏi: Trận Lục Hoa của khanh chiếm bao nhiều đất?
Tịnh đáp: Đất Đại Duyệt vuông vức 1300 bước, nghĩa là Lục Trận chiếm 400 bước chia ra hai khu đông tây. Không địa 1200 bước là chỗ dạy đánh. Hạ thần thường dạy 3 vạn quân sĩ, mỗi trận 5.000 người, lấy một trận để dạy phép cất dinh trại, lấy năm trận để xếp đặt hìnhn thế vuông, tròn, cong, thẳng, nhọn. Mỗi trận có năm lần biến, tổng cộng là 25 lần biến trở lên.
Vua Thái Tôn hỏi: Trận Ngũ Hành như thế nào?
Tịnh đáp: Vốn theo 5 phương, sắc mà đặt ra tên ấy, còn 5 trận vuông, tròn, cong, thẳng, nhọn là do địa hình mà ra. Nếu không tập sẵn 5 thứ trận ấy, làm sao có thể gặp địch được? Thuật cầm binh là thuật dả dối, nên tạm gọi là ngũ hành. Bề ngoài thì lấy nghĩa ở thuật số là tương sinh, tương khắc, mà thực ra bề trong hình thế của binh là giống như nước, tùy theo hình dạng của đất đai mà tìm đường chảy, ý nghĩa là như thế.
140.- CÁCH TẬP LUYỆN:
Người ta thường chết ở chỗ mà mình bất lực, thường thất bại ở chỗ bất tiện cho mình. Cho nên trong phép dùng binh, sự tập luyện phải đứng đầu.
- Một người học đánh, dạy lại vạn người biết đánh.
- Vạn người học đánh, dạy lại thành ba quân biết đánh.
Lấy ta ở gần chờ đánh địch từ xa tới.
Lấy ta nhàn chờ đánh địch mệt.
Lấy ta no chờ đánh địch đói.
Binh ta đang bày viên trận, ta buộc chúng đổi thành phương trận.
Binh ta đang ngồi, ta buộc chúng đứng dạy đi.
Binh ta đang đi, ta buộc chúng đứng lại.
Binh ta đang đi qua trái, ta buộc chúng đi qua phải.
Binh ta đang quay ra trước, ta buộc chúng quay ra sau.
Binh ta đang phân tán, ta buộc chúng tụ hợp lại.
Binh ta đang kết hợp, ta buộc chúng giải tán.
Mỗi việc biến dịch ấy đều phải tập luyện cho quen thuộc rồi mới sử dụng binh ấy được, đó là phận sự của tướng súy.
141.- KIỂM SOÁT VIỆC TẬP LUYỆN:
Binh sĩ thường ngày chìm đắm trong cảnh tiện nghi, an lạc, không được tập quen sự cần lao. Nay muốn sửa lại sự đồi trụy, luyện gân cốt, làm cho mạnh khỏe thì không gì bằng thi hành phép tắc then chốt sau này.
Từ nay trở về sau phải kiểm soát xem các quan đốc phủ, đề trấn có theo lệ cử hành việc tập luyện cho đều hay không? Mỗi năm vào khoảng thu đông, phải cử hành hai ba lần để tập cho lính quen việc lao khổ và khuyến khích sĩ khí, phép ấy rất hay.
142.- THƯỞNG PHẠT TRONG KHI TẬP LUYỆN:
Về giáo lệnh trong việc binh, việc chia dinh lập trận, nếu có ai không nhận được lệnh mà cứ tùy ý tới lui, thì buộc họ vào tội trái lệnh. Ai cần đi trước, hoặc đi sau, hoặc đi bên phải, hoặc đi bên trái, thì nên dạy họ phải đi như thế nào. Việc răn dạy được chu đáo, thì người thủ lãnh được thưởng. Không răn dạy cũng đồng một tội như là trái lời dạy vậy.
Khi lâm trận, một ngũ (toán 5 người) phải hành động như một người.Nếu có một người không chịu liều chết tiến đánh quân địch thì người răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp. Mỗi thập (toán 10 người)phải tự giữ gìn, nếu mất một người mà chín người không liều chết tiến đánh quân địch thì người răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp. Từ thập trở lên cho tới tỳ tướng nếu có ai trái phép thì người răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp.
