← Quay lại trang sách

Chương 12 “Ba:Gra:Chi:On”.

Kết quả cuộc tiến công mùa đông năm 1943 và những dự đoán tương lai. – Việc chia phương diện quân Tây. – I. Đ. Tséc-nhi-a-khôp-xki và I. E. Pê-tơ-rốp. – Nghi binh chiến dịch. – Gh. C. Giu-côp phối hợp hoạt động của hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 2. – A. M. Va-xi-lép-xki ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 và phương diện quân Pri-ban-tích 1. – Pháo binh và xe tăng trong chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a. – Đột kích bằng không quân. -Những đặc điểm chỉ huy bộ đội. – Hay dở cuối cùng mới rõ.

Bộ đội chúng ta tiến công kiên quyết, đã đập tan quan niệm lý thuyết cũ kỹ cho rằng mùa đông và mùa xuân đường sá xấu ảnh hưởng tới những hành động chiến đấu, và tới giữa tháng Tư 1944 đã tiến ra đến tuyến hồ Tsút-xcôi-ê và sông Vê-li-cai-a, đến những của ngõ tiếp cận vào Vi-tép-xcơ, Oóc-sa, Mô-ghi-li-ôp, Giơ-lô-bin, tới Cô-ven. Những lực lượng chủ yếu của các phương diện quân U-crai-na đã thọc ra vùng đất cổ xưa bao la Vô-lưn và tới chân núi Các-pát, chiếm được Téc-nô-pôn và Tséc-nôp-xư hướng thẳng đến I-át-xư và Ki-si-ni-ốp, mở ra những hướng tiến về Li-u-blin, Lơ-vốp và Bu-ca-rét, tạo điều kiện cho Quân đội Liên Xô hoạt động ở hai bên sườn và phía sau những tập đoàn chủ yếu của địch.

Bộ tổng tham mưu đánh giá đầy đủ những nhân tố tích cực trên. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cho rằng sức kháng cự của địch không những không giảm sút, mà ngày càng trở nên ác liệt, mặc dù chúng đã bị tổn thất nặng và đang ra sức khôi phục lại lực lượng. Cần phải tăng cường và đẩy mạnh những cuộc đột kích của ta để ngăn không cho các tướng của Hít-le có thể điều động lực lượng và tổ chức phòng ngự vững

Nói chung, tình hình chiến dịch, chiến lược mùa hè năm 1944 từ chỗ có lợi cho chúng ta đã trở nên phức tạp hơn. Tiếp tục tiến công ở U-crai-na và Môn-đa-vi-a lúc này là không lợi vì ở các khu vực Lơ-vốp, I-át-xư và Ki-si-ni-ôp, ta phải đương đầu với những tập đoàn mạnh của địch trên mặt trận, ngang sức với lực lượng của ta. Tất cả sáu tập đoàn quân xe tăng của ta đều được điều tới đây để chiến đấu với cụm tập đoàn xe tăng chủ yếu của Đức. Bộ đội mệt mỏi, cần phải cải tiến việc tiếp tế. Hành động bất ngờ thì lại đã bị loại trừ. Nếu ra sức tiến công nhanh trên những hướng này, chúng ta sẽ mắc vào một trận chiến đấu đẫm máu, kéo dài trong những điều kiện bất lợi và kết quả cũng đáng ngại.

Trong thời gian ấy, bộ đội của ta tiến thẳng ra biên giới vùng Pri-ban-tích, cũng chưa thấy có triển vọng gì tốt đẹp, ở đấy, ta cung không mong có được những hành động bất ngờ. Địch thì đang chờ Quân đội Liên xô tiến công với những lực lượng lớn và đã áp dụng những biện pháp cần thiết để đánh lui cuộc tiến công ấy. Chúng có ưu thế cơ động với những tuyến tác chiến bên trong, với mạng lưới đường sắt và đường bộ rất phát triển; còn xe tăng của ta thì trong thời gian ấy đang gặp nhiều khó khăn. Địa hình rõ ràng là không thuận lợi cho ta. Chúng ta vấp phải những trở ngại nghiêm trọng trong việc tập trung quân và tiếp tế. Đại bản doanh cũng cho rằng trong tình hình như thế, vùng Pri-ban-tích không thể là hướng nỗ lực chủ yếu của chúng ta được.

Ngay miền Bắc cũng chẳng hứa hẹn gì mấy. Diệt địch ở đây chỉ có thể làm cho Phần Lan rút khỏi chiến tranh, nhưng lại không tạo nên được tình thế hiểm nghèo trực tiếp đối với nước Đức.

Tình hình ở hướng Tây, ở các phía Bắc và Nam Pô-lê-xi-e có khác đôi chút. Trong quá trình chiến đấu, địch đã tạo ra được cái gọi là “Ban công Bê-lô-ru-xi-a” chặn hẳn con đường tiến quân của bộ đội ta tới Vác-sa-va. Nó có thể làm bàn đạp cho quân địch đột kích vào hai bên sườn bộ đội xô viết khi chung ta tiến công đến biên giới Đông phổ, lại còn uy hiếp cả bên sườn và phía sau hướng Tây – Nam và từ đây chúng có thể dùng những hành động phản chuẩn bị, phá vỡ cuộc tiến công vào Lơ-vốp và Hung-ga-ri của quân ta. Ngoài ra, từ Bê-lô-ru-xi-a, chúng có thể tiến hành những cuộc bắn phá bằng không quân vào Mát-xcơ-va.

Cuối cùng, chiếm lĩnh cái “ban công Bê-lô-ru-xi-a”, quân địch còn có khả năng cơ động nhanh chóng trên những tuyến đường sắt và đường bộ rất phát triển và kiềm chế được những lực lượng lớn của Quân đội Liên Xô ở đây. Tất cả những tình hình trên, cố nhiên đã buộc chúng ta phải coi cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a nhằm tiêu diệt tập đoàn lớn của quân địch đang đóng tại đây là nhiệm vụ quan trọng nhất.

Chúng ta đã thử giải quyết nhiệm vụ ấy, nhưng không thành công. phương diện quân Tây đã nhiều lần tiến công vào khu vực Vi-tép-xcơ và Oóc-sa, nhưng chỉ thu được những kết quả ít ỏi mà phải trả bằng cái giá rất đắt. “Ban công Bê-lô-ru-xi-a” được phòng ngự vững chắc.

Ở phía Nam Pô-lê-xi-ê tình hình có khá hơn: bộ đội ta tiến xa lên phía trước, ra tới hướng Li-u-blin và Lơ-vốp, nhưng sinh lực đã bị tiêu hao; ta chỉ có thể phát triển đột kích nếu điều được những đội dự bị lớn từ nội địa lên phía trước và điều động thêm lực lượng tại chỗ.

Vì vậy mới thoạt nhìn thì không thấy hiện ra chút gì có vẻ khả quan ở Bê-lô-ru-xi-a và Tây U-crai-na cả. Nhưng nếu chú ý nghiên cứu sâu tình huống, thì cũng có thể làm nảy ra một số kết luận đáng hy vọng. Bộ tổng tham mưu cho rằng nguyên nhân chủ yếu của những thất bại của ta ở phía Bắc Pô-lê-xi-ê không phải là chỉ riêng ở chỗ trận địa quân địch vững chắc, mà còn ở chỗ một số các tư lệnh và cơ quan tham mưu không theo đúng những quy tắc tổ chức, bảo đảm và thực hành tiến công. Những việc như thế, có thể và cần phải tránh trong tương lai. Còn về hướng Lơ-vốp, tôi xin nhắc lại là muốn giành được mục tiêu đã định ở đây thì trước hết phải bổ sung và tăng cường bộ đội cho phương diện quân U-crai-na 1.

Tình hình sau lưng địch chiếm một vị trí đặc biệt trong dự tính của Bộ tổng tham mưu. Ở Bê-lô-ru-xi-a, đặc trưng của tình hình đó là phong trào du kích rất mạnh. Tại đây, hoạt động chống bọn Hít-le có một đội quân du kích và các đội viên hoạt động bí mật Bê-lô-ru-xi-a gồm 150 nghìn người, họ đã chiếm được của địch một vùng đất rộng lớn. Nhiều vùng trọn vẹn của nước Cộng hòa đã sống theo pháp luật của Chính quyền xô-viết.

