Chương 21 .
Người ta cho rằng trẻ sơ sinh mang thời vận riêng của chúng đến cho gia đình, và điều ấy cũng đúng với Michael Corleone. Nhà Corleones thưở ấy đang sa lầy trong nghèo túng, sống trong phòng nhà bếp của Chung cư Địa ngục. Những toa xe lửa chạy ngay giữa đường. Suốt ngày đêm, những chuyến tàu hàng rầm rập chạy qua, chở đầy gia súc đến các lò giết mổ. Bọn nhóc tì la hét ầm ĩ khi có cơ hội chơi trò cao -bồi cưỡi ngựa và gào thét để xua bộ hành tránh đường cho các hiệp sĩ tí hon chạy đi bắt cướp. Tuần nào cũng có vài người mang thương tật vì nặng tai, chậm chân không kịp tránh đường và do vậy, được tội với các vị tiểu anh hùng và bị ngựa đá!
Kể từ khi sinh Santino mười năm trước đó, Carmela đã bị sẩy thai bốn lần. Đứa bé còn sống sót, Frederico, đau ốm liên miên trong năm năm đầu đời. Vito phải làm việc sáu ngày mỗi tuần nơi một tiệm tạp hóa ở góc đường của bố mẹ nuôi. Cùng thời mạt vận xui khiến, ông lại đi theo hai người bạn Clemenza và Tessio đánh cướp một xe tải, chỉ để gặp một anh chàng láng giềng ưa hăm dọa và bức hại người khác tên là Fanucci chờ đợi chia một phần tiền thu được, và mặc dầu chẳng tốn chút công sức nào trong vụ làm ăn kia nhưng y lại đòi phần sư tử cho mình, nếu không sẽ tố cáo cho đi tù cả lũ. Quá ức lòng, Vito đành phải khử hắn ta thôi. Mấy tuần trước khi Michael ra đời vụ Vito giết Fanucci - bị nghi ngờ rộng rãi nhưng chỉ bị bàn cãi thoáng qua - đã mang lại cho Vito sự kinh nể của hàng xóm láng giềng, họ biết ơn ông vì đã trừ khử giúp họ một kẻ ưa bắt nạt, hống hách, ức hiếp người yếu đuối, cô thế. Rất kiệm lời, ông bắt đầu dàn xếp, giải quyết những vụ xung đột và bảo vệ các chủ tiệm khỏi bọn vô lại và đám cảnh sát ưa nhũng nhiểu.
Việc sinh Michael không hề đau đớn như chưa từng có trước đây. Cậu bé có nước da ngà, lông mi dài và đen và một đầu tóc bóng láng, sáng mượt tự nhiên. Khi bà đỡ phát vào mông cậu, cậu bé hít một hơi thở sâu nhưng không khóc. Bà ta thở dài giống như cô gái trong một phim của Valentino. Đến khi bú vú mẹ thì Mike là đứa con cưng nhất của bà. Vito mới vừa bước chân qua ngưỡng cửa phòng thì đã nhận ra ngay những nét qúi tướng của Michael. Cậu bé là hình ảnh chính bố của Vito, người đã chiến đấu bên cạnh vị anh hùng dân tộc Garibaldi. Vito qùi xuống và khóc vì hạnh phúc.
Ngày hôm sau, những ý tưởng về khu vườn olive yêu quí của bố mình xưa kia gợi cảm hứng cho Vito đi vào ngành kinh doanh dầu ô -liu. Tessio và Clemenza sẽ là những người phụ trách mại vụ cho ông. Việc cấm rượu - vốn cung cấp việc sử dung có lợi khác cho những xe tải giao hàng của họ - là một cơ hội may mắn khác đến với họ hầu như cùng lúc với sự chào đời của Michael. Chẳng bao lâu sau họ đều trở nên giàu có.
Trong thời thơ ấu, thân nhiệt của Michael không bao giờ vượt quá chín mươi tám độ (Farenheit). Thường thường là mát hơn. Cậu ta có niềm tin nơi bản thân mình, cứ như thể là cậu biết người ta sẽ yêu mến cậu và làm những gì cần được làm và thấy không cần phải nhặng xị ầm ĩ hay phải quan trọng hóa. Bữa tiệc mừng sau lễ đặt tên thánh cho cậu được tổ chức trong đường phố có cảnh sát giữ trật tự như một ân huệ cho nhà nhập khẩu trẻ tuổi hào hiệp. Dường như mọi người Ý ở New York đều có mặt.
Bố đỡ đầu của Michael, Tessio - người thường ngày vốn buồn rầu ủ rủ - đã dành suốt buổi chiều làm mặt hề để chọc ghẹo làm vui cho cậu bé và cậu bé đã biết mỉm cười đáp lại. Đó là nụ cười của Vito nhưng không có nét đe dọa.
Sau độ khoảng một năm, những cậu lớn trong nhà thấy rằng Michael đã tiếm vị mình và trở thành đứa con cưng được cha mẹ yêu chiều nhất. Fredo phản ứng bằng cách bỏ chuột vào trong nôi em bé và, một thời gian ngắn, quay lại với thời kỳ đái dầm. Có lần cậu còn đi đến trường và loan truyền với mọi người rằng em trai của cậu đã bị cắt đứt làm hai khúc bởi cái khung gạt trước đầu chiếc xe lửa chở hàng ở Đại lộ Mười Một.
Sonny hành động táo bạo hơn, làm rối rắm thêm yêu sách của Michael đối với tình cảm yêu mến của bố bằng cách mang về nhà một kình địch mới do chính Sonny chọn - một chú nhóc ốm yếu và bẩn thỉu mà bố mẹ đã chết vì rượu. Ở tuổi mười hai chú nhóc đã lang thang hè phố, kiếm sống bằng những trò trí trá mà hóa ra, rất là đáng nể. Chú ta tên là Tom Hagen. Sonny nhường chiếc giường hẹp của mình cho người bạn côi cút và ngủ trên sàn nhà. Không ai bàn luận về chuyện biến sự thu xếp đó thành thường xuyên. Nhưng giống như phần lớn công việc của Ông Trùm, một nhu cầu xuất hiện và được giải quyết với tối thiểu ngôn từ.
Kí ức sớm nhất của Michael là ngày mà gia đình cậu dọn về Bronx. Lúc đó cậu mới lên ba. Mẹ cậu còng lưng xuống, ôm từ biệt hàng xóm láng giềng, khóc lóc chẳng kém gì cô bé Connie. Tom và Sonny đã lên trước ở căn hộ mới. Michael ngồi trong xe với bố và người tài xế. Fredo đứng nhìn về hướng các đoàn tàu. “Có gì vậy con?” Vito kêu lớn. Fredo muốn chơi trò cao -bồi cưỡi ngựa bắn súng. Sonny đã chơi trò đó ít ra là cả hàng trăm lần rồi. Fredo thì chưa từng được chơi lấy một lần thế mà giờ đây cả nhà dời đi, xa rời láng giềng. Vito nhìn thấy vẻ buồn khổ trên mặt Fredo. Ông bèn một tay bế Michael, tay kia dắt Fredo và đi xuống con phố hẹp. Người đàn ông với con ngựa nhìn thấy Vito, và một lát sau Fredo đã ngồi trên yên ngựa, chờ chuyến xe lửa đến. Khi có một chuyến xuất hiện ở xa xa Vito công kênh Michael lên vai mình. Fredo cưỡi ngựa băng qua các đường mòn và đường ray, thích thú la lớn những lời cảnh bào: “Tránh ra, tránh ra cho ngựa cậu chạy qua!”, thấy vui sướng và không hề sợ hãi.
Căn hộ mới của nhà Corleones nằm trong khu Belmont của Bronx, trên tầng hai của một cao ốc gạch đỏ tám tầng. Chính căn hộ thì khá khiêm tốn nhưng có một ngăn làm đá mới, hệ thống sưởi tốt, và đủ không gian cho mọi người. Vito sở hữu nguyên cả cao ốc đó nhưng một cách rất kín đáo nên ngay cả cảnh sát trưởng ở đó cũng không biết. Với cậu bé Michael, Belmont dường như chốn thiên đường. Các đường phố đầy những cậu bé đang chơi khúc côn cầu và tiếng rao mời chào của những người bán hàng rong với những chiếc xe đẩy chất đủ thứ các cái linh tinh. Không khí lung linh với hương vị của hành tỏi tỏa mùi ngào ngạt và làn sương mỏng mang vị ngọt béo của bánh mì bơ đường được nướng lên. Sau bữa ăn chiều, đám đàn bà mang ghế ra vỉa hè túm năm tụ ba tán chuyện cà kê dê ngỗng cho qua buổi hoàng hôn. Cánh đàn ông trao đổi với nhau những lời trêu ghẹo thân thiện. Có nhiều người Ý ở Belmont hơn là ở khu phố họ vừa rời đi. Trong cái khu hành chánh này của Thành phố New York thì hầu như đi đâu họ cũng gặp người quê ta cả.