Người ngũ trưởng (cầm đầu ngũ) dạy bốn người kia, lấy ván làm trống, lấy ngói làm chiêng, lấy trúc làm cờ. Nghe đánh trống thì tới, thấy hạ cờ thì chạy, nghe đánh chiêng thì lui. Thấy vẫy cờ thì quay qua trái, vẫy cờ thì quay qua phải. Nghe chiêng trống cùng đánh thì ngồi. Ngũ trưởng luyện tập xong thì hợp với tốt trưởng, toết trưởng luyện tập xong thì hợp với bá trưởng, bá trưởng luyện tập xong thì hợp với binh úy, binh úy luyện tập xong thì hợp với đại tướng, đại thướng luyện tập xong thì bày trận ở đồng giữa, đặt bảng lớn, cứ 300 bước một bảng. Bày xong thì đi gấp rút cách bảng 100 bước, phóng gấp 100 bước. Tập đánh cho đúng tiết độ rồi bày ra thưởng phạt.
143.- CHIA THỨ HẠNG SANG HÈN:
Ngày xưa muốn răn dạy dâng chúng, người ta phải chia thứ hạng sang hèn, để cho những kẻ học kinh sử chẳng tranh giành nhau, những kẻ đức nghĩa chẳng lấn lướt nhau, những kẻ tài nghề chẳng che giấu nhau, những kẻ mạnh dạn chẳng xúx phạm nhau, nhờ đó mà ý chí đồng nhất, tâm ý hòa hợp.
144.- TRIỀU ĐÌNH VÀ QUÂN NGŨ:
Ngày xưa, khách của triều đình không được vào quân ngũ, khách trong quân ngũ không được vào triều đình cho nên tài đức chẳng lấn nhau.
145.- KHUA ĐỘNG:
Về các cách khua động, thì có phất cờ xí, đập xe, đập ngựa, khua binh khí, vỗ đầu, dậm chân: bảy cách khua động đều phải thực hành một lần.
146.- KHUYẾT ĐIỂM:
Nếu đông cũng như ít, hơn cũng như thua, binh khí chẳng sắc bén, giáp trụ chẳng bền bỉ, xe không vững chắc, ngựa không chạy hay, đông mà chẳng tự mình có nhiều, như thế là chưa được đạo
147.- TÁM TRẬN, CHÍN QUÂN:
Khí thế mạnh mẽ đều do tám trận Thiên, Địa, Phong, Vân, Long, Hổ, Điểu, Xà mà ra. Lại lập ra chín quân, để phân biệt rõ, và xây đắp khí thế của trận hình.
Một là thân quân gồm những gia đinh mạnh mẽ để hộ vệ đại tướng.
Một là phẫn quân gồm những người muốn báo thù, nguyện đi trước.
Một là thủy quân có thể xông pha sóng nước, lật thuyền trộm chèo.
Một là hỏa quân có thể phi ngựa xông pha lửa đạn, từ xa đến hãm trận địch.
Một là cung nỗ quân có thể ẩn nấp chỗ hang hầm, kéo dây cung cùng buông tên một lượt, chế ngự được quân địch nhgoài trăm bước.
Một là xung quân có sức mạnh lay chuyển núi non, khí thế hiện ra ở cờ xí, dùng để hãm trận người, bắt bọn giặc mạnh.
Một là kỵ quân, kiêu dũng khác thường, phóng ngựa qua lại giữa hai trận, đuổi đánh quân địch ở chốn xa xôi.
Một là xa quân, tài sức khéo léo nhanh nhẹn, tới thì xông pha tên đá, lui lấn át quân kỵ, khiến địch không thể đụng đến ta.
Một là du quân qua lại lanh lẹ để tuần phòng, cứu ứng ba quân, mọi cử động đều liên hệ đến ba quân, có những kẻ leo trèo nhanh nhẹn, đi như rắn, nấp như chuột, leo đèo, xuống vực, vượt thành, khoét vách…
Chín toán quân nói trên chạy đi chạy lại để che chở trung quân, còn dư thì chia ra tám góc. Ở các góc để chế ngự, hợp lại để cùng ra quân. Có thể co, có thể dãn, khiến cho trong một trận tất cả huyết mạch đều liên lạc với nhau, liên kết chằng chịt mà thông suốt hết thảy.
148.- HÒA HIẾU VÀ THÀNH TÍN:
Kết hợp ba quân thì được đông đảo vậy. Chỉ nhờ vào sự hòa hiếu để kết hợp mà thôi. Kẻ trí xét nó, kẻ dạn dùng nó, kẻ muốn thỏa mãn nó, kẻ bất khuất nuôi sống nó. Làm bộc lộ sự căm tức, làm sống lại hận thù. Thấy mụt nhọt của người như của mình, bắt tội người mà trừ giết thì như tỏ lòng bất nhẫn. Kẻ có công lao nhỏ nhặt cũng phải ghi chép. Kẻ làm được việc thì ban cấp chẳng thường. Được tiền của thì chia đều. Đối với kẻ theo hầu giúp việc thì thương xót. Vỗ về dân chúng, tìm mời kẻ thành tín. Bắt địch chớ giết nhiều. Nếu thành tín như thế, há chỉ có ba quân tuân theo sự chỉ huy của ta thôi đâu? Tất cả thiên hạ sẽ trông ngóng ta như đón gió mát vậy.