Bộ tổng tham mưu cho rằng can dựa vào tính tổ chức của các lực lượng du kích do các cơ quan Đảng lãnh đạo (trong hàng ngũ quân du kích Bê-lô-ru-xi-a có trên 11 nghìn đảng viên cộng sản và 31 nghìn đoàn viên thanh niên cộng sản), dựa vào mối liên hệ chặt chẽ giữa họ với các phương diện quân của ta. Cả quân du kích Lít-va cũng hoạt động tích cực và có kế hoạch. Du kích và những người hoạt động bí mật ở Bê-lô-ru-xi-a cũng như Lít-va đâu có thể làm rối loạn hậu tuyệt tác chiến, nhất là phá hoại các tuyến giao thông liên lạc quân sự của Cụm tập đoàn quân “trung tâm”, gây cho địch những tổn thất lớn.

Càng phân tích tình huống chiến lược, càng ngày chúng tôi càng tin chắc rằng phải tìm thắng lợi trong chiến cục mùa hè 1944 ngay ở Bê-lô-ru-xi-a và Tây U-crai-na. Thắng lợi lớn trong khu vực này sẽ là con đường ngắn nhất cho phép ta đưa quân đội xô-viết tiến đến những tuyến quan trọng sinh tử đối với vận mệnh của Đế chế thứ ba, đồng thời còn tạo ra được những điều kiện thuận lợi hơn, để đột kích mãnh liệt vào quân địch trên mọi hướng, mà trước hết là hướng Nam, nơi đang có tập đoàn mạnh của ta.

Vấn đề thời hạn và trình tự hành động là rất quan trọng. Không thể để cho quân địch có thời gian kịp huấn luyện những đội dự bị, khôi phục những sư đoàn bị tan tác và củng cố phòng ngự trên những hướng quan trọng nhất. Bắt đầu vào tiến công mùa hè là không nên để thời gian tạm dừng kéo dài, và đồng thời phải có nhiều cuộc điều quân rất lớn.

Những ý kiến sơ bộ ấy của Bộ tổng tham mưu sau đó được quán triệt cụ thể trong ý định chiến cục mùa hè, trong kế hoạch của chiến cục, và cả trong rất nhiều biện pháp tổ chức khác.

Biện pháp tổ chức cụ thể nhất là việc của phương diện quân Tây. Một phái đoàn gồm những đồng chí có uy tín trong Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã xuống tại chỗ. Tham gia phái đoàn, ở Bộ tổng tham mưu có chủ nhiệm quân báo Ph. Ph. Cu-dơ-nét-xôp và cục trưởng Cục tác chiến. Phái đoàn nghiên cứu kỹ những nguyên nhân thất bại vừa qua của phương diện quân và trình bày một bản báo cáo tỉ mỉ cùng những đề nghị cụ thể.

Ngoài những nguyên nhân chủ quan, phái đoàn còn phát hiện ra những nguyên nhân khách quan nữa. Mùa đông năm 1944, phương diện quân Tây có trong biên chế 5 tập đoàn quân binh chủng hợp thành, gồm tất cả 33 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn pháo binh, 2 sư đoàn pháo nòng dài, 2 sư đoàn pháo cao xạ và 1 sư đoàn súng cối. Ngoài ra, phương diện quân còn có tập đoàn quân không quân và trực thuộc phương diện quân còn có một quân đoàn xe tăng, 9 lữ đoàn xe tăng độc lập và 8 lữ đoàn pháo binh, 1 lữ đoàn súng cối cận vệ, hai khu cứ điểm và những binh đoàn, binh đội khác nữa.

Phương diện quân phải giải quyết nhiệm vụ của mình trên bốn hướng chiến dịch: Vi-tép-xcơ Bô-gu-sép-xcơ, Oóc-sa và Mô-ghi-li-ôp, cho nên lực lượng bị phân tán, bộ đội lại không thể cơ động được do các con đường giao thông dọc mặt trận hết sức bị hạn chế. Quân địch có một hệ thống đường sá tốt nối liền Vi-tép-xcơ, Oóc-sa và Mô-ghi-li-ốp, chúng có thể nhanh chóng điều viện binh tới hướng nào đang bị uy hiếp, để chống đỡ những cuộc đột kích của ta.

Dựa vào kết quả công tác của phái đoàn, Đại bản doanh quyết định tách phương diện quân Tây ra làm hai phương diện quân – Bê-lô-ru-xi-a 2 và 3 để việc chỉ huy được dễ dàng và như thế cũng sát thực tế hơn, đồng thời lại đề nghị tăng cường những lực lượng dự bị cho cả hai phương diện quân mới.

Cả vấn đề tăng cường cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a cũng được chú ý đến. Trước hết, Tổng tư lệnh tối cao có hỏi ý kiến nhiều tư lệnh phương diện quân và tự mình nói chuyện bằng điện thoại trực tuyến với một số đồng chí tư lệnh như với đại tướng C. C. Rô-cô-xôp-xki, tư lệnh phương dân quân Bê-lố-ru-xi-a (sau này là phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1); bấy giờ bộ đội của phương diện quân ấy đang ở trên hướng Bô-brui-xcơ.

Rô-cô-xốp-xki bày tỏ ý kiến đề nghị chuyển cho đồng chí những tập đoàn quân thuộc biên chế của phương diện quân U-crai-na 1, đang hoạt động ở Pô-lê-xi và ở Cô-ven. Theo ý đồng chí, làm như vậy sẽ cải tiến được việc hiệp đồng và cơ động, khi tiến công trên các hướng Bô-brui-xcơ và Li-u-blin.

Sau khi phân tích rất kỳ các ý kiến “tán thành” và “phản đối”, Đại bản doanh đồng ý với đồng chí. Đồng thời quyết định chuyển thuộc tập đoàn quân 50 của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 vào biên chế của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2. Thượng tướng I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki (phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3) và thượng tướng I. E. Pê-tơ-rôp được cử làm tư lệnh hai phương diện quân mới. Việc phân chia cho hai phương diện quân mới những sư đoàn bộ binh, pháo binh, xe tăng, máy bay và tất cả tài sản quân sự của phương diện quân Tây phải tiến hành với sự tham gia của đại diện Đại bản doanh.

Tôi được cử đi làm nhiệm vụ ấy và rời Mát-xcơ-va cùng với đồng chí I-van Đa-ni-lô-vích Tséc-ni-a-khốp-xki, bạn đồng học ở học viện. Tối ngày 14 tháng Tư, chúng tôi đến chỗ Cra-xnôi-ê, trước đây là cơ sở chỉ huy của phương diện quân Tây. I-van E-phi-mô-vích Pê-tơ-rốp đã đợi chúng tôi ở đây. Đồng chí nổi tiếng trong các Lực lượng vũ trang là một người chỉ huy chín chắn, thận trọng, rất mực bác ái, học vấn uyên thâm và giàu kinh nghiệm quân sự. Tên tuổi đồng chí gắn liền với cuộc phòng ngự anh hùng ở Ô-đét-xa và Xê-va-xtô-pôn.

Khác với Pê-tơ-rốp, I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki hồi đó chưa được nhiều người biết đến. Nhưng đồng chí đã tỏ ra xuất sắc ở cương vị tư lệnh tập đoàn quân, trình độ tác chiến có cơ sở vững chắc, am hiểu sâu về pháo binh và bộ đội xe tăng. Đồng chí còn trẻ, mới 38 tuổi, giàu nghị lực, nghiêm túc và toàn tâm toàn ý cống hiến cho sự nghiệp nặng nề, khó khăn của mình.