Bên ngoài căn hộ của nhà Corleone là một lối thoát khi hỏa hoạn. Vào những đêm trời nóng nực họ ngủ
nơi đó cho đến khi gió xoay chiều và gửi đến mùi vị từ Vườn Bách Thú Bronx tỏa xuống Đại lộ Arthur. “Đủ rồi,” Vito sẽ nói với những đứa con đang càu nhàu. “Cái vườn Bách thú ấy à? Nó đã được những người Ý xây dựng nên. Những gì các con đang ngửi thấy là thành quả lao động của họ. Làm thế nào mà một đứa con của bố lại từ chối thành quả vốn là một quà tặng từ Chúa? Những đứa khác đôi khi vẫn còn cằn nhằn nhưng Michael thì không. Ở trong sở thú đó cũng có những con sư tử. Michael thích sư tử vì nhà cậu là Corleones, tức Những Người Mang Trái Tim Sư Tử - Những Kẻ Hùng Tâm Dũng Chí.
Gia đình Corleones rất nhiệt tình với nhà thờ mới. Lúc đầu, cả Vito cũng năng đi lễ nhà thờ. Fredo đi dự lễ Mi -sa với mẹ hầu như hàng ngày. Khi lên mười, trong một bữa ăn chiều, cậu đứng lên và thông báo rằng cậu đã có một cuộc nói chuyện với Cha Stephano, cha chủ lể ưa thích của mẹ mình và cũng là huấn luyện viên quyền Anh của cậu, và cậu quyết định trở thành một linh mục. Cả nhà nổ ra những tràng hoan hô chúc tụng. Đêm đó, Michael ngồi trên lối thoát hỏa hoạn và nhìn theo mẹ đang đi khoe Fredo với hàng xóm (đối với các gia đình Công giáo, nhà nào có người đi tu làm linh mục thì rất lấy làm vinh dự và tự hào chẳng khác nào người ngoại mà gia đình có người thân làm đến quận trưởng, tỉnh trưởng vậy! Chú thích của Ng,d.). Lúc Fredo trở về nhà mặt cậu đầy những dấu môi hôn.
Ở trường, khi các bạn của Michael thực hành cái nghi lễ thành niên là khoe khoang tâng bốc bố mình, Michael tránh ra xa. Cậu đã được gia đình giáo dưỡng là không được khoác lác huênh hoang. Cậu cũng không có nhu cầu làm thế. Ngay cả những đứa ưa bắt nạt nhất trong trường cũng biết rằng ông bố lầm lì của Michael là một nhân vật đáng nể. Khi Vito Corleone đi xuống phố, người ta cúi gập người xuống chào ông, cứ như thể ông là vua không bằng!
Một đêm nọ, vào bữa ăn tối, lúc Michael lên sáu, bỗng nghe tiếng gõ cửa. Đó là Pete Clemenza. Ông xin lỗi vì làm rối bữa ăn tối của gia đình và yêu cầu nói riêng với Vito đôi lời. Một lát sau, từ phía sau cửa phòng khách được khóa lại bên trong, Vito bắt đầu la lối bằng phương ngữ Sicily mà Michael nghe được nhưng không hiểu hết. Cơn giận của bố có lí do khá rõ. Mẹ vẫn yên lặng ngồi cho bé Connie ăn ô-liu và calamari và làm bộ như không nhận thấy gì. Tom cười khảy và lắc đầu “Lại Sonny,” Tom nói. Sonny không có mặt trong bữa tối - điều này đã trở thành càng ngày càng ít có vẻ bất thường hơn - nhưng tiếng cười khảy của Tom dường như hàm ý rằng không có gì thực sự trầm trọng xảy ra.
Tuy vậy, Michael vẫn hoảng sợ. Chỉ có Sonny - và nhiều năm sau nữa, Michael - là từng khiêu khích Vito Corleone đủ “đô” để làm tiêu tan tính kham nhẫn và cẩn trọng đã trở thành huyền thoại của ông. Không có thước đo nào dò được chiều sâu của tình phụ tử mà ông dành cho họ. Nếu như người chết còn có thể nói được thì nhiều người sẽ làm chứng rằng chính tính kham nhẫn và cẩn trọng của Vito là những điều mà người ta nên gờm nhất.
“Anh ấy làm gì vậy?” Michael hỏi.
“Một vài trò nguy hiểm để đùa vui đấy thôi,” Tom nói. “Đúng kiểu Sonny.”
Tom và Sonny đều là sinh viên lớp Dự bị Đại học Fordham. Nhưng họ hoạt động với những đám đông
khác nhau. Tom ở trong đội tennis của trường và là một sinh viên danh dự. Có lẽ vì chàng ta không thực sự là một thành viên của gia đình, có lẽ vì do lòng biết ơn, nên anh chàng đã lặng lẽ trở thành đứa con hoàn hảo nhất nhà - đứa khôn ngoan nhất, đứa trung thành nhất, ngoan ngoãn nhất, có tham vọng nhất, và, đồng thời cũng là đứa khiêm cung nhất. Đứa học trò nhiệt tình nhất của bộ qui tắc ứng xử mà Vito đặt ra, chàng ta nói tiếng Ý giống như người bản ngữ, và trong mọi mặt, trừ huyết thống, là kẻ mang tính chất Sicilian điển hình nhất.
Còn về Sonny chàng ta đã bị loại ra khỏi đội bóng đá nhà trường sau khi cãi nhau lớn tiếng với huấn luyện viên (khi Sonny yêu cầu bố can thiệp, Vito đã tát cậu con và không nói gì). Cậu cả quê độ bèn lẳng lặng chôm mấy chai gin loại rượu lậu và chuồn vào mấy quán bar ở khu Harlem để nghe nhạc jazz và uống rượu cho đỡ quê! Ngay khi mới mười sáu, Sonny đã thành danh là “con thú cưng của qúi bà “chứ không chỉ riêng của các nàng cùng trang lứa.
“Trò nguy hiểm để đùa vui thuộc loại gì vậy?” Michael hỏi Tom.
“A rubar poco si va in galera, a rubar tanto si fa carriera.” Ăn trộm vặt phải đi tù, ăn trộm lớn thành đại nghiệp! “Sonny và hai thằng ngốc mà anh ta nghĩ là bạn mình đã thực hiện một vụ cướp có súng -”
“Ah - ah - ah!” Carmela dùng hai tay bịt tai Connie. “Đủ quá rồi đấy!”
Cửa phòng khách mở ra. Vito đang lắc đầu, mặt đỏ bừng, rõ là đang giận sôi lên. Ông và Clemenza rời khỏi nhà không nói tiếng nào. Connie khóc thét lên. Michael tự buộc mình không làm theo lẽ thường.
Nhiều năm sau, Michael mới biết được rằng Sonny đã đánh cướp một trạm xăng vốn được bảo kê bởi Gia đình Maranzano, mặc dầu Sonny không biết điều đó. Vụ đánh cướp chỉ là một trò vui đùa liều lĩnh mạo hiểm. Đêm đó Vito đích thân đi thương lượng với Maranzano và phái Clemenza đi tìm Sonny. Mấy giờ sau, Pete tìm thấy cậu cả đang đú đởn với một chị đàn bà vắng chồng thèm trống tơ, và lôi cậu về văn phòng Công ty Dầu Ô -liu Nguyên chất Genco để đối mặt với cơn thịnh nộ của bố Vito.
Khi Vito đốp chát Sonny về hành vi thiếu suy nghĩ của cậu con thì Sonny chỉ tự biện hộ bằng cách nói rằng cậu đã thấy bố giết Fanucci. Vito ngồi xuống, nặng nề, bại trận, không còn biết phải dạy bảo con mình như thế nào. Khi Sonny yêu cầu được nghỉ học để giúp việc gia đình, Vito nguội đi và gọi đó là... số mệnh!