149.- CẦM BINH:
Việc binh chẳng phải là việc hay. Cái tài làm lợi cho mình cũng là cái tài chuốc hại vào mình. Kẻ mạnh ắt phải giết, kẻ dạn ắt có lòng lang sói. Kẻ trí ắt phải giả trá, kẻ mưu đồ ắt phải nhẫn nhịn. Việc binh không thể bỏ sót những kẻ mạnh, dạn, trí, mưu mà không dùng, tức là không thể bỏ sót những kẻ lang sói, ham giết, giả trá, nhẫn nhịn. Cho nên kẻ cầm binh giỏi thì dùng được tài năng, bỏ điều bất lợi, thâu thập điều bổ ích, trừ khử điều tổn hại, như thế thiên hạ không khi nào thiếu kẻ tài năng. Kẻ cựu thù cũng có thể chiêu vời, kẻ làm giặc cũng có thể vỗ về, kẻ trộm cướp cũng có thể cất nhắc. Kẻ quả cảm khinh thường pháp luật, kẻ theo hùa với quân địch, và kẻ xa lạ đều có thể dùng được cả.
150.- RÈN LUYỆN:
Ý khởi mà sức yếu, đó là khí suy. Sức dư mà lòng sợ trở ngại, đó là thiếu gan mật. Lúc khí đã suy, gan mật đã mất, thì trí dũng cũng hết mà không thể dùng. Cho nên cần phải lập thế để luyện khí, coi nhẹ thắng lợi để luyện mật, bày tỏ lòng mình để luyện tình, tập tành để luyện trận.
151.- KHÍCH LỆ:
Khi khích lệ quân sĩ, chẳng nên nhờ cậy vào pháp luật. Danh vọng được thêm thì kẻ cương dũng phấn khởi. Đem lợi lộc mà dẫn dụ thì kẻ nhẫn nại, quả quyết sẽ phấn khởi. Dùng thế lực mà bức bách, lấy nguy nạn mà vây hãm, dùng xảo thuật mà lừa dối thì kẻ nhu nhược cũng phấn khởi. Nếu tướng biết thi ân, thị uy thì lòng quân hòa hiệp, việc mưu đồ sẽ thành tựu, ắt là sĩ tốt trong ba quân sẽ giống như rồng cọp rình mồi, khi gặp địch thì khắc chế ngay mà lại có thể lập thế giúp oai nêu cao tiết khí, nếu có thua chạy cũng không mất nhuệ khí, tuy gặp nguy nan vẫn không sờn lòng, như thế bất kỳ ai, ở lúc nào cũng được phấn chấn.
152.- PHÁP LỆNH:
Ràng buộc ngựa thì lấy giàm mà đóng vào đầu, muốn ràng buộc binh sĩ thì dùng pháp lệnh. Cho nên muốn hơn thiên hạ thì không thể bỏ pháp luật. Nhưng phải thi ân trọng hậu rồi mới có thể thi hành pháp luật. Hình phạt phải thi hành rồi sau mới lập uy được. Như thế kẻ giỏi dùng binh lấy tiêu chuẩn được, thua để định công tội, biết rõ ai đánh, ai chạy để cứu giúp kẻ tổn thương. Giết một người mà mọi người khiếp uy, phạt kẻ hèn nhát, chém kẻ thất bại, mà quân sĩ càng thêm phấn khởi. Đứng nghĩ lặng lẽ như núi non, chuyển động mau lẹ như băng đổ, khiến cho quân sĩ không dám khinh lờn phép tắc, cho nên chỉ thắng lợi mà không thất bại.
153.- DÙNG TÀI:
Than tiếc rằng trời khó sinh nhân tài mà có kẻ sĩ trí mưu đến nhờ vả lại không được trọng dụng, có tướng chịu đi đánh địch mà ta lại ngăn cản.
154.- LO NGHĨ ĐẾN QUÂN SĨ:
Kẻ làm tướng phải hỏi thăm việc hư hại, chẳng bao giờ sai khiến mà không thông cảm, đó là cách lo nghĩ bậc nhất đến quân sĩ. Khi quân sĩ phải mang giáp trụ trải nắng dầm sương, đói khát thiếu thốn, thân thể bị thương tích mà chẳng dám than khổ, gặp cơn hiểm nạn mà chẳng dám kêu mệt, cho nên kẻ giỏi dùng binh chẳng để quân sĩ của mình bị địch vây hãm, ai theo thì dùng, ai bỏ thì giết, đó là cách lo nghĩ bậc hai đến quân sĩ.