Chúng tôi bắt tay ngay vào việc, và trong mấy ngày đã giải quyết xong tất cả các vấn đề tổ chức. Cơ quan chỉ huy của phương diện quân Tây cũng hoàn toàn chuyển cho Tréc-ni-a-khốp-xki và đồng chí đặt đài chỉ huy tại Cra-xnôi-ê, còn I. E. pê-tơ-rôp thì sẽ lập cơ quan chỉ huy phương diện quán mới và chuyển sang khu vực Mơ-xti-xláp

Trước đó ba chúng tôi đã phân tích tỉ mỉ tình huống và đánh giá những khả năng của từng phương diện quân. Tình hình đã cho thấy rõ là việc tiêu diệt các cụm Vi-tép-xcơ, Oóc-sa và Mô-ghi-li-ốp của địch đều phải tiến hành cùng một lúc với yêu cầu phải hiệp đồng chặt chẽ với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đang có nhiệm vụ tiêu diệt quân địch ở khu vực Bô-brui-xcơ. Bốn cụm quân địch nói trên hợp thành một thể thống nhất, nằm trong biên chế các lực lượng chủ yếu của Cụm tập đoàn quân “trung tâm” và là xương sống của quân đội Đức đang phòng ngự ở Bê-lô- ru-xi-a.

Ở đây toàn bộ lực lượng quân địch tập trung chủ yếu trong vùng chiến thuật. Nói chung đó cũng là đặc điểm phòng ngự của quân Đức trong thời kỳ ấy. Như vậy, thực tế có nghĩa là muốn đột phá vào những trận địa quân địch thì phải có một số lượng lớn pháo binh để chế áp chắc chắn và đánh tan chúng ở ngay trong vùng chiến thuật.

Tuy vậy, cũng cần phải phát huy tác dụng, gây ảnh hưởng đến những đội dự bị trong tung thâm, dù cho chúng nhỏ yếu thế nào đi nữa. Vì vậy, chúng tôi đã thảo luận đến phương án dùng những quả đấm xe tăng mạnh đột kích sâu vào hướng Bô-ri-xốp Min-xcơ để tiêu diệt những lực lượng dự bị của chúng trước khi chúng bước vào chiến đấu. Mũi đột kích như vậy, theo dự đoán của chúng tôi, hẳn sẽ giữ vai trò quyết định để phát triển chiến dịch theo nhịp độ cao trên tất cả các hướng, kể cả hướng Bô-brui-xcơ.

Nhưng cả ba phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a, không phương diện quân nào có lấy một tập đoàn quân xe tăng, nên phải xin Đại bản doanh. Thỏa thuận là I. Đ. Tséc-nhi-a-khốp-xki thì đề nghi xin, còn Bộ tổng tham mưu thì ủng hộ.

Sau khi đã giải quyết việc tập trung những cô gắng chủ yếu vào đâu trong chiến cục mùa hè năm 1944, thì vấn đề thời hạn hành động lập tức được đặt ra trong chương trình thảo luận. Những tính toán sơ bộ cho biết rằng: trước lúc bắt đầu tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a, cần có một thời gian tạm ngừng chiến dịch để điều quân, tích lũy và chuyển lên phía trước những phương tiện vật chất cần thiết, nhất là đạn dược và nhiên liệu. Rõ ràng, tất cả những vấn đề trên không tránh khỏi làm nảy sinh ra một tình trạng khẩn trương lớn trong ngành đường sắt. Khó khăn về vận tải cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho tất phải chuyển sang thế tạm thời phòng ngự.

Bộ tổng tham mưu không coi việc phòng ngự là mục tiêu chính, nhưng là một biện pháp bắt buộc, giúp ta có điều kiện chuẩn bị tốt cuộc tiến công quyết định sắp tới. Lại còn dự kiến nữa là việc chuyển sang phòng ngự trên toàn bộ mặt trận Xô – Đức, kết hợp với việc ngụy trang chiến dịch, sẽ làm cho quân địch mất phương hướng, khó đoán nổi những ý định xác thực của Bộ chỉ huy Lên Xô.

Giữa tháng Tư, khi đề nghị này được báo cáo lần đầu ở Đại bản doanh thì I. V. Xta-lin không đồng ý. Đồng chí có khuynh hướng cứ tiếp tục những hành động tiến công.

- Chúng ta cần suy nghĩ thêm – Tổng tư lệnh tối cao nói, mặc dầu biết rõ là nhiều tư lệnh phương diện quân phản đối việc tiến hành những chiến dịch đệm, vì thường thu được ít kết quả.

Đến ngày hôm sau, I. V. Xta-lin mới đồng ý cho hướng Tây – Bắc và hướng Tây chuyển sang phòng ngự. Những chỉ thị về việc này ban hành ngày 17 và 19 tháng Tư. Còn với những phương diện quân khác thì Tổng tư lệnh tối cao ra lệnh không được vội vã, mà như cách nói của đồng chí là phải “chuyển sang phòng ngự dần dần”, theo mức độ tạm ngừng tiến công. Thực tế thì, từ ngày 1 tới 7 tháng Năm, các nơi mới nhận được chỉ thị chuyển sang phòng ngự. Cần phải nói rõ rằng trong bất cứ trường hợp nào nội dung của những chỉ thị ấy cũng vẫn toát lên tinh thần chuẩn bị cho tiến công. Đại bản doanh yêu cầu:

“1. Tổ chức quan sát địch hằng ngày thật cẩn thận, có nhiệm vụ phát hiện hệ thống phòng ngự và hỏa lực từng hỏa điểm độc lập của địch, từng khẩu đội súng cối và pháo. Mọi biến động về tình hình địch phải được kịp thời cân nhắc và ghi vào những sơ đồ trinh sát và sơ đồ các mục tiêu.

2. Để ngụy trang hệ thống phòng ngự, phải che giấu những phương tiện hỏa lực của ta và tích lũy đạn dược, cần giảm bớt những hoạt động bắn phá của pháo binh, súng cối và vũ khí của bộ binh; quy định cho những phương tiện hỏa lực nào được tách riêng ra để phát huy hỏa lực. Tất cả những trận địa hỏa lực mà địch đã bắn vào đều phải đổi chỗ.

Chỉ được phép bắn từ những trận địa hỏa lực lâm thời hoặc dự bị.

Việc quy định giới hạn tiêu phí đạn dược trong ngày cho từng khẩu đội, nhất là pháo cỡ lớn (pháo cối 120 mi-li-mét, lựu pháo 122 mi-li-mét và 152 mi-li-mét), phải làm thật chặt chẽ”.

Bộ tổng tham mưu tiến hành xây dựng ý định tác chiến công, rồi sau đó xây dựng kế hoạch hành động trong chiến cục mùa hè năm 1944, trên cơ sở những đề nghị của các tư lệnh phương diện quân. Các đồng chí đều hiểu rõ tình huống đến từng chi tiết một.

Hội đồng quân sự phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 thấy nhiệm vụ của mình là phải tiêu diệt quân đội phát-xít Đức đang chiếm lĩnh khu vực rộng Min-xcơ, Ba-ra-nô-vi-tsi, Xlô-nim, Brét, Cô-ven, Lu-ni-nét, Bô-brui-xcơ; sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch, dự kiến sẽ cho các tập đoàn quân của ta tiến ra tuyến Min-xcơ, Xlô-nim, Brét, sông Tây Búc, nhờ đó chúng ta sẽ cắt đứt được tất cả những đường bộ và đường sắt chủ yếu của địch trên một chiều sâu tới 300 ki-lô-mét, nghĩa là sẽ phá vỡ việc hiệp đồng của những cụm chiến dịch của địch trên hướng Tây.

Chiến dịch dự kiến sẽ rất phức tạp. Theo ý kiến của tư lệnh C. C. Rô-cô-xôp-xki thì chiến dịch không thể tiến hành cùng một lúc với mọi lực lượng của phương diện quân, vì hệ thống phòng ngự của địch ở phía Đông Min-xcơ rất chắc, cứ đột phá chính diện vào đây thì thật nông nổi, thiếu thận trọng. Do đó, đồng chí đề nghị tiến hành chiến dịch là làm hai giai đoạn.

Trong giai đoạn thứ nhất, dài chừng 12 ngày, thì sử dụng lực lượng bốn tập đoàn quân bên cánh trái của phương diện quân để phá vỡ sự ổn định phòng ngự của địch ở mặt Nam. Vì vậy, dự định sẽ tiêu diệt toán quân địch đúng đối diện và đánh chiếm những trận địa bên bờ Đông sông Tây Búc, trên khu vực từ Brét đến Vla-đi-mia Vô-lưn-xki, và như vậy là đánh vu hồi vào sườn phải của Cụm tập đoàn quân “trung tâm”.