Vito tin rằng bản thân mình đã làm điều mình phải làm trong một thế giới chỉ dành rất ít cho một người trông giống như ông và đến từ nơi như ông đến. Ông kiên quyết với niềm tin rằng cuộc sống sẽ khác đi đối với con cái của ông. Ông tự hứa với lòng rằng không để đứa nào trong số con cái của mình, kể cả con nuôi là Hagen, đi theo bước chân của mình. Đó là lời hứa duy nhất mà Vito Corleone đã phá vỡ.
Tuy vậy, vào thời đó, Michael chỉ biết rằng, lần đầu tiên trong đời mình, cậu đã thấy ông bố khắc kỉ của mình đánh mất tự chủ, và rằng một cách nào đó Sonny đã gây ra chuyện đó. Một lát sau khi Vito và Clemenza đi khỏi, Tom, lộ vẻ chán ngán, xin lỗi và hướng đầu về phía cửa. “Má cần gì không? Con
xin phép đi dạo một lát.”
Bà không nói gì. Mặt bà xám đi và khô lại.
Michael nắm vào cửa chính trong khi Tom đang đóng lại và theo chân anh xuống cầu thang. Khi hai đứa xuống đến phố, trời đổ mưa. Một trận mưa lớn như trút nước. Tom tựa vào cửa kính, chần chừ.
“Hãy cho em biết chuyện gì xảy ra, Tom,” Michael nói. “Em có quyền biết. Chúng ta là trong gia đình cả mà.”
“Bé học ở đâu mà nói năng như thế?”
Michael gằn mạnh cách diễn đạt trong mức độ cậu có thể.
Tom liếc qua vai mình. Tay sĩ quan cảnh sát và vài người thuê nhà đang lòng vòng gần đó. “Không phải chỗ này.” Chàng ta di chuyển đến một chỗ vải bạt che cửa cách đó mấy căn. Hai đứa chạy ào tới đó.
Mười sáu tuổi Hagen chưa biết hết mọi chuyện. Nhưng chàng ta biết cách đọc Sonny, và chàng ngưỡng mộ Vito, vì vậy chàng ta biết nhiều hơn bất kỳ người nào có thể đoán. Những chuyện mà chàng ta kể lại cho Michael tối hôm đó, dưới tấm bạt có sọc, phía trước cửa hàng thịt Racalmuto là thành thật và đúng thật.
Từ ngày đó trở đi, Sonny trở thành một trong những người kè kè theo bên Vito khắp nơi. Chàng ta thường về nhà trễ, nhiều khi chẳng thèm về. Khi chàng ta ở nhà, chàng âu yếm cậu em kế Fredo, cu cậu này nhìn chàng theo cách mà Michael nhìn Tom. Vào dịp sinh nhật lần thứ bảy của Michael, Tom tặng cu cậu chiếc áo đánh tennis. Michael mặc áo bó quanh cổ, theo kiểu của Tom.
Trong vòng mấy tuần sau đó, Sonny rời khỏi nhà và kiếm một căn hộ riêng ở Manhattan, ngay phố Mulberry, và Tom chuyển vào ở ký túc xá Đại học New York. Không biết vì do hai cậu lớn ra đi hay do chính sự trưởng thành của mình, Fredo nổi lên một cách không ngờ, ở tuổi mười ba, như một chàng trai mạnh mẽ, có uy. Mặc dầu hơi thấp người, cậu vẫn chơi vai hậu vệ trong đội bóng khối lớp sáu. Sau vài năm bị đấm ngã đây đó, cậu thắng trong một giải quyền Anh nhỏ của Hội Thanh niên Công giáo. Cậu đang đạt được những đẳng cấp tốt hơn và xuất sắc trong việc học giáo lí dưới sự hướng dẫn của Cha Stefano. Fredo vẫn còn mắc cỡ trước con gái, nhưng với các cô sự mắc cỡ đó bỗng nhiên lại có vẻ dễ thương, một nét quyến rũ càng trở nên “thú vị tình thâm” hơn bởi các nàng đều biết rằng anh chàng Fredo muốn trở thành linh mục.
Michael đã không thể đánh dấu chính xác thời đoạn mà mọi chuyện này thay đổi, khi sự vụng về lúng túng của Fredo trở thành một cái gì tối tăm hơn, khi tính tự túc trở thành tính vị kỉ u ám. Hiện tượng này hẳn là phải xảy ra dần dần, qua nhiều cấp bậc, nhưng với Michael, hình như là có lúc thì Fredo là một người yếu đuối về tinh thần, lúc khác là một chàng trai mạnh mẽ, nghiêm túc, và lúc khác nữa anh ta lại khóa mình trong phòng riêng hàng giờ, chìm trong trầm tư mặc tưởng hay những độc tưởng,
hoang tưởng gì đấy nào ai biết được. Năm mười sáu tuổi Fredo thông báo điều mà mọi người, trừ mẹ chàng, đã tiên đoán: chàng ta không còn muốn trở thành linh mục nữa. Chàng bắt đầu bỏ lớp học đi chơi. Chàng có những cuộc hẹn hò, nhưng chỉ vì các cô gái thấy chàng vô hại. Chẳng bao lâu sau chàng cũng tham gia công việc của bố, mặc dầu Vito chỉ giao cho cậu thứ những chuyện lặt vặt: truyền các tin nhắn, chè lá điếu đóm cho các cụ, xuống hàng số dầu ô -liu thực thụ.
Vito Corleone tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục, và đôi khi, ban đêm, ông và Michael ngồi trên lối thoát hỏa hoạn và mơ những giấc mơ lớn về tương lai của cậu bé. Vito cũng từng có những cuộc chuyện trò như thế với những cậu trai khác, và chỉ có Tom - người sắp bắt đầu học luật ở Columbia - là đã tốt nghiệp trung học. Michael yêu kính bố mình, nhưng cậu ta e rằng đến năm mười sáu tuổi, giống như các anh mình, có cái gì đó trong huyết quản sẽ đưa đẩy mình vào cái thế giới mà Tom đã kể cho cậu.
Hiểu biết của Michael về thế giới đó vẫn chỉ mới là hiểu biết của một đứa bé mười một tuổi. Trong suốt mùa hè khi Michael từ trường về nhà, bố cậu - chắc chắn là vào những ngày mà ông hy vọng là không có biến cố lớn lao nào - thỉnh thoảng đem cậu theo khi ông “vi hành”. Vito dường như chủ yếu là đi từ bữa ăn này đến bữa ăn khác, tại nhiều câu lạc bộ xã hội khác nhau, các nhà hàng và các quán cà-phê, bắt tay người này người kia, nói rằng ông đã ăn rồi, nhưng sau đó vẫn ngồi xuống ăn. Ông sẽ rời đi mà hình như chẳng điều hành chỉ dẫn công việc gì cả, trừ phi là bằng cách nào đó, tất cả được thực hiện qua những lời thì thầm ngắn gọn.
Vào một ngày nọ Vito bỗng nhiên được gọi đến gặp mấy người nào đó ở nhà kho của Công ty Genco. Ông bảo Michael đợi bên ngoài. Michael nhìn thấy một quả bóng chày trong thân xe và đi vào lối đi nhỏ để ném nó vào tường. Khi cậu đến đó, một cậu bé khác mà trước nay cậu chưa từng thấy, đã đang làm cùng việc đó. Cậu bé mang những nét đặc trưng của dân Ái nhĩ Lan rất rõ.
“Đây là con đường của ta,” Michael nói, mặc dầu cậu cũng không biết cái gì khiến cậu nói như thế.
“Nói bậy rồi,” cậu bé kia nói. “Chẳng phải của riêng ai cả.” Cậu ta chiếu ra một nụ cười trắng bóng, dòn tan. Tiếng cười hơi giống tiếng lừa kêu be be nhưng lại khiến cho Michael thấy dễ chịu.
Thế rồi hai đứa không nói gì hơn một lúc lâu. Chúng đứng bên nhau nơi lối đi nhỏ đó rồi mỗi đứa ném quả bóng trầy sướt của mình vào tường cho quả bóng bật nẩy lại và cứ thế, ganh đua nhau làm được nhiều lần hơn đứa kia, mặc dầu không có đứa nào là cầu thủ bẩm sinh.
