← Quay lại trang sách

Chương 14 Chiến Cục Cuối Cùng.

Năm mới tại “biệt thự gần thành phố” của Xta-lin ở Cun-xê-vô. – Hút lực lượng địch vào Đông Phổ và sang phía Nam. – Gh. C. Giu-cốp được cử làm tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1. – I. V. Xta-lin đảm nhiệm việc phối hợp hành động của bốn phương diện quân. – Có thể tiến công liên tục vào Béc-lin được không? – Sớc-sin đã kích thích lòng tham của Mỹ ra sao. – Cuộc họp tại Đại bản doanh ngày 1 tháng Tư 1945. – Đức đầu hàng.

Còn mấy tiếng đồng hồ nữa là bước sang năm 1945, A. I. An-tô-nôp báo cho tôi:

- Pô-xcri-ô-bư-sép vừa gọi dây nói báo cho biết là chúng ta sẽ đến “Biệt thự gần thành phố” của Xta-lin lúc mười một giờ rưỡi đêm, không mang theo bản đồ và tài liệu.

Tôi hỏi: vậy là thế nào, A. I. An-tô-nốp trả lời và bông đùa:

- Có thể chúng ta được mời đến ăn mừng Năm mới? Tốt chứ sao…

Mấy phút sau, I-a. N. Phê-đô-ren-cô, tư lệnh bộ đội xe tăng thiết giáp và cơ giới, gọi điện thoại tới chỗ chúng tôi. Đồng chí cũng hỏi xem chúng tôi có biết gì về việc đồng chí được triệu tập đến “biệt thự gần thành phố” cửa Xta-lin, mà lại đi người không kia chứ..

Tôi trả lời là chính chúng tôi cũng không biết tại sao lại có chuyện mời lạ như vậy.

Đúng 23 giờ, An-tô-nốp với tôi cùng đi bằng xe của đồng chí, dọc đường cứ cố đoán xem lý do cuộc triệu tập này. Thường thì những chuyến đi báo cáo hàng ngày của chúng tôi cho Tổng tư lệnh tối cao bao giờ cũng muộn hơn thế này; còn việc liên hoan thì chưa bao giờ chúng tôi được mời cả; vả lại trong những năm chiến tranh, gần như chúng tôi đã quên bẵng đến cả cái từ “liên hoan” ấy.

Tại “biệt thự gần thành phố” của Xta-lin, chúng tôi còn chạm trán với mấy quân nhân nữa: A. A. Nô-vi-côp. N. N. Vô-rô-nốp, I-a. N. Phê-đô-ren-cô, A. V. Khơ-ru-li-ốp và một lát sau thì cả X. M. Bu-đi-on-nưi cũng đến. Đúng là chúng tôi được mời đến đón mừng Năm mới, bàn tiệc dọn sẵn như thế kia đủ chứng tỏ việc đó lắm.

Còn mấy phút nữa thì đến mười hai giờ đêm. Các đồng chí ủy viên Bộ chính trị cùng đến với mấy đồng chí bộ trưởng dân ủy, mà tôi chỉ nhớ có hai người: B. L. Van-ni-cốp và V. A. Ma-lư-sép. Có mặt tất cả hai mươi lăm nam đồng chí và chỉ có một nữ đồng chí vợ Pan-mi-rô Tô-li-át-ti, Tổng bí thư Đảng cộng sản I-la-li-a. Cả hai vợ chồng bấy giờ đều có mặt ở đây.

Như thường lệ trong mọi bữa tiệc, Xta-lin ngồi vào chỗ của mình ở đầu bàn. Cái bình nước lọc đặt bên tay phải đúng như mọi khi. Chẳng có ai phục vụ quanh bàn ăn cả, mỗi người tự mình lấy thức ăn vào đĩa mình tùy thích.

Lúc chuông điểm mười hai tiếng, Tổng tư lệnh tối cao nói mấy lời ca ngợi những thành tích lớn lao của nhân dân xô-viết, đã làm tất cả những gì có thể để đánh tan quân đội Hít-le cho thắng lợi của chúng ta càng chóng đến. Đồng chí chúc mừng các Lực lượng vũ trang Liên Xô và chúc mừng tất cả chúng

- Chúc mừng các đồng chí Năm mới!