Còn trong giai đoạn thứ hai thì dự kiến toàn bộ lực lượng của phương diện quân sẽ hành động đồng thời, tiêu diệt cụm Bô-brui-xcơ và Min-xcơ của địch. Dựa vào những trận đánh chiếm được dọc theo sông Tây Búc và bảo đảm sườn trái của mình chống những cuộc phản kích của địch từ phía Tây và Tây – Bắc đến, những tập đoàn quân bên sườn trái của phương diện quân phải sử dụng những lực lượng chủ yếu của mình từ khu vực Brét đột phá vào phía sau lưng quân địch ở Cô-brin, Xlô-nim, Xtôn-bơ-txu. Đồng thời sẽ mở mũi đột kích thứ hai: dùng cánh phải của phương diện quân từ khu vực Rô-ga-tsi-ốp, Giơ-lô-bin đột kích vào hướng chung tới Bô-brui-xcơ và Min-xcơ.

Ước tính thời gian cần thiết cho việc điều động bộ đội, để hoàn thành những nhiệm vụ trên, ta thấy cần ít ra là 30 ngày. Muốn giành thắng lợi cho cuộc cơ động vu hồi này, cần phải tăng cường cho cánh trái vu hồi của phương diện quân từ một đến hai tập đoàn quân xe tăng.

Ý định ấy có tầm quan trọng lớn và là mẫu mực cho cách giải quyết độc đáo nhiệm vụ tiến công trên một chính diện rất rộng. Trước mặt tư lệnh phương diện quân là những vấn đề rất phức tạp về chỉ đạo hành động của bộ đội trên các hướng rất phân tán ở miền Pô-lê-xi-ê. Đến nỗi, Bộ tổng tham mưu đã nghĩ tới vấn đề: có nên chia phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 ra thành hai hay không?

Nhưng C. C. Rô-cô-xốp-xki lại chứng minh rằng những hành động ấy đều theo một kế hoạch chung và được một bộ tư lệnh phương diện quân chỉ đạo chung trong khu vực này thì sẽ hợp lý hơn. Đồng chí tin chắc rằng trong trường hợp này, Pô-lê-xi-e sẽ là một sự kiện không làm cho hành động của bộ đội bị phân tán, mà lại thống nhất được những hành động ấy.

Đáng tiếc là lúc này, Đại bản doanh chưa có khả năng tách ra và tập trung ở khu vực Cô-ven những lực lượng và phương tiện cần thiết, nhất là những tập đoàn quân xe tăng. Vì vậy, ý định cực kỳ hay của C. C. Rô-cô-xốp-xki không được thực hiện. Tuy vậy, ý định mở những mũi đột kích theo phương hướng ấy, với hành động liên tục của bộ đội trong điều kiện nhiều rừng và đầm lầy của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 nói lên, đã được Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu sử dụng khi lập kế hoạch những chiến dịch sau này.

Gh. C. Giu-cốp trong thời gian ấy được cử giữ chức tư lệnh phương diện quân U-crai-na 1, thay N. Ph. Va-tu-tin hy sinh, cũng gửi lên Đại bản doanh ý kiến của mình về những hành động tiến công tiếp sau. Sau khi kết thúc việc tiêu diệt tập đoàn Prô-xcu-rốp – Ca-mê-nét – Pô-đôn-xki của địch, và sau khi chiếm lĩnh được Tséc-nốp-xư, đồng chí có ý định tiêu diệt địch ở khu vực Lơ-vốp và cho bộ đội mình tiến ra biên giới quốc gia. Nhiệm vụ trước mắt của những lực lượng chủ yếu trong phương diện quân là đánh chiếm Vla-đi-mia- Vô-lưn-xki bên cánh phải, Lơ-vốp ở giữa, và Đrô-gô-bứt bên cánh trái. Nhiệm vụ tiếp sau là giải phóng khu vực Pê-rê-mư-slơ. Cơ sở ý định của chiến dịch Lơ-vốp lại vẫn là cơ động vu hồi.

Tuy nhiên, chiến dịch này hồi ấy cũng không được thực hiện, chủ yếu là vì chưa có đủ lực lượng. Nhưng cái hạt nhân duy lý trong ý định của vị tư lệnh thì không mất đi. Đánh giá kỹ những khả năng phát triển tình huống khi tiến công, chúng tôi đã phát hiện ra mối quan hệ thật chặt chẽ giữa những tập đoàn quân sườn trái của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 với bộ đội của phương diện quân U-crai-na 1 và điều đó có ảnh hưởng quyết định đến trình tự và thời hạn tiến hành những chiến dịch mùa hè ở khu vực này.

Đến hạ tuần tháng Tư, Bộ tổng tham mưu đã thu thập xong mọi ý kiến về chiến cục mùa hè. Đó là hệ thống những chiến dịch lớn nhất trong lịch sử chiến tranh, tiến hành trong một không gian mênh mông từ miền Pri-ban-tích đến núi Các-pát, thu hút trên dưới năm, sáu phương diện quân vào những hành động tích cực gần như cùng một lúc. Nhưng trong quá trình tiếp tục nghiên cứu thực chất của công việc, chúng tôi đã nhận ra được rằng: việc tiến hành một chiến dịch lớn độc lập trên hướng Lơ-vôp và cả những chiến dịch trên các hướng Vư-boóc-gơ và Xvia – Pê-tơ-rô-da-vết-xcơ là hợp lý hơn.

Bây giờ, chiến cục mùa hè hiện ra theo trình tự như sau. Đầu tháng Sáu, phương diện quân Lê-nin-grát sẽ mở màn chiến cục bằng cuộc tiến công vào Vư-boóc-gơ, rồi sau đó, thu hút phương diện quân Ca-rê-li-a vào tiến công tiêu diệt tập đoàn Xvia – Pê-tơ-rô-da-vôt-xcơ của địch. Kết quả của các chiến dịch trên là phải loại ra khỏi vòng chiến ông bạn Phần Lan của nước Đức Hít-le.

Tiếp theo cuộc tiến công của phương diện quân Ca-rê-li-a, những hành động ở Bê-lô-ru-xi-a phải nổ ra ngay và cố đạt cho được tính bất ngờ. Đến khi bộ chỉ huy quân Đức hiểu ra rằng chính đó mới là những sự kiện quyết định, và điều những đội dự bị của chúng từ phía Nam đến, thì phương diện quân U-crai-na 1 phải triển khai ngay cuộc tiến công trời giáng vào hướng Lơ-vốp.

Tiêu diệt những tập đoàn quân địch ở Bê-lô-ru-xi-a và ở Lơ-vôp là nội dung cuộc đột kích chủ yếu của các Lực lượng vũ trang Liên Xô trong chiến cục mùa hè năm 1944. Trong thời gian này, lực lượng của phương diện quân Pri-ban- tích 2 phải hành động tích cực để kiềm chế những đơn vị của Cụm tập đoàn quân “bắc” của địch, vì cụm tập đoàn quân này nhất định sẽ cố bảo đảm cho đơn vị bạn bên phải là Cụm tập đoàn quân “Trung tâm” được ổn định.

Và cuối cùng, do kết quả của những mũi đột kích mạnh vừa kể, quân thù sẽ bị thất bại, đến lúc đó, ta có thể xác nhận rằng cuộc tiến công trên hướng mới ở Ru-ma-ni, Bun-ga-ri, Nam Tư và cả ở Áo, Hung, Tiệp Khắc – sẽ được bảo đảm.

Đến cuối tháng Tư thì kế hoach chiến cục mùa hè được báo cáo lên Đại bản doanh như vậy và được lấy làm cơ sở để xây dựng những mục tiêu chính trị của các Lực lượng vũ trang Liên Xô trong nhật lệnh ngày 1 tháng Năm của Tổng tư lệnh tối cao. Nhật lệnh kêu gọi bộ đội hãy quét sạch địch ra khỏi đất đai của Tổ quốc ta và giải phóng các dân tộc anh em: Ba Lan, Tiệp Khắc cùng những nước Đông Âu khác, khỏi ách chiếm đóng của quân Hít-le.