“Bạn biết không,” cuối cùng cậu bé Ái nhĩ Lan nói, vì đã mệt thở không ra hơi nên phải dừng lại một lát để thở, “bố mình là chủ của tất cả những xe tải đàng kia kìa, và bạn biết những gì trong đó, phải không?”
“Một số những xe tải kia là của bố tôi. Tất cả những chiếc mang dòng chữ’ Genco Pura Olive Oil.”
“Likkah!” Giọng của cậu bé nghe giống giọng Katherine Hepburn: không hẳn là Mỹ cũng không hẳn là Anh mà là cả hai. Phải mất một lúc Michael mới nhận ra rằng cậu ta nói liquor (rượu). “Đủ rượu để
làm cho cả New York say tối nay, và thêm một nửa New Jersey nữa.”
Michael nhún vai. “Bảng ghi dầu ô -liu.” Mặc dầu cậu biết hầu hết những chiếc xe tải kia chở rượu. Cậu đã nhìn thấy bên trong chúng trước đây. “Bạn học nói kiểu đó ở đâu vậy?” Michael hỏi.
“Mình có thể hỏi bạn cùng điều ấy đấy,” cậu bé nói. “Bạn là dân Ý, đúng không?” “Mình không nói giống như bất kỳ cái gì.”
“Chắc là bạn không rồi. Nghe này, bạn có biết tại sao đám cớm không đến đây ngay lúc này để tóm mọi người vì bán rượu lậu không? Bạn biết không?”
“Bạn mất trí rồi. Tất cả những xe tải kia đều chở dầu ô -liu trong đó thôi.”
“Bởi vì bố mình hối lộ cho mọi anh cớm ở New York!” cậu bé hứng chí nói để khoe mình biết được chuyện người lớn. Michael nhìn lên nhìn xuống lối đi nhỏ. Không có ai trong tầm nghe, nhưng cậu vẫn không thích cậu bé kia nói lớn đến thế về những chuyện như thế. “Bạn nói dối,” Michael nói.
Cậu kia bèn giải thích tỉ mỉ chuyện bố mình hối lộ mấy anh cớm như thế nào. Cậu nói bằng những biệt ngữ về những cuộc giết chóc và đánh đập cần thiết để kiếm lợi từ việc bán rượu lậu. Hoặc là cậu ta có trí tưởng tượng phong phú hoặc cậu ta đang nói sự thật.
“Bạn phóng đại quá đấy!” Michael nói.
“Người của bạn còn ghê hơn, theo những gì mình nghe được.” “Bạn chỉ thổi phồng quá đáng. Bạn chẳng biết cái quái gì đâu.”
“Bạn muốn nghĩ sao thì nghĩ,” cậu kia nói. “Trong khi đó, tôi đố bạn dám đi lấy một chai rượu khỏi chiếc xe và đem về đây rồi hai đứa mình cưa đôi. Dám hông?”
Chuyện này chưa bao giờ xảy ra với Michael, nhưng cậu hùng dũng gật đầu khi nhớ mình là Corleone - Người Mang Trái Tim Sư Tử - và đi ngay. Anh Fredo đang giúp người khác xuống hàng một xe tải. Michael bảo họ là bố muốn gặp họ. Khi họ vừa quay đi, Michael thón ngay một chai Whisky Canada và trở lại lối đi nhỏ.
“Mình nghĩ cậu run như gà con,” cậu kia nói.
“Bạn nghĩ sai rồi. Có lẽ tư duy không phải là điểm mạnh của bạn.” Michael mở chai rượu và làm một ngụm. Nóng cháy cổ, nhưng cậu không ngán. “Này bạn tên gì nhỉ?”
“Jimmy Shea,” cậu kia đáp lại, cầm lấy chai rượu. Cậu ta tu một hơi dài và rượu liền lãy cò một cơn ho sặc sụa. Cậu ta khụy gối xuống và bắt đầu nôn mửa.
Một lát sau, hai ông bố đến nắm đầu hai cậu quí tử, đều mới mười hai tuổi mà đã dám bẻ cổ chia hai một chai whiskey giữa thanh thiên bạch nhật, vào đúng cao điểm của thời Cấm Rượu, một việc làm, nếu là người thành niên, phải trả giá bằng cả... địa ngục. Hai đứa bé - mặc dầu cuộc đời chúng sau này sẽ song hành nhau - nhưng không bao giờ nói chuyện trực tiếp với nhau lần nữa.
Khi Luật Cấm Rượu bị bãi bỏ, Vito Corleone lại đối diện ngã ba đường. Ông đã - mà không một lần bị bắt bớ tù đày - tạo được một sản nghiệp nho nhỏ, đủ để lo cho gia đình và sống những ngày còn lại của đời mình trong tiện nghi thoải mái. Nhưng thay vì thế ông đã chọn cách tìm kiếm sự đối tác với Salvatore Maranzano, đầu sỏ thế giới ngầm của New York. Phải chăng đó là định mệnh của Vito Corleone? Hay là một hành động gặp thời thế thế thời phải thế? Hay là ông làm điều ông đã làm đơn giản chỉ vì ông xuất sắc trong việc làm đó? Có lẽ Vito không có lựa chọn. Sonny và Fredo là những chàng trai trẻ ít học và cũng không nhiều tài năng. Để cho hai cậu tự xoay xở, chắc chỉ chừng độ một năm thôi là các cậu... đuối! Vả chăng, có hay không những công cuộc kinh doanh hợp pháp để một người giàu có, xuất sắc như Vito có thể đem tất cả sở tồn làm sở dụng?
Nếu từng có một thời cơ cho nhà Corleones chuyển về Las Vegas và trở thành hợp pháp, thì chính là lúc này đây.
Nhưng thay vì thế, những gì xảy ra lại là chất liệu cho lịch sử!
Maranzano đã cười nhạo cái ý nghĩ trở thành một đối tác đồng đẳng với Vito Corleone và chế diễu cái đề nghị “đĩa đeo chân hạc” của anh chàng gối rơm mà không biết yên phận gối rơm này. Và chính thái độ cao ngạo phỉ báng kia của Maranzano đã châm ngòi nổ cho cuộc chiến Castellamare - cuộc đại chiến thứ nhất trong lịch sử Mafia Hoa kỳ. Đồng minh của Maranzano là Al Capone ở Chicago gửi hai phụ tá cao cấp đến New York để hạ sát Vito Corleone. Một trong hai tay đó là Willie Russo Lạnh Như Băng, anh ruột của Ông Trùm tương lai Louie Russo Mặt Đéo. Tài năng của Vito Corleone trong việc phái sinh quyền lực từ những kẻ không quyền lực (to derive power from the powerless) một lần nữa lại tỏ ra đắc dụng. Một công nhân khuân vác đường sắt ở Chicago gửi thông tin về chuyến xe lửa mà các sát thủ kia sẽ lên, và một công nhân ở New York dẫn hai tay sát thủ vào một chiếc taxi mà người tài xế làm việc cho Luca Brasi. Brasi trói hai người này lại, và trong khi họ vẫn còn sống hắn ta chặt chân tay họ bằng một cái rìu của lính cứu hỏa và ung dung ngồi rung đùi nhìn họ chảy máu đến chết. Đợi lúc họ sắp chết hắn mới vung rìu chém bay đầu họ. Còn Tessio chờ đúng đêm Giao thừa đi vào một nhà hàng và bắn Maranzano. Vito nắm lấy tổ chức của Maranzano, sắp xếp lại các lãnh địa quyền lơi khác ở New York và New Jersey thành Năm Đại Gia như ta biết ngày nay và trở thành capo di tutti capi(Thủ lĩnh của mọi thủ lĩnh/Thống lĩnh). Ông đã làm được điều đó mà rất ít gây đổ máu và hầu như không bị nêu tên trên bất kỳ tờ báo nào.
Cậu thiếu niên Michael Corleone đã để ý thấy đám vệ sĩ của bố mình nhiều hơn thường lệ và bố mình đi ra ngoài buổi tối thường hơn. Ngoài những chuyện đó ra thì cuộc biến động kia không ảnh hưởng gì mấy đến cái cao ốc căn hộ ở khu Bronx. Nhiều năm sau khi biết được về những gì đã xảy ra, chàng ta rất ngạc nhiên. Chàng ta hồi tưởng giai đoạn đó như là thời gian tốt đẹp của gia đình. Sonny có vợ. Tom tốt nghiệp trường luật. Connie có được con ngựa tơ đầu tiên. Michael được bầu làm trưởng lớp.