Chúng tôi chúc mừng sức khỏe lẫn nhau và nâng cốc chúc cho ngày toàn thắng sẽ đến trong năm 1945 này. Không khí dè dặt lúc ban đầu bỗng tan ngay. Chuyện trò trở nên náo nhiệt. Chủ nhân cũng bỏ cả nghi thức: sau mấy tuần chạm cốc liền rời khỏi bàn, tra thuốc vào tẩu, hút và bắt chuyện với vị khách nào đấy. Những người còn lại chẳng có gì gò bó nữa, cũng phân ra từng nhóm. Tiếng cười, câu nói thật là rộn rã.

M. Bu-đi-on-nưi lấy chiếc đàn bai-an mang theo để ở gian ngoài. Ngồi xuống chiếc ghế cứng, đồng chí kéo đàn thật cừ. Phần lớn là những bài dân gian Nga, những bản nhạc van-xơ và pôn-ca. Như mọi tay chơi đàn bai-an thiện nghệ, đồng chí nghiêng nghiêng đầu, tai ghé xuống đàn. Người ta thấy ngay đó là môn giải trí ưa thích của đồng chí.

C. E. Vô-rô-si-lốp ngồi xuống cạnh Xê-mi-on Mi-khai-lô vích Bu-đi-on-nưi. Rồi nhiều đồng chí khác cũng kéo đến

Khi Bu-đi-on-nưi chơi đã thấm mệt, Xta-lin mở máy hát. Đồng chí tự chọn lấy đĩa. Khách thử nhảy chơi, nhưng nữ chỉ có một người, nên cuộc vũ không thành. Bây giờ, khi chủ nhân rút trong chồng đĩa ra cái đĩa “ba-rư-nhi-a” thì X. M. Bu-đi-on-nưi không nhịn được nữa, liền đứng dậy bước vào nhảy. Đồng chí nhảy thật hùng dũng, điệu nhảy dân gian Nga, tay vỗ vào đầu gối, vào ủng da đập nhịp, thật khéo. Mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.

Trọng tâm chương trình âm nhạc là những bài hát quân đội do đội ca vũ của giáo sư A. V. A-lêch-xan-đrốp trình bày. Những bài hát ấy tất cả chúng tôi đều biết và cùng đồng ca theo.

Khoảng ba giờ sáng, chúng tôi ở Cun-xê-vô ra về. Buổi đón Năm mới trong không khí nghỉ ngơi lần đầu tiên trong những năm chiến tranh này đặt ra nhiều suy nghĩ. Mọi người đầu cảm thấy ngày kết thúc chiến tranh chẳng còn bao xa. Từ nay mới đỡ căng thẳng, mặc dầu chúng tôi biết rằng, thời gian sắp tới đây, sẽ mở ra một cuộc tiến công to lớn mới, và không ít trận giao tranh quyết liệt đang chờ đợi chúng tôi

A. I. An-tô-nốp bỗng đề nghị không trở về địa vị làm việc như mọi khi nữa, mà về ngủ đêm ở gia đình. Năm mới bắt đầu hoàn toàn chẳng khác gì thời bình. Bữa tiệc chiêu đãi Năm mới ở nhà Tổng tư lệnh tối cao và tôi ngủ đêm ở gia đình – đó là những việc không thểo đúng chế độ đã qui định ở Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh

Nhưng bộ mặt Mát-xcơ-va vẫn còn có vẻ thời chiến. Phố xá chúng tôi đi qua đều vắng vẻ, đèn tắt, nhà cửa hai bên lạnh lẽo, cửa sổ rèm che kín. Thỉnh thoảng có hơi để lọt ra chút ánh sáng yếu ớt, duy có điều là đội tuần tra thành phố và những người trực ban phòng không cũng chẳng phạt những hiện tượng vi phạm ấy nghiêm khắc như trước.