Bắt tay vào chuẩn bị chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a, Bộ tổng tham mưu muốn lừa cho bộ chỉ huy Hít-le tin là mùa hè năm 1944 những mũi đột kích của Quân đội Liên Xô sẽ ở phía Nam và ở miền Pri-ban-tích. Ngay ngày 3 tháng Năm, tư lệnh phương diện quân U-crai-na 3 nhận được chỉ thị sau đây:

“Các đồng chí sẽ tiến hành những biện pháp nghi binh chiến dịch để lừa địch, làm cho chúng nhận lầm rằng bên sườn phải của phương diện quân đang tập trung từ 8 tới 9 sư đoàn bộ binh đã được tăng cường xe tăng và pháo binh, khu vực tập trung giả phải náo nhiệt, có vận động, bố trí từng nhóm, từng tổ bộ đội, xe pháo, xe tăng, đại bác và có thiết bị khu vực; những nơi đặt các mô hình xe tăng và pháo binh phải có pháo cao xạ, đồng thời có cả mạng lưới cao xạ phòng không trong toàn khu vực, có các máy bay tiêm kích bay tuần tiễu.

Phải dùng máy bay quan sát và chụp ảnh từ trên không để kiểm tra hình dáng các mục tiêu giả làm cho các mục tiêu ấy giống hệt như thật… Thời hạn tiến hành ngụy trang chiến dịch bắt đầu từ ngày 5 đến hết ngày 15 tháng Sáu năm nay”.

Phương diện quân Pri-ban-tích 3 cũng nhận được mệnh lệnh tương tự. Phương diện quân này phải thực hiện những công tác ngụy trang ở phía Đông sông Tre-re-khơ.

Quân địch cắn cả hai cái mồi ấy. Bộ chỉ huy Đức tỏ ra rất lo ngại, nhất là ở hướng Nam. Tăng cường trinh sát đường không để lấy tài liệu, bộ chỉ huy Đức muốn xác định chắc chắn ý định của ta ở phía Bắc Ki-si-ni-ôp.

Những tập đoàn quân xe tăng ở lại trên hướng Tây – Nam cũng có nghĩa là lừa địch. Quân trinh sát của địch theo dõi cả hai mồi ấy của ta, thấy những tập đoàn quân nói trên không rời khỏi vị trí, chúng liền kết luận rằng chúng ta chắc chắn sẽ tiến công ở đây. Thực ra, chúng ta đã chuẩn bị dần mũi đột kích của xe tăng ở chỗ khác hẳn. Được bổ sung trước hết về người và kỹ thuật là những binh đoàn xe tăng và cơ giới sắp được điều sang hướng Bê-lô-ru-xi-a.

Chúng ta còn áp dụng cả những biện pháp khác để bảo đảm bí mật ý định của ta. Chỉ có một số rất ít người trực tiếp xây dựng kế hoạch chiến cục mùa hè nói chung và chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a nói riêng. Chỉ có năm người được biết toàn diện các kế hoạch này là: Phó tổng tư lệnh tối cao, Tổng tham mưu trưởng và Phó tổng tham mưu trưởng, cục trưởng Cục tác chiến và một cục phó Cục tác chiến. Tuyệt đối cấm thư từ, và cả những câu chuyện bằng điện thoại hay điện báo cũng không được đả động đến vấn đề này, lại có tổ chức kiểm tra theo dõi việc báo mật thật nghiêm ngặt.

Những ý định tác chiến của phương diện quân cũng chỉ có hai hay ba người xây dựng, thường phải viết tay và do chính vị tư lệnh phải tự mình đi báo cáo. Trong các đơn vị thì triển khai những công tác nhằm hoàn chỉnh việc phòng ngự. Báo chí của các phương diện quân, tập đoàn quân và sư đoàn chỉ được phép đăng những tư liệu về đề tài phòng ngự mà thôi.

Toàn bộ công tác cổ động, tuyên truyền miệng đều hướng vào việc cố thủ bám chắc lấy những trận địa đang chiếm lĩnh. Những đài phát thanh có sóng điện mạnh đều tạm thời ngừng hoạt động một thời gian. Trong mạng lưới điện đài dùng cho huấn luyện, chỉ sử dụng những đài phát có sóng yếu, bố trí cách tiền duyên ngoài 60 ki-lô-mét và hoạt động bằng dây ăng-ten thấp, dưới sự kiểm soát của điện đài đặc biệt.

Toàn bộ tổng hợp những biện pháp ngụy trang chiến dịch cuối cùng đã tỏ ra rất cần thiết. Lịch sử chứng minh là địch đã nhầm lẫn nghiêm trọng về những ý định thực sự của chúng ta. C. Típ-pen-xkhiếc-khơ, bấy giờ chỉ huy tập đoàn quân Đức 4, sau này có viết rằng tướng Mô-đen, chỉ huy mặt trận xứ Ga-li-xi-a, đã cho rằng quân Nga không thể tiến công ở đâu hết, ngoài khu vực của hắn ta. Và, bộ chỉ huy tối cao của Hít-le đã hoàn toàn đồng ý với hắn ta, nhưng công nhận thêm là mũi đột kích của chúng ta ở Ga-li-xi-a có thể kết hợp với mũi đột kích ở miền Pri-ban-tích, còn bộ đội xô-viết đang triển khai trước mặt Cụm tập đoàn quân “trung tâm” thì chỉ có ý nghĩa thứ yếu thôi.

Cả thượng tuần tháng Năm 1944, chúng tôi dành cho việc biên soạn kế hoạch chiến cục mùa hè. Những chi tiết của cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a lại được xác định rõ thêm nhiều lần nữa. Vì không đủ lực lượng dự bị, nên chúng ta phải bỏ đề nghị của C. C. Rô-cô-xốp-xki định tiến công qua Cô-ven, nhằm đánh tan mặt sau quân địch ở phía Tây miền Pô-lê-xi-ê. Chúng ta tập trung vào phương án đã cắt giảm của chiến dịch ở phía Bắc những khu rừng và đầm lầy ven sông Pri-pi-át. Trước đó, chúng ta lại hỏi ý kiến tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, đồng thời cho biết là trong thời gian sắp tới có thể cho tập đoàn quân 28 và quân đoàn xe tăng 9 phối thuộc vào phương diện quân.

C. C. Rô-cô-xốp-xki và cơ quan tham mưu của đồng chí nghiên cứu tất cả tình hình trên và báo cáo với Bộ tổng tham mưu ý kiến của mình vào ngày 11 tháng Năm. Các đồng chí cho rằng mục đích chiến dịch của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 là tiêu diệt cụm Giơ-lô-bin của bọn Hít-le, và sau đó phát triển thắng lợi tới Bô-brui-xcơ, Ô-xi-pô-vi-tri, Min-xcơ.

Trong chiến dịch ấy, những lực lượng chủ yếu của phương diện quân sẽ đột kích không phải chỉ một mũi, mà là hai mũi cùng một lúc và đều mạnh như nhau: mũi thứ nhất vào bờ phía Đông sông Bê-rê-di-na tiến ra Bô-brui-xcơ; mũi thứ hai vào bờ phía Tây từ phía Nam vu hồi vào Bô-brui-xcơ.

Tổ chức hai mũi đột kích chủ yếu, lực lượng tương đương với nhau như thế, một là để làm cho địch mất phương hướng và bị lâm vào thế bất ngờ, hai là cốt không cho chúng có thể cơ động chống lại cuộc tiến công của ta. Những hành động thứ yếu thì dự định diễn ra trên hướng Xlút-xcơ, Ba-ra-nô-vi-tsi.

Rô-cô-xốp-xki đặc biệt coi trọng ý nghĩa của việc tiến công liên tục. Nhằm loại trừ những thời gian tạm ngừng chiến thuật, và sau này là tạm ngừng chiến dịch, các đồng chí tính là đến ngày thứ ba của chiến dịch, khi đã chọc thủng tuyến phòng ngự chiến thuật của Đức thì sẽ điều tập đoàn quân 3 và quân đoàn xe tăng 9 vào dải tiến công để phát triển thắng lợi trên hướng Bô-brui-xcơ. Ngay lúc các tập đoàn quân 3 và 48 tiếp cận đến sông Bê-rê-di-na, cần điều ngay tập đoàn quân 28, sinh lực còn dồi dào, vào chỗ tiếp giáp giữa hai tập đoàn quân trên với nhiệm vụ phải đánh chiếm thành pha Bô-brút-xcơ và tiếp tục tiến công tới Ô-xi-pô-vi-tri, Min-xcơ.