Fredo đã ra khỏi vỏ ốc của mình và thường dẫn Michael đến thành phố để chơi pun. Michael là một người có năng khiếu tự nhiên, có thể thấy các góc của bàn như trong một thị kiến. Fredo là một tay chơi có tài nhưng lại không phải là kẻ giỏi xoay xở, có khả năng nhìn thấy những góc ẩn dụ từ nhiều bước trước nhưng không nhìn thấy những con cá mập nguy hiểm nhất. Bất kỳ kẻ nào đánh giá thấp cậu bé lặng lẽ và điềm tĩnh và người anh khả ái, nhỏ nhẹ của cậu, đều sẽ phá sản khi rời khỏi bàn. Lần duy nhất mà Fredo và Michael bị trấn lột Sonny đi tìm hai tay thua cay cú đã làm vụ đó và nện bọn họ đến chết ngay giữa thanh thiên bạch nhật, ở giữa phố 114 và bỏ họ lại đó. Vụ giết người đó được giao cho một thám tử ăn lương nhà Corleones điều tra. Một tay cho vay nặng lãi bất lương bị kết tội về vụ đó. Michael chẳng biết tí gì về tất cả chuyện đó cho đến khi chàng ta nghe ra câu chuyện, nhiều năm sau, từ chính Sonny. Anh ta vẫn nghĩ toàn bộ câu chuyện này chỉ là một... trò cười không mấy vĩ đại! Tại sao họ nghĩ họ đã chỉ bị trấn lột có một lần?
Trong hơn mười năm thiên hạ thái bình. Xứ sở loạng choạng qua cuộc Đại Suy thoái (1929) nhưng rồi đã đứng lên để chiến đấu cho một cuộc chiến chính nghĩa. Trong những thời buổi khó khăn đó, Vito Corleone vẫn tiếp tục tích lũy quyền lực và của cải. Ông mang một đoàn thợ cắt đá từ Sicily đến Mỹ để xây dựng những lăng mộ cho những người chưa từng có mặt trên đời, những lăng mộ thực ra là những nơi chốn rộng thênh thang đến ngạc nhiên để giữ hàng triệu triệu đô-la tiền mặt. Nhà Corleones vẫn tiếp tục sống giản dị, bình thường như một gia đình trung lưu khá giả mà thôi.
Ngày nọ, khá lâu sau khi nền hòa bình này vẫn đang diễn tiến, Michael đang đứng nơi bảng đen trong giờ hình học thì nghe tiếng gõ cửa. Đó là Fredo. Anh nói với thầy giáo là gia đình có việc khẩn cấp. Fredo không nói điều gì cho đến khi hai đứa vào trong xe. “Liên quan đến bố,” anh nói. “Chúng bắn bố. Vào ngực. Bố sắp ổn thôi, họ nói thế, nhưng -”
Michael chỉ nghe loáng thoáng. Chiếc xe vẫn còn đậu phía trước trường nhưng Michael cảm thấy như nó vừa băng qua một ổ gà lớn trên đường. “Kẻ nào bắn bố?”
“Đám chuột nhắc thôi,” Fredo nói. “Một băng côn đồ Ái nhĩ Lan quá ngốc nghếch để biết đươc sự khác nhau giữa Bố với một tên vô danh tiểu tốt nào đó mà người ta đụng độ trong một cuộc chiến đường phố. Cái tên Mick ngu xuẩn nọ xông thẳng đến Bố ngay trên đường phố và bắn bố, và chỉ một giây sau anh và những người khác đã đồng loạt khai hỏa vào người hắn.”
“Bắn Bố. Bọn chuột nhắc? Chiến tranh đường phố? Băng đảng?Chưa ai từng nói những chuyện này trước mặt Michael.
“Cái gì? Thôi đừng có ngốc nữa Mikey.” Fredo vô số và vọt xe đi. “Chúng ta đi đâu đây?”
“Về nhà. Bệnh viện quá đông người.”
Quá đông người chỉ là một uyển ngữ. Michael không rõ lắm uyển ngữ đó thay cho cái gì và cũng không hỏi tới.
Carmela tỏ vẻ dũng cảm trước mặt các con, nhưng Michael nhìn thấu qua đó. Sau khi mọi người lên giường cậu có thể nghe mẹ xuyên qua tường của phòng mình. Bà đang cầu nguyện khi cuối cùng, mòn mỏi, cậu rơi vào giấc ngủ và cả khi cậu thức dậy. Cậu vội vàng đi vào nhà bếp để làm bữa điểm tâm cho cả gia đình nhằm tránh cho mẹ gánh nặng nho nhỏ này. Bà nạt cậu ra khỏi bếp, nhưng trên đường cậu đi ra bà ôm hôn cậu và bắt đầu ca hát cái gì đó bằng tiếng Latinh mà cậu không hiểu.
Sau đó trong buổi sáng, khi Fredo nói là đã đến lúc đi bệnh viện, Michael từ chối. “Bố sắp ổn rồi, phải không?” Michael hỏi.
“Đúng rồi,” Fredo trả lời.
“Vậy thì em sẽ gặp Bố khi bố về nhà.” Mặt của mẹ cậu xụ xuống.
“Con có bài kiểm tra phải làm,” cậu nói. “Bao lâu mà Bố ổn thì con nên đi học.” Nghe thế, mẹ cậu vỗ nhẹ vào má cậu và khen cậu ngoan, rằng Bố sẽ tự hào về cậu.
Sáng hôm sau, Michael cũng từ chối đi bệnh viện. Fredo bảo mẹ đem Connie theo và đợi ở trong xe. Rồi anh kéo Michael qua một bên và hỏi cậu đang cố chứng tỏ cái đếch gì vậy.
“Em không biết,” Michael nói. “Chẳng có gì.” “Chẳng có gì? Thôi nào.”
“Có lẽ ông ấy đã làm chuyện đó xảy ra,” Michael nói. “Ông ấy cái gì? Chú mày thấy có gì không ổn?”
“Chẳng có gì không ổn với tôi cả. Ông ấy là tội phạm. Những tội phạm thường bị bắn. Ông ấy may mắn lắm nên trước nay chưa bị bắn. Tất cả mấy người đều như thế.”
Nắm đấm của Fredo tống thẳng vào gò má cậu em. Michael ngã vào chiếc ghế bành bố hay ngồi và nghe một tiếng đổ vỡ trầm đục. Đó là cái gạt tàn lớn bằng sứ với nàng tiên cá trên một hòn đảo nước gợn lăn tăn ở giữa. Cái gạt tàn vỡ thành hai mảnh gọn gàng, ngay chính giữa.
Michael vẫn từ chối đến bệnh viện thăm bố. Fredo bỏ mặc. Khi keo dán khô đi, đường vỡ ngay giữa cái gạt tàn hầu như không còn nhận thấy.
Ngày Vito xuất viện, Carmela đã thức dậy từ sớm tinh mơ, nấu bữa ăn thịnh soạn để đón ông trở về.
Toàn thể gia đình đến đón mừng: Sonny và cô vợ mới cưới Sandra, Tom và vị hôn thê, Theresa, tất cả mọi người. Vito trông có vẻ mệt mỏi hơn là suy yếu. Ông tỏ ra đặc biệt yêu thích Michael. Không hề có lời nào trách cứ việc Michael không đến bệnh viện thăm ông.
Trong khi các tour rượu cứ xoay vòng 360 độ yêu liên miên và các ly rượu được nâng lên cao để chúc mừng rồi uống cho cạn ly đầy để lại rót cho đầy ly cạn, thì một cơn giận dâng lên trong lồng ngực của chàng trai trẻ Michael Corleone. Cậu còn một năm nữa mới đến sinh nhật thứ mười sáu và vẫn còn sợ rằng mình sẽ bị lôi kéo làm việc cho bố mình. Ngay cả trong thời gian hòa bình và thịnh vượng của cái thế giới mà bố cậu điều hành, Vito vẫn không bao giờ an toàn tránh khỏi vô số người nghĩ rằng họ sẽ được lợi từ việc giết ông. Michael yêu gia đình mình với tất cả chiều sâu và chiều rộng của tâm hồn cậu, tuy vậy đồng thời cậu lại muốn thoát li khỏi nó: căn hộ này, hàng xóm láng giềng này, thành phố này, cuộc đời này. Cậu muốn đi đâu, điều ấy cậu cũng chưa có ý niệm thực sự nào. Tại sao cậu muốn làm như thế đó là chuyện vượt quá mọi tính toán.