155.- NHUỆ KHÍ:
Nuôi uy thì quý ở sẵn có, ứng biến thì quý ở mưu cao. Hai quân đang đánh nhau, nghe hô một tiếng thì phấn khởi, đó chỉ nhờ nhuệ khí mà thôi. Quân địch đông đảo đánh tới dữ dội, còn ta ít quân mà tới ngăn chặn chúng được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Giữa đám quân địch, quân ta ra vào, lui tới, xông xáo dọc ngang được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Tướng kiêu dũng, mạnh mẽ, dữ tợn, đó là tướng có nhuệ khí. Như gió, như mưa, làm rung chuyển núi rừng, đó là có nhuệ khí. Tướng đánh tới dữ dội, quân nhảy tới xông xáo, đó là tướng, quân đều có nhuệ khí. Dùng nhuệ khí không đúng chỗ thì vấp ngã, không có nhuệ khí thì suy. Có cơ trí mà có thể chu toàn, phát ra mà thâu lại được thì nhuệ khí không bao giờ hết.
156.- PHÉP CHIẾN ĐẤU:
Phép chiến đấu là so sánh đạo nghĩa, lập tốt ngũ, định hàng cột, chỉnh đốn đường ngang lối dọc, xét danh thực. Khi đứng mà đi tới thì cúi xuống, khi ngồi mà đi tới thì quỳ gối. Sợ thì sắp cho dày, thấy nguy hiểm thì ngồi xuống. Ở xa mà nhìn thì không sợ, ở gần đứng nhìn thì không tan rã. Dưới ngôi vua, quân hai bên trái phải bỏ giáp ngồi xuống, thong thả thề nguyền.
157.- HỔ BÔN:
Trong một toán quân, ắt có hạng hổ bôn (dõng sĩ) có sức gánh nổi vạc, khỏe chân chạy hơn ngựa nhung, đều đủ sức giựt cờ giết tướng. Nếu được như thế, nên chọn riêng họ ra để mà thương yêu quí mến họ, đó gọi là quân lệnh. Chia họ ra năm thứ binh, có tài năng, có sức mạnh, có sức khỏe, nhanh nhẹn, nuôi chí nuốt địch. Ban thêm phẩm tước cho họ, để họ quyết thắng, chăm nom cha mẹ vợ con của họ, thưởng để khuyến khích họ, phạt để họ sợ uy, đó là phép bày trận vững chắc, có thể giữ gìn lâu dài. Biết xét liệu việc ấy thì có thể dấy binh gấp bội.
158.- CONG THẲNG:
Võ Hầu nói rằng: Biết trước được cái kế cong thẳng thì sẽ thắng, đó là phép tranh giành.
159.- HIỆU LỆNH:
Sách Quân Chính nói rằng: Nói mà không nghe nhau nên mới bày ra chiêng trống. Nhìn nhau mà không thấy nên mới bày ra cờ xí. Mọi người đã chuyên nhất nên kẻ mạnh dạn không được tiến tới một mình, kẻ khiếp sợ không dám đi lui một mình, đó là phép sử dụng số đông vậy.
160.- ĐIỀU TRÔNG MONG:
Năm điều trông mong:
- Mong sĩ tốt được tráng kiện
- Mong cung tên bắn trúng
- Mong tập luyện dao, dáo được tinh thục
- Mong bộ ngũ bày trận được hợp độ
- Mong dùng chiên trống cờ xí cho đúng tiết
Không được làm điều gì bậy bạ vô ích. Cho nên nếu không trông mong ở công việc thì có thể trông mong thắng trận được sao?
161.- PHÂN CÔNG:
Theo phép giao chiến thì kẻ ngắn cầm mâu kích, kẻ dài cầm cung nỏ, kẻ mạnh cầm cờ xí, kẻ dạn cầm chiêng trống, người yếu làm việc vặt vãnh và nuôi ăn, người trí làm chủ mưu, hàng xóm nương nhau, các đội thập đội ngũ che chở nhau.
162.- CHIÊNG TRỐNG:
Nghe một tiếng trống thì sắp binh chỉnh tề, nghe hai tiếng trống thì tập trận, nghe ba tiếng trống thì đi ăn, nghe bốn tiếng trống thì làm việc nghiêm chỉnh, nghe năm tiếng trống thì vào hàng, nghe trống và chiêng cùng đánh một lần rồi mới đưa cờ lên.