Hành động theo phương pháp như thế quả là có khác thường đối với thời ấy, tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 dự định chia cắt những lực lượng địch đang chống cự, lần lượt tiêu diệt chúng, nhưng lại không ra sức bao vây ngay. Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu giữ những ý kiến ấy để nghiên cứu.

Đến ngày 14 tháng Năm, xây dựng xong chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a, chúng tôi tập hợp tất cả vào một kế hoạch thống nhất, lập thành văn kiện ngắn gọn và lên bản đồ tình huống. Tướng A. A. Grư-dơ-lốp viết tay văn kiện chiến dịch và ngày 20 tháng Năm, sau mấy hôm suy nghĩ tiếp nữa, A. I. An-tô-nốp mới ký vào văn kiện ấy.

Dù đã nghĩ nhiều đến tên gọi kế hoạch đó nhưng cho mãi đến lúc đệ trình lên Tổng tư lệnh tối cao, chúng tôi vẫn chưa tìm ra. I. V. Xta-lin đề nghị đặt tên cho kế hoạch ấy là “Ba-gra-chi-on” để nhớ đến vị tướng của dân tộc ta đã góp phần vào những chiến thắng của nước Nga trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm năm 1812.

Theo phương án đầu tiên của kế hoạch “Ba-gra-chi-on” thì mục tiêu chiến dịch là thanh toán chỗ lồi phòng ngự của địch ở khu vực Vi-tép-xcơ, Bô-brui-xcơ, Min-xcơ và tiến ra tuyến Đi-xna, Mô-lô-đê-tsnô, Xtôn-bơ-txư, Xta-rô-bin. Ý định chiến dịch nhằm tiêu diệt những tập đoàn hai bên sườn của quân địch, vu hồi vào hai bên sườn và đột phá phía giữa những trận địa của chúng, sau đó phát triển thắng lợi theo hai hướng, tiến tới hợp điểm ở Min-xcơ.

Tất cả lực lượng của bốn phương diện quân chúng ta, gồm ba phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a và phương diện quân Pri-ban-tích 1, đều hướng vào tiến công Cụm tập đoàn quân “trung tâm” của địch; còn một phần lực lượng không đáng kể thì phụ trách bảo đảm mặt phía Bắc và Tây – Nam của chiến dịch.

Lực lượng dự bị của Đại bản doanh cũng sẽ được cấp tốc điều vào hướng đột kích chủ yếu. Trong những ngày đầu tháng Sáu, phần tập trung ở đây hai tập đoàn quân lấy ở Crưm tới là tập đoàn quân 51 ở Đông – Nam Gô-men và tập đoàn quân cận vệ 26 khu vực I-ác-txê-vô.

Các lực lượng chủ yếu tham gia tiến công được chia thành hai cụm.

Cụm tập đoàn quân “A” gồm có phương diện quân Pri-ban-tích 1 và phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, tất cả có 39 sư đoàn bộ binh, 2 quân đoàn xe tăng, 1 quân đoàn kỵ binh, 6 sư đoàn pháo binh (kể cả 2 sư đoàn súng cối cận vệ).

Cụm “B” có phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 và những tập đoàn quân bên sườn phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, tất cả có 38 sư đoàn bộ binh, 1 quân đoàn xe tăng và một quân đoàn cơ giới, 3 sư đoàn pháo binh (trong đó có 1 sư đoàn súng cối cận vệ).

Nói chung, ta có tất cả 77 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn xe tăng, 1 quân đoàn cơ giới, 1 quân đoàn kỵ binh, 6 sư đoàn pháo nòng dài và 3 sư đoàn súng cối cận vệ để tiến công 42 sư đoàn địch (theo tính toán hồi đó của chúng ta thì con số đó thấp hơn một ít), đang phòng ngự ở chỗ lồi Bê-lô-ru-xi-a.

Bộ tổng tham mưu cho là những lực lượng như thế đủ bảo đảm cho chúng ta hoàn thành được ý định của chiến dịch. Tuy vậy, ít lâu sau ta mới phát hiện ra rằng số những sư đoàn của địch cao hơn con số ta nắm được, còn phương diện quân Pri-ban-tích 2 của ta thì đang yếu đi, không đủ sức kiềm chế chặt được các đơn vị của Cụm tập đoàn quân “bắc” của địch, vì vậy cụm tập đoàn quân ấy có thể đột kích vào một bên sườn ta, trong dải của đơn vị cạnh nó ở bên phải là Cụm tập đoàn quân “trung tâm” và như thế thì quả rất nguy hiểm cho ta.

Bởi vậy, kế hoạch phải hiệu chỉnh lại, theo kết quả việc xác định lại những lực lượng và phương tiện của địch. Chúng tôi đã dự kiến là dù sao thì cũng khó tránh khỏi được những việc như thế. Vì vậy, Bộ tổng tham mưu đã tổ chức những buổi thảo luận kế hoạch với các tư lệnh phương diện quân khoảng một tháng trước lúc bắt đầu tiến công, có tính đến cả những tình huống mới nhất và đến xu hướng phải triển của tình hình trong thời gian tiếp theo đó.

Yếu tố quan trọng nhất trong kế hoạch của bất kỳ một chiến dịch nào là ý định chiến dịch. Kế hoạch “Ba-gra-chi-on” có ý định tiêu diệt hoàn toàn những lực lượng chủ yếu của địch phòng ngự ở Bê-lô-ru-xi-a. Vấn đề này được thảo luận nhiều lần và về mọi mặt với Tổng tham mưu trưởng A. M. Va-xi-lép-xki và Phó tổng tư lệnh tối cao Gh. C. Giu-cốp.

Bộ tổng tham mưu dự kiến rằng, ngay trong thời gian đột phá phòng ngự cũng đã tiêu diệt được phần lớn quân tinh nhuệ của địch trong dải phòng ngự thứ nhất của chúng, là nơi mà sinh lực của chúng tập trung dày đặc. Do chỗ quân địch dành ít đơn vị ra làm nhiệm vụ dự bị và ta lại đặt nhiều hy vọng vào đòn đột kích hỏa lực đầu tiên trong vùng chiến thuật của chúng, nên các phương diện quân của ta được tăng cường nhiều sư đoàn pháo binh đột phá.

Còn nói đến các phương pháp hành động về sau, thì chúng có khác nhau. Khu vực Vi-tép-xcơ thì đã hoàn toàn rõ ràng, ở đây hình thái chiến dịch của quân đội xô-viết sẽ là hình thái đánh vu hồi, sâu vào trung tâm căn cứ này; vì vậy hợp lý hơn hết là bao vây kết hợp với chia cắt và tiêu diệt tập đoàn địch từng bộ phận một. Thuật ngữ “bao vây” dùng ở đây không có nghĩa như ở các hướng khác. Giống như trong chiến dịch “Ru-mi-an-txép”, phương pháp hành động ở đây phải rất thận trọng.

Kinh nghiệm rút ra từ chiến dịch lịch sử Xta-lin-grát và từ những chiến dịch lớn khác chứng minh rằng bao vây và tiêu diệt quân địch trong vòng vây tốn rất nhiều bộ đội và binh khí kỹ thuật, lại mất nhiêu thời gian. Mà ở Bê-lô-ru-xi-a này thì bất kỳ một sự chậm trễ nào trên mặt trận tiến công rộng như vậy, cũng đều tạo cho địch khả năng điều những lực lượng dự bị lớn lên phía trước, để chống đỡ những đòn đột kích của ta. Đồng thời, chúng ta lại phải tính toán cả đến điều kiện địa hình rừng – đầm lầy của chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a nữa: những điều kiện ấy không cho phép tổ chức một vòng vây dày đặc.