Chỉ khi nào người ta đã già dặn tuổi đời, kinh lịch đã nhiều, suy nghĩ đã chín người ta mới đủ khôn ngoan để nhận ra sự ngông cuồng khờ khạo của việc cố thử đoán mò tại sao một người nào đó lại làm một chuyện gì đó.
Khi Carmela gật đầu ra hiệu cho Connie giúp bà dọn bàn để dùng món tráng miệng, Michael dùng muỗng gõ leng keng ly rượu của mình. Cậu đứng lên. Từ đầu bữa ăn đến giờ cậu không uống rượu nhiều. Michael không nhìn ai khác ngoài bố. Ông đang cầm chiếc nĩa nửa chừng xâm xuống món bánh tráng miệng. Khi đôi mắt bố con gặp nhau, ông bố hơi mỉm cười. Nhìn thấy bố mỉm cười như thế trong khi lòng chàng đang bị chấn thương sâu sắc khiến cho Michael càng giận sôi lên.
“Tôi thà chết,” Michael nói, nâng cao ly lên, “hơn là lớn lên để trở thành một người như ông.”
Yên lặng sững sờ trùm lên bàn ăn như một tấm vải liệm nặng nề. Từ chỗ Michael đứng, mọi người đã biến đi. Chỉ còn trơ trọi hai con người đối mặt nhau trong thế giới mênh mông này.
Vito ăn miếng cuối cùng của chiếc bánh gà hình vỏ sò và bỏ chiếc nĩa xuống. Ông với lấy cái khăn và lau mặt, một cách hầu như thanh lịch, dễ thương, rồi đặt cái khăn xuống, và, với ánh mắt lạnh đến nhức buốt chưa từng bao giờ hướng đến bất kỳ ai trong gia đình mình, ông trừng mắt nhìn xuống cậu út trong nhà.
Cổ họng Michael nghẹn lại. Cậu nắm chặt ly rượu. Cậu vẫn đứng, nhưng chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng chờ ông bố cười nhạo mình hay ngọt nhạt mỉa mai về con đường dài mà cậu cần phải trải qua để trở thành một người giống với bất kỳ ai. Hay sẽ nổi cơn thịnh nộ sấm sét trút xuống đầu cậu.
Nhưng thay vì thế, bố vẫn tiếp tục trừng mắt chiếu bí cậu.
Michael cảm nhận những luồng run rẩy chạy qua người, và đôi chân bắt đầu run. Những khớp tay nơi bàn tay phải của cậu trắng bệch bên ly rượu. Cái ly vỡ ra. Rượu, máu và mảnh vỡ thủy tinh rơi xuống bàn, và vẫn không ai nói lời nào. Michael cố không lay chuyển nhưng cậu vẫn đang lắc lư ngoài ý
muốn.
Cuối cùng, Vito Corleone vươn tay cầm lên ly rượu của mình.
“Ta chia sẻ ước nguyện của con,” ông nói, giọng chỉ cao hơn tiếng thì thầm một tí.
Uống một hơi cạn ly, ông khẽ khàng đặt lại ly xuống bàn. “Chúc con may mắn,” ông nói, và thu lại tia nhìn.
Đôi gối của Michael oằn xuống. Cậu ngồi xuống.
“Làm ơn.” Vito chỉ vào đống miểng ly. “Hãy giúp đỡ má con. Dọn sạch chỗ đó đi.”
Michael làm như được bảo. Em gái Connie và mẹ đứng lên lau dọn mọi thứ khác và ăn tráng miệng nhưng không ai nói lời nào. Món sfogiatelle và cà-phê được bày lên bàn và những âm thanh chỉ còn là tiếng muỗng khuấy và tiếng nhai. Michael lấy khăn quấn quanh bàn tay chảy máu của mình và ăn, đầu cúi xuống. Ngay cả Fredo cũng không tìm cách giảng hòa và làm cho mọi chuyện bớt vẻ ảm đạm.
Những người con khác trong nhà Corleone dường như không bao giờ toan tính nổi loạn chống lại bố. Santino giống một con chó quyết liệt trung thành với chủ. Fredo thì tìm kiếm sự chấp thuận của bố một cách nô lệ. Còn Tom mặc dầu không phải là máu mủ nhưng vẫn tìm kiếm sự chấp thuận của Vito với nhiệt tình không kém gì Fredo và cuối cùng lại thành công hơn. Connie cô út và là con gái duy nhất trong nhà, thụ hưởng vai trò “con gái rượu” ngoan hiền, được cưng chiều, cả sau khi bố chết một thời gian lâu. Chỉ có Michael cảm thấy nhu cầu nổi loạn - như, oái ăm thay, đứa con được yêu thích nhất của mọi gia đình vẫn thường có khuynh hướng đó.
Đó là cuộc nổi loạn của “đứa con Ý tốt lành”. Không hề có chút gì chống lại mẹ. Michael quá quyến luyến mẹ đến độ có một thời Vito lo lắng về tính nam nhi chi chí của cậu con út. Cậu không làm gì gây bối rối cho gia đình. Chẳng phải là cậu không vâng lời cha mẹ, thế nhưng mỗi lựa chọn của cậu dường như đều được tính toán để thể hiện một thứ đối đầu với bố mình.
Chẳng hạn, khi Fredo lần đầu bảo Michael rằng bố họ từng đặt câu hỏi về tính đàn ông của Michael thì Michael liền ngưng đem bạn gái về nhà, nhằm làm cho gia đình thêm mù mờ về mình. Khi Sonny đề nghị đem một em gà tơ hạng sang làm quà cho sinh nhật thứ mười bảy của cậu, Michael nói rằng chàng không nghĩ là bạn gái mình thích chuyện ấy, và khi Sonny hỏi, “Bạn gái nào?” Michael bèn xuất hiện trong buổi ăn tối Chủ nhật với một cô nàng tóc vàng ngực nở nang mà chàng ta đã hẹn hò đi chơi với nhau nhiều tháng rồi. Chàng bắt đầu, cứ độ vài tuần lại mang một bạn gái mới về nhà. Nhưng không có cô nào người Ý. Lần duy nhất mà bố từng nói với chàng về chuyện đó, Michael bảo rằng chàng yêu quí mẹ mình, nhưng trong cả thế giới này không hề có người phụ nữ nào khác giống bà và sẽ không bao giờ có. “Đó không phải là chuyện của bố,” Vito sau đó rỉ tai cậu con, nhưng rõ ràng là với sự đồng thuận. Michael không mang cô gái nào khác về nhà trong bảy năm liền, cho đến khi chàng mang Kay như là khách mời của mình đi dự đám cưới Connie.
Michael thi vào Đại học Princeton và Đại học Columbia và đậu vào cả hai nơi. Chàng chọn học Columbia vì anh Tom đã học trường Luật ở đó. Đang học đến nửa học kỳ thứ nhất, chàng được biết rằng bố mình đã hiến tặng một khoản tiền lớn vào quỹ phát triển tài năng của đại học. Chàng đi gặp Tom, rủ đi ăn trưa ở Plaza Hotel và bảo với anh ta rằng chàng bỏ học ở Columbia. Chàng hỏi liệu mình có thể ở với anh Tom và chị Theresa sau khi chàng làm như vậy hay không. Tom đang làm việc ở thị trường chứng khoán Wall Street và hai vợ chồng có một căn hộ ở trung tâm thành phố. “Cần có thầy phụ đạo,” Tom nói. “Rất nhiều người đua tranh nhau trong năm đầu.”
“Em đang có toàn điểm A,” Michael nói. Chàng giải thích với Tom tại sao chàng muốn bỏ học. “Nếu tất cả các sinh viên tại đó mà bố họ ở vào vị thế có thể hậu thuẫn cho nhà trường.”
“Em không cần quan tâm đến ai khác. Em muốn mình được học ở đó là do chính khả năng, trình độ của mình.”
“Em quá ngây thơ mà anh không biết phải giải thích với em thế nào nữa.” “Vậy là đồng ý?” Michael nói. “Em chắc là anh còn phải hỏi chị Theresa.”
Tom lắc đầu và nói, không, anh có thể bảo Theresa nghe. Nếu Michael muốn phạm lầm lỗi lớn nhất đời mình, Tom cũng không ngăn cản đâu.