Trong tình huống cụ thể ấy, những phương pháp tiêu diệt địch như trước đây đều chưa thấy thích hợp. Cần phải nghĩ ra cái gì mới hơn kia. Chẳng hạn, đã nảy ra ý kiến là làm thế nào đánh tan đại bộ phận chủ yếu quân địch trong chiều sâu phòng ngự chiến thuật của chúng bằng những đòn đột kích pháo binh và không quân mạnh, hắt tàn quân của chúng ra khỏi những trận địa thiết bị sẵn, đẩy chúng vào rừng và đầm lầy, ở đó, địch sẽ lâm vào tình trạng bất lợi hơn, vì ta sẽ tiến công chúng từ chính diện, ở hai bên sườn và trên không và có cả du kích ở phía sau lưng chúng nữa. Và kết quả thì cũng sẽ như là đã hợp vây chúng và chúng ta cho rằng phương pháp hành động như vậy là tuyệt đối có lợi.

Vấn đề nhịp độ tiến công cũng được đặc biệt chú trọng trong khi xây dựng kế hoạch “Ba-gra-chi-on”. Rõ ràng, nhịp độ tiến quân của bộ đội tiến công mà cao, thì quân địch thật khó có thể tổ chức lại và tiến hành phòng ngự theo đúng kế hoạch của chúng, để rồi cuối cùng phải mất hẳn quyền chủ động phòng ngự và bị tiêu diệt hoàn toàn.

Nhưng muốn cho cuộc tiến công giữ nhịp độ cao, cần phải có những lực lượng cơ cộng, mà những lực lượng cơ động ấy thì trong thời gian xây dựng kế hoạch chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a, chúng ta lại hầu như chưa có. Tất cả những tập đoàn quân xe tăng của ta đều ở bên cánh phía Nam của mặt trận Xô – Đức như trước.

Hơn nữa, chúng ta còn hiểu rõ là trên địa hình rừng – đầm lầy rất phức tạp của đất Bê-lô-ru-xi-a này, ta chỉ có thể sử dụng một số lượng tương đối nhỏ những đơn vị cơ động, chủ yếu là những trung đoàn, lữ đoàn, và quân đoàn xe tăng độc lập, giỏi lắm là một tập đoàn quân xe tăng.

Không còn nghi ngờ gì nữa là nếu trong biên chế của binh đoàn đang tiến công mà có một tập đoàn quân xe tăng, thì có thể làm cho nhịp độ tiến công của chiến dịch tăng rất nhanh. Thế là Bộ tổng tham mưu đã quyết định đưa vấn đề này ra khi thảo luận kế hoạch ở Đại bản doanh.

Kế hoạch được đem ra thảo luận tại Đại bản doanh ngày 22 và 23 tháng Năm, với sự tham gia của Gh. C. Giu-côp, A. M. Va-xi-lép-xki, tư lệnh bộ đội phương diện quân Pri-ban-tích 1 là I. Kh. Ba-gla-mi-an, tư lệnh bộ đội phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 là C. C. Rô-cô-xốp-xki, các ủy viên Hội đồng quân sự của các phương diện quân trên, và cả các đồng chí A. A. Nô-vi-côp, N. N. Vô-rô-nôp, N. Đ. I-a-cô-vlép, A. V. Khơ-ru-li-ốp, M. P. Vô-rô-bi-ép, L. T. Pê-rê-xứp-kin và những cán bộ Bộ tổng tham mưu, đứng đầu là A. I. An-tô-nôp. I. Đ. Tséc-ni-a-khôp-xki ốm nên vắng mặt. I. E. Pê-tơ-rốp hoạt động trên hướng thứ yếu nên không được triệu tập đến Đại bản doanh.

Họp suốt hai ngày, cuối cùng hội nghị đề ra được mục tiêu của chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a là bao vây và tiêu diệt những lực lượng lớn của Cụm tập đoàn quân “trung tâm” trong khu vực Min-xcơ. Bộ tổng tham mưu, như đã nói ở trên, không muốn dùng cái từ “bao vây”, nhưng các đồng chí có nói rõ thêm cho thống nhất cách hiểu rằng bao vây bằng cách đồng loạt tiêu diệt trước những tập đoàn hai bên sườn của địch là tập đoàn Vi-tép-xcơ và Bô-brui-xcơ và cả những lực lượng của chúng tập trung ở Mô-ghi-li-ốp nữa, rồi nhân thể mà mở ngay đường ra tới thủ đô của Bê-lô-ru-xi-a bằng hai hướng vu hồi hợp điểm.

Trong quá trình thảo luận ý định chiến dịch, đã xác định phần những tập đoàn đột kích của các phương diện quân, giải quyết vấn đề tăng cường các đơn vị cơ động cho những tập đoàn ấy. Cả đề nghị của Bộ tổng tham mưu về việc sử dụng một tập đoàn quân xe tăng trên hướng chủ yếu của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 đã được thỏa mãn, và tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 được điều động đến đây. Chiều sâu và nhịp độ chiến dịch đều dự kiến là sẽ tăng lên ngay lúc tung các tập đoàn quân binh chủng hợp thành trong đội dự bị của Đại bản doanh vào hoạt động. Và, quyết định tiến công bắt đầu vào ngày 15-20 tháng Sáu.

I. Kh. Ba-gra-mi-an đề nghị hướng những nỗ lực của phương diện quân Pri-ban-tích 1 chủ yếu vào việc bảo đảm cho chiến dịch không bị Cụm tập đoàn quân “bắc” phản đột kích trở lại. Các đồng chí đã đồng ý với Ba-gra-mi-an. Nhiệm vụ của phương diện quân này có thay đổi một ít: nó không được quy định là sẽ tham gia trực tiếp vào việc bao vây quân địch ở phía Đông Min-xcơ. Phương diện quân Pri-ban-tích 1 phải tiến công vu hồi từ phía Nam vào Pô-lat-xcơ. Cắt những lực lượng chủ yếu của Cụm tập đoàn quân “bắc” ra khỏi cánh quân địch đang hoạt động ở khu vực chính giữa. Ngoài ra, lại có dự kiến giải quyết việc bảo đảm chiến dịch ở mặt phía Bắc bằng những hành động tích cực của phương diện quân Pri-ban-tích 2 nữa.

Cỏn sườn phía Nam thì chúng ta ít lo lắng hơn, vì miền Pô-lê-xi-ê sẽ bảo vệ chắc chắn cho nó, và mũi đột kích từ trong tung thâm ra sẽ hạn chế việc phản cơ động của quân địch, hơn nữa là trong quá trình chiến dịch “Ba-gra-chi-on”, phương diện quân U-crai-na 1 phải mở cuộc tiến công trên hướng Lơ-vốp nên không cần phải tách những lực lượng lớn ra để bảo đảm cho mặt sườn ấy.

Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 có nhiệm vụ kiềm chế quân địch càng nhiều càng tốt, không để cho bộ chỉ huy của bọn Hít-le sử dụng lực lượng của chúng chống lại mũi cơ động vu hồi của hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 3. Về mặt này, I-van E-phi-mô-vích Pê-tơ-rốp đã có đầy đủ kinh nghiệm, và chúng ta có thể yên tâm được.

Ngày 24 tháng Năm, sau khi khỏi bệnh, I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki đến Mát-xcơ-va. Cùng đi với đồng chí có ủy viên Hội đồng quân sự V. E. Ma-ca-rôp. Các đồng chí mang theo kế hoạch chiến dịch của phương diện quân do chính Gh. C. Giu-côp cùng với A. M. Va-xi-lép-xki nghiên cứu và căn bản tán thành.

Nhưng ngày 25 tháng Năm, lúc báo cáo kế hoạch ở Đại bản doanh, phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 lại được đề nghị xây dựng kế hoạch mở hai mũi đột kích đồng thời vào hai hướng Bô-gu-sép-xcơ và Oóc-sa. I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-xki, V. E. Ma-ca-rốp và chủ nhiệm hướng là đại tá V Ph. Me-rơ-nốp phải nghiên cứu suốt đêm kế hoạch ấy. Trong kế hoạch chiến dịch mới này, có nói rõ là phương diện quân được tăng cường tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 và một sư đoàn pháo binh đột phá.

Trước khi trời sáng, Tséc-ni-a-khôp-xki, Ma-ca-rôp và tôi đến “biệt thự xa” của Xta-lin trên đường phố Đi-mi-tơ-rô-xcôi-ê. Tổng tư lệnh tối cao nghe báo cáo của chúng tôi và phê chuẩn kế hoạch, không bổ sung gì thêm.

Sau đó, chúng tôi dốc hết tâm lực vào việc bảo đảm vật chất cho cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a. Những đoàn tàu chở bộ đội, vũ khí, trang bị kỹ thuật và những vật tư quân sự khác ở khắp mọi nơi đổ về phía Bê-lô-ru-xi-a. Hai tập đoàn quân binh chủng hợp thành Crưm dần dần được điều tới. Chúng tôi cố tìm mọi cách giữ kín những việc ấy.

Ngày 21 tháng Năm, tư lệnh phương diện quân U-crai-na 4 nhận lệnh phải tuân thủ những biện pháp giữ bí mật hết sức nghiêm ngặt trong việc chuyên chở bằng đường sắt. Cấm chỉ việc trao đổi thư từ về vấn đề này và gần như đình hẳn việc đi công tác về Mát-xcơ-va của các sĩ quan và tướng lĩnh. Ở các ga, cứ tàu đến là các đội tuần tra nhanh chóng vây chặt lấy đoàn tàu; người ra khỏi toa phải có lệnh. Các cơ quan đường dây của cục giao thông vận tải quân sự và cán bộ trong Bộ dân ủy giao thông cũng không được thông báo gì hết ngoài số liệu của đoàn tàu.

Lúc bắt đầu điều động tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5, thì phát hiện ra rằng các đồng chí ở phương diện quân U-crai-na 2 muốn giữ lại một phần xe tăng và những trung đoàn pháo tự hành. Ý muốn của phương diện quân cố nhiên cũng có thể hiểu được, nhưng làm yếu tập đoàn quân là sai với dự tính của Bộ tổng tham mưu. Vì vậy, phương diện quân U-crai-na 2 nhận được chỉ thị sau đây:

“Điều tập đoàn quân xe tặng cận vệ 5 đi thì phải có trong biên chế quân đoàn của Vôp-tsen-cô và quân đoàn của Ki-ri-tsen-cô với toàn bộ số người, vật chất, khí tài và tài sản. Cả hai quân đoàn đều phải có ít nhất là 300 xe tăng”.

Trong khi thực hiện việc điều động bộ đội và tích lũy những phương tiện vật chất cần thiết cho cuộc tiến công sắp tới chúng tôi luôn luôn lo lắng đến khâu vận tải bằng đường sắt. Khâu này rất nặng và có thể làm cho chúng ta gặp khó khăn. Những ý nghĩ về việc phải kịp thời hoàn thành việc chuyên chở bằng đường sắt tựa hồ chiếc đinh nhọn cắm vào xương tủy của cán bộ Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu.

Chúng tôi đã báo cáo nhiều lần mối lo lắng ấy với Xta-lin. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao tin vào bộ trưởng Bộ dân ủy giao thông, và ít lâu sau đồng chí cũng phát hiện ra rằng chính mình đã đánh giá quá cao những khả năng của đồng chí đó. Đường sắt không giải quyết được nhiệm vụ đúng thời hạn, nên chiến dịch mở ra chậm mất mấy ngày.

Song song với công tác lớn là tập trung bộ đội và những thư dự trữ cho cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a, cố nhiên chúng tôi vẫn phải tiếp tục hoàn chỉnh mọi chi tiết tác chiến của kế hoạch chiến cục mùa hè nói chung. Bộ tổng tham mưu nghiên cứu những ý kiến về các chiến dịch Vư-boóc-gơ và Via – Pê-tơ-rô Đa-vốt-xcơ, do bộ tư lệnh phương diện quân Lê-nin-grát, đứng đầu là đại tướng L. A. Gô-vô-rốp và bộ tư lệnh phương diện quân Ca-rê-li-a, đứng đầu là đại tướng K. A. Mê-rét-xcốp gửi lên.

Như đã nói ở trên, mọi người đều tin chắc vào kết cục thắng lợi của hai phương diện quân và chuỗi chiến thắng của Quân đội tiên Xô trong mùa hè năm 1944 sẽ bắt đầu bằng những hành động của các phương diện quân ấy. Sau đó, thắng lợi nối tiếp thắng lợi sẽ truyền qua tay bộ đội trên hướng chủ yếu là hướng Bê-lô-ru-xi-a và trong quá trình tiến công, lại truyền sang những tập đoàn quân của phương diện quân U-crai-na 1 hiện đang dưới quyền chỉ huy của I. X. Cô-nép.

Quy mô những hành động tích cực của quân đội xô-viết phải tăng lên không ngừng như vậy, để cho cuộc tiến công của ta đến cuối mùa hè sẽ biến thành tảng tuyết lở từ trên núi xuống như vũ bão cuốn phăng mọi chướng ngại, làm cho bộ máy chiến tranh của Đế chế thứ ba không thể nào đứng vững được nữa. Chính phủ chúng ta không giấu giếm các nước đồng minh của mình về việc đó.

Ngày 30 tháng Năm, những ý định tác chiến của Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã được thể hiện hoàn chỉnh trên bản đồ của Bộ tổng tham mưu. Ngày 31 tháng ấy, đã ra những chỉ thị thích hợp cho các phương diện quân, và đến ngày 6 tháng Sáu thì I. V. Xta-lin viết cho U Sớc-sin:

“Cuộc tiến công mùa hè của quân đội xô-viết tổ chức theo thỏa ước ở hội nghị Tê-hê-ran, đến giữa tháng Sáu sẽ bắt đầu trên một trong những khu vực quan trọng của mặt trận.

Cuộc tổng tiến công của quân đội xô-viềt sẽ triển khai thành từng giai đoạn liên tục điều những tập đoàn quân bước vào những chiến dịch tiến công. Cuối tháng Sáu và trong tháng Bảy, các chiến dịch tiến công sẽ biến thành cuộc tổng tiến công của quân đội xô-viết”.

Bức thông điệp ấy mang nội dung xác thực và khá chi tiết về những ý định tác chiến của chúng ta.

Tiếp theo chỉ thị về cuộc tiến công ở Bê-lô-ru-xi-a, các đồng chí đại diện của Đại bản doanh lập tức xuống ngay các mặt trận. Trước hết, các đồng chí có nhiệm vụ kiểm tra xem chỉ thị có được hiểu đúng đắn không, tất cả các đồng chí tư lệnh đã rõ nhiệm vụ của mình chưa và có hiểu như nhau không. Rồi các đồng chí đại diện của Đạt bản doanh phải cùng với bộ tư lệnh và các cơ quan tham mưu phương diện quân nghiên cứu những phương pháp tốt nhất để sử dụng các lực lượng và phương tiện sẵn có, tổ chức hiệp đồng và sau đó là kiểm tra chặt chẽ việc chấp hành kế hoạch đã được phê chuẩn. Các đồng chí còn có nhiệm vụ giúp đỡ các phương diện quân bảo đảm vật chất – kỹ thuật cho chiến dịch.

Gh. C. Giu-cốp có nhiệm vụ phối hợp những hoạt động của các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 2. A. M. Va-xi-lép-xki được cử xuống phối hợp những hành động của phương diện quân Pri-ban-tích 1 với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, là những phương diện quân mà các đồng chí tư lệnh còn chưa đủ kinh nghiệm tổ chức và tiến hành những chiến dịch của phương diện quân theo quy mô lớn. Tséc-ni-a-khôp-xki trước đó nói chung chưa chỉ huy phương diện quân. Vì vậy, A. M. Va-xi-lép-xki không những chỉ có thiên tài của một vị chỉ huy quân sự lớn, mà lại còn có tính cách của một nhà giáo dục, đến đây rất có ích.

Tôi được cử đến phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, đứng đầu nhóm sĩ quan của Bộ tổng tham mưu. Tình hình công tác của tôi có đôi nét độc đáo: một mặt tôi trực thuộc quyền đồng chí Gh. C. Giu-cốp, đại diện của Đại bản doanh, nhưng mặt khác tôi lại có quyền quan hệ trực tiếp với Tổng tham mưu trưởng và cùng với đồng chí giải quyết tất cả những vấn đề trong quá trình chuẩn bị chiến dịch.

Song song với việc phải hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác, tôi còn nhiệm vụ cùng với đồng chí G. Ph. Da-kha-rốp, tư lệnh mới của phương diện quân vừa được chỉ định t