Đến cuối học kỳ, Michael với toàn điểm A, lại bỏ một trường đại học danh tiếng và cố đi tìm việc làm. Thất bại, cuối cùng, trong một bữa ăn tối, chàng hỏi Tom là mình có thể mượn đủ tiền để theo học ở City College hay không. Khi Tom bảo chàng rằng nếu phải mượn tiền đi học thì nên mượn để theo học ở Columbia, Michael không nói gì.
“Đấy chính là điều mà ông cụ sẽ làm,” Tom nói. Anh ngưng lại, nhưng Michael không hỏi anh có ý nói gì. Tom chỉ trả lời bằng yên lặng.
Và Michael bảo lưu. Theresa dọn bàn trước khi bất kỳ ai nói thêm bất kỳ lời nào. “Bạn không thể chạy thóat khỏi con người mà bạn là,” Tom nói.
Michael cười lớn. “Đây là nước Mỹ, anh bạn mồ côi thân mến ạ.” chàng ta nói. “Chạy khỏi con người mà chúng ta là, đó là con người mà chúng ta là.” (Running from who we are is who we are. Ý muốn nói là bản chất đích thực của chúng ta là luôn muốn vượt thoát con người hiện đang là của chúng ta, luôn muốn từ bỏ hiện thể - con người mà ta đang là - để vươn đến nhiệm thể - con người mà ta mong muốn là. Nhưng đây chỉ là suy diễn chủ quan của người dịch, không bảo đảm đúng hay sai, chỉ là nhân tiện ngứa nghề nên góp một lời bàn bên lề, thế thôi!)
Trong một lát, đôi mắt của Tom ánh lên sắc giận. nhưng anh trấn tĩnh lại. “Chú muốn tiền, chú dư biết chú có thể lấy đủ số tiền chú cần ở đâu, cho bất kỳ chuyện gì. Tôi không xen vào giữa chuyện này
nhiều hơn những gì tôi đã làm.”
Michael rơi vào bẫy. Chàng ta có thể thách thức những kỳ vọng của bố mình bằng cách yêu cầu được tham gia vào công việc của gia đình, điều không thể bàn cãi. Đến trường, học hành chăm chỉ và trở thành một bác sĩ, một luật sư, một giáo sư: đó là những gì mà bố chàng mong muốn. Ông muốn Michael theo con đường hoàn toàn khác. Nhưng có con đường nào Michael có thể theo mà chàng lại chẳng thấy đã được ghi dấu ấn sáng chói bởi bàn tay vô hình của bố mình? Song phần lớn các con đường sẽ không sáng rực đâu. Chúng bị đêm tối bao trùm, được các đèn rọi chiếu sáng và có những lan can cứng cáp ở hai bên.
Chàng có thể đi đâu?
Bố chàng đang xây một căn nhà ở Long Island (Đảo Dài), và đến mùa xuân gia đình sẽ dọn đến đó - Connie, tất nhiên rồi, lên mười sáu, và cả Fredo, vẫn còn ở nhà với bố mẹ. Sonny và Sandra vừa mới có cặp gái song sinh và có căn nhà ngay kế bên. Trên bản thiết kế cho căn nhà của bố chàng là một căn phòng được ghi là “Phòng ngủ của Michael.” Khi thấy nó chàng có cùng cảm giác nghẹt thở như khi chàng nghĩ công việc làm ăn của gia đình sẽ đòi hỏi chàng phải dính líu vào, ở tuổi mười sáu.
Michael đã làm mồi cho lời nguyền đó của tuổi trẻ; chàng chỉ biết điều gì mình không muốn mà không biết mình muốn gì. Một đời sống bị điều khiển bởi sự tránh né thì cũng giống như một đội bóng cố không để bị thua. Giống như người chơi trò nhảy dù thể thao cố tiếp đất bất kỳ nơi nào trừ ngọn cây đàng kia. Giống như đôi tình nhân trần truồng ở thiên đường được tự do để làm bất kỳ chuyện gì, ngoại trừ.
Thế nên Michael đã làm điều mà hàng ngàn người trẻ tuổi hoang mang của những năm 1930s đã làm: gia nhập những Đoàn Chí nguyện Dân sự.
Phần lớn những người khác trong đoàn, hẳn nhiên rồi, là những người kém may mắn, không có cơ hội nào, những người kể các câu chuyện về tình trạng nghèo khổ đến tuyệt vọng khiến Michael, mặc dầu từng nghe bố mẹ kể chuyện đã sống trải qua những tình huống tương tự, không thể hiểu được trước đó. Chàng được điều đến Thung lũng Sông Winooski, bang Vermont. Chàng đã trồng vô số cây và chuyển không biết bao nhiêu là tấn đất. Không giống những người Ý khác, chàng ăn những thực phẩm nhạt nhẽo vô vị mà không hề than phiền. Tên của chàng thường xuyên bị phát âm sai nhưng chàng không bao giờ sửa sai ai. Chàng tình nguyện giúp các thầy giáo đến để dạy các lớp đêm và không lâu sau đó chàng điều hành chương trình giáo dục của trại. Chàng dạy cho hàng trăm người biết đọc, phần lớn là những người Ý chỉ mới biết đọc tiếng Ý một cách vất vả khi Michael bắt đầu làm việc với họ. Giống như mọi người khác, chàng được trả ba mươi đô-la mỗi tháng mà hai mươi bốn đô trong đó được tự động trích ra để gửi về nhà cho gia đình. Buổi tối Michael nằm trên chiếc giường hẹp và cố tưởng tượng ra khuôn mặt của bố mình mỗi tháng khi tấm chi phiếu đó đến nhà. Chỉ trong thời kỳ tán tỉnh những người vợ của mình, Kay (người vợ thứ nhì nhưng lại là cuộc tình thứ nhất) và Apollonia (người vợ thứ nhất, cuộc tình thứ nhì) là những khoảng thời gian mà Michael chưa bao giờ hạnh phúc hơn.
Trong trại của anh có khoảng một ngàn người. Phần lớn chỉ mới một hay hai thế hệ rời khỏi gốc rễ ở
châu Âu. Tuy vậy, nếu có một điều kết hợp họ với nhau đó là niềm tự hào được làm người Mỹ, một niềm tự hào được tăng cường bởi nhiệm vụ chung được chia sẻ hàng ngày. Vậy nên khi Đức sáp nhập Tiệp khắc, những người đến tứ Đức không cảm nhận sự thù oán từ những bạn đồng trại người Tiệp hay người Slovak. Tương tự như vậy, nhiệt tình dân tộc chủ nghĩa duy nhất gây xúc động nơi thung lũng Winooski bởi cuộc xâm lăng của Ý đối với Albania và cuộc chiến tranh Nga - Phần lan là một nỗi khiếp sợ được chia sẻ về những gì có thể xảy ra tiếp theo và sẽ ảnh hưởng đến nước Mỹ như thế nào.
“E rằng sẽ khác đối với chúng ta đấy,” một đêm nọ Joe Lucadello nói. Chàng ta cũng là một thầy giáo. Họ là những người cuối cùng rời lớp học và khóa cửa lại. “Những người Ý. Hẵng đợi đấy.”
Những người của Joe đến từ Genoa qua ngã Camden, New Jersey. Anh từng mong ước làm một kiến trúc sư, nhưng gia đình anh đã mất tất cả trong cuộc sụp đổ thị trường chứng khoán. Hiện nay anh thiết kế những tường chắn và những lều trại dã ngoại. Người gầy nhom nhưng khôn khéo như một quan chức đảng chính trị, Joe là người bạn tốt nhất của Michael ở trong đoàn.
“Mình cũng từng băn khoăn giống như bạn”, Michael nói. Nếu nước Mỹ bị lôi kéo vào cuộc chiến ở châu Âu, mọi người gốc Ý sẽ bị nghi ngờ.
“Các bạn người Đức trông như thể là...” “Tôi biết,” Michael nói. “Bạn nghĩ đúng.”
“Đừng cười, nhưng tôi từng tham gia vào một kế hoạch hạ sát Mussolini.”
“Hay đấy,” Michael cười lớn. “Này tráng sĩ!Bạn làm thế nào để hành thích bạo chúa?”
“Mình không nói là mình biết phải làm thế nào. Mình chỉ nói là mình đang làm việc cho một mưu đồ thiên nan vạn nan nhưng không phải là hoàn toàn bất khả thi.”
Joe quả là một kết hợp hiếm hoi: một người vạch kế hoạch dồi dào tài năng chuẩn bị để hành động. Bình thường anh ta cũng thực tiễn nhưng anh ta có bản chất mê lí tưởng.
“Bạn không thể lại gần Mussolini trong vòng năm dặm. Không ai có thể.”
“Hãy suy nghĩ chuyện này đi. Bạn đã đọc nhiều sách lịch sử. Chưa từng có bất kỳ ai - người anh hùng nào hay kẻ đê tiện nào, ông vua nào hay nhà lãnh đạo nào - lại không thể giết được.”
Đó là một ý tưởng nghiêm túc. Michael từng suy nghĩ về chuyện này và chàng nhìn nhận rằng có lẽ Joe có lí. “Tôi giả thiết rằng khi bạn đã làm được vệc đó với Mussolini thì bạn sẽ nghĩ đến Hitler.”
“Tôi biết là mình chỉ đang mơ mộng thôi,” Joe nói. “Tôi không phải là đứa ngông cuồng dại dột. Tôi biết mình không thực sự là con người có thể đơn thân mang con chủy thủ vào nơi hiểm địa. Nhưng thật đau lòng khi nhìn thời thế đảo điên mà ta lại không thể làm gì để góp phần ngăn chận tai họa cho muôn
người.”
Về điểm này thì họ nhất trí. Mối bất hòa từ xưa giữa người Ý miền bắc và người Ý miền nam không gây hiệu ứng gì trên tình bạn của hai người hay trên sự khinh miệt cùng chia sẻ của họ đối với Mussolini. Họ sợ chiến tranh. Nhưng đồng thời - vì chiến tranh có thể sẽ nghiền nát Mussolini và đồng thời có thể sẽ là cơ hội cho những người như họ được một lần và cho mãi mãi chứng tỏ mình trong con mắt của người dân Mỹ - họ lại mong muốn nước Mỹ tham chiến.
Lại nữa, còn có vấn đề về Ustica. Gần như cùng lúc với việc Mussolini kí kết hiệp ước lập Trục Berlin -Rome với Hitler, ông ta ra lệnh cho quân đội của mình ở Sicily bố ráp mọi phần tử Mafiosi dầu là đã biết chắc hay chỉ khả nghi và cầm tù họ trên một đảo nhỏ ở Ustica (Vito Corleone vẫn tiếp tục nhìn Mussolini như một kẻ đàn áp đầy hư vinh khác -just another vainglorious oppressor - mà thời vận cũng đến rồi đi thôi). Khi Michael và Joe nói về những con người bị cầm tù ở Ustica họ than trách việc thiếu những thủ tục theo qui định như ở Mỹ. Michael không để lộ ra mối liên hệ của bố mình với những con người kia. Joe chỉ biết gia đình Corleones là những người nhập khẩu dầu ô -liu. Có rất nhiều kệ để món hàng đó trong nhà bếp của trại.
Vào tháng sáu năm 1940, khi nước Ý tuyên chiến chống lại Đồng minh, Joe Lucadello nảy ra một kế hoạch. “Chúng ta qua Canada,” chàng ta nói.
“Có gì ở Canada vậy?”
Joe rút ra một mảnh cắt từ báo. Theo bài báo thì Không lực Hoàng gia Canada đang tìm kiếm những phi công Mỹ có kinh nghiệm. Một phi công cừ khôi thời Đệ nhất Thế chiến tên là Billy Bishop - “chàng Eddie Rickenbacker của Canada,” như bài báo gọi ông ta - sẽ đích thân trông coi việc huấn luyện của họ.
“Hay quá,” Michael nói, “tiếc rằng chúng ta đâu phải là những phi công có kinh nghiệm.”
Joe đã có cách xoay xở. Chàng ta có một người bạn, một anh chàng Do thái -Ba lan ở Rhode Island, từng là phi công chuyên đi xịt nước chống cháy rừng và xịt thuốc DDT để diệt muỗi và các loại côn trùng có hại khác. Joe nhờ anh chàng này chỉ dẫn những bài học về lái máy bay rồi ba chàng cùng qua Ottawa để đầu quân. Joe đã chạy được những mảnh bằng lái máy bay cho anh ta và cho Michael. Lúc đầu họ đều được chấp nhận. Hai ngày sau, Billy Bishop đích thân đi vào trại và yêu cầu gặp Michael Corleone (mà ông phát âm đúng theo kiểu Ý - một điềm chỉ có chuyện gì đó đã xảy ra). Ông ta đòi xem bằng phi công của Michael. Có nhiều người trong phòng đó không có bằng lái, có người chỉ là nông dân, người là diễn viên lưu động vậy mà mấy tháng sau cũng tự tay lái máy bay chiến đấu, tranh tài giữa không trung với các phi công Đức, Nhật. Bằng cấp không phải là điểm chính. Nhưng với linh cảm, Michael biết, không hiểu bằng cách nào đó, bố chàng đã đoán ra là chàng đến đây. Bây giờ mà sử dụng bằng lái giả thì chẳng còn nghĩa lí gì mà có thể còn làm liên lụy đến Joe nữa. Thế nên chàng nhanh chóng quyết định. “Xin lỗi ngài,” Michael nói với Billy Bishop. “Tôi không có bằng lái.”
Michael lên xe buýt trở về trại và làm việc lại. Sáu tháng sau, chàng ta lên chiếc xe buýt khác, hướng
về New York để dự lễ sinh nhật ngạc nhiên dành cho bố, khi người tài xế nghe tin tức về vụ Nhật tấn công Trân châu Cảng (Pearl Harbor). Lắc đầu, anh ta với người tới và vặn lớn radio lên. Cuối cùng, họ ra khỏi xe, xuống đường lại. Michael đi thẳng từ trạm cuối xe buýt đến Quảng trường Thời đại (Times Square). Quảng trường đông nghịt người với những anh chàng đang khoác lác về cuộc chém giết mà họ sắp lao vào. Michael sắp hàng để đăng kí nhập ngũ không quân, nhưng trong khi anh chờ một sĩ quan đi theo hàng quân và bảo mọi người ai có chiều cao dưới năm feet mười thì nên đầu quân vào binh chủng khác. Michael hụt đòi hỏi về chiều cao độ một inch. Thủy quân Lục chiến cũng hấp dẫn lí tưởng của anh. Một đạo quân chiến đấu ngon lành, ác liệt hơn những binh chủng khác với thời kỳ huấn luyện gian khổ và một bộ luật danh dự thiêng liêng. Binh chủng này cũng có đòi hỏi về chiều cao tương đương, nhưng xúc động đang dâng cao, và Michael với viên trung úy ghi danh cho anh đăng kí nhập ngũ trao đổi nhau một tia nhìn và họ hiểu nhau và anh được chấp thuận. Michael bắt chiếc taxi trở về nhà bố mình.
Đứa con cưng chiều nhất của Vito Corleone là người cuối cùng đến bữa tiệc sinh nhật của ông để nói” Ngạc nhiên chưa!”
Vito tỏ ra khắc kỉ khi nghe những tin tức liên quan đến Michael. Ông đặt những câu hỏi mà bất kỳ người cha yêu thương và quan tâm nào cũng làm thế. Rõ ràng là ông không chấp thuận, mặc dầu ông không bao giờ nói thế.
Trong những ngày tiếp theo, chính quyền Mỹ bao vây các công dân Mỹ gốc Ý trên khắp biên giới nước Mỹ và giam giữ họ như tù nhân chiến tranh. Thêm nữa là hơn bốn ngàn công dân Mỹ mang tên Ý cũng bị bắt giữ. Bố mẹ của Theresa Hagen cũng nằm trong số này, mặc dầu họ không bị kết án và nhanh chóng được phóng thích. Hàng trăm người khác với tình trạng pháp lí mập mờ hơn bị giam giữ lâu hơn
- nhiều tháng, nhiều năm - mặc dầu họ cũng chẳng bị kết tội gì.
Trước lễ Giáng sinh, chính quyền ban hành sắc lệnh hạn chế sự tham gia của công dân Mỹ gốc Ý vào những ngành công nghiệp liên quan đến chiến tranh. Trên khắp xứ sở nhiều ngư dân đánh bắt xa bờ vật lộn với sóng gió để kiếm sống, nhiều công nhân các hãng xưởng và nhiều thư kí đánh má