Tóm lại, mọi việc trong đêm nay đều gợi lên ấn tượng: chiến tranh sắp kết thúc.

Việc xây dựng kế hoạch cho giai đoạn kết thúc cuộc đấu tranh trên mặt trận Xô – Đức bắt đầu trong quá trình chiến cục hè – thu năm 1944. Những kết luận thực tiễn rút ra từ tình hình chiến lược không phải đã có ngay được trong một thời gian ngắn ở Bộ tổng tham mưu và Đại bản doanh, mà phải hình thành dấn dần trong quá trình công tác.

Những điều tổng kết về đợt tiến công tuyệt vời của chúng ta trong mùa hè và mùa thu năm 1944 trên tất cả các hướng, càng làm cho chúng ta thêm tin tưởng. Quân đội Liên Xô đã đánh tan 219 sư đoàn và 22 lữ đoàn địch. Quân địch bị mất tất cả 1.600.000 người, 6.700 xe tăng, 28.000 khẩu pháo và súng cối, 12.000 máy bay. Nước Đức phát-xít không thể nào bổ sung được những thiệt hại kế trên. Tổn thất về tinh thần của chúng cũng rất lớn.

Đến cuối tháng Mười 1944, quân đội xô-viết đã đến biên giới Phần Lan và tiến công.thắng lợi ở Bắc Na Uy, quét địch ra khỏi miền Pri-ban-tích, trừ bán đảo Xư-rơ-ve và ở Cuôc-li-an-đi-a, đột nhập vào Đông Phổ đến tuyến Gôn-đáp, Áp-gu-xtốp. Ở phía Nam Đông Phổ ta đã tiến công vượt sông Nác-va và Vi-xla tại một số nơi, chiếm được nhiều căn cứ bàn đạp quan trọng trong những khu vực Rô-gia-nu, Xê-rốt-xcơ, Ma-gnu-sép, Pu-la-vư, Xan-đô-mia; hướng chiến lược Béc-lin đang mở rộng ở phía trước. Phương diện quân U-crai-na 2 tiến vào Bu-đa-pét. Phương diện quân U-crai-na 3, ngày 20 tháng Mười, giải phóng Bê-ô-grát, thủ đô Nam Tư.

Tuy vậy, thắng lợi đến với chúng ta thật không phải dễ dàng. Quân số các sư đoàn hao hụt dần. Tốc độ tiền quân của các sư đoàn chậm hẳn lại. Hít-le rút một phần lực lượng ở một số khu vực phòng ngự của chúng ở Tây Âu điều sang Phía Đông và lập ra ở đây một chiến tuyến dày đặc và vững chắc mà muốn đột phá được, ta cần phải chuẩn bị thật chu đáo.

Bộ tổng tham mưu hiểu rõ mọi nỗi khó khăn, gay go của việc tiếp tục phát huy thắng lợi. Những điều kiện và triển vọng của cuộc tiến công lại không phải nơi nào cũng giống nơi nào.

Hệ thống phòng ngự của quân địch ở miền Cuốc-li-an-đi-a đặc biệt vững chắc. Đột phá và tiêu diệt ba mươi sư đoàn địch đóng chặt ở đấy đòi hỏi chúng ta phải trả một giá rất đắt.

Tình hình ở Đông Phổ có thuận lợi hơn. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 phần nào chiếm ưu thế về lực lượng hơn quân địch (Thời gian này quân Đức ở Đông Phổ có: 11 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe tăng. 2 lữ đoàn xe tăng, 2 lữ đoàn kỵ binh, cộng tất cả là 17 binh đoàn. Trong biên chế của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 có: 40 sư đoàn bộ binh, 12 quân đoàn xe tăng, 5 lữ đoàn xe tăng, cộng là 47 binh đoàn. Nhưng cũng cần phải lưu ý là quân số các sư đoàn bộ binh địch đông hơn các sư đoàn bộ binh của ta rất nhiều. Khả năng chiến đấu của những quân đoàn xe tăng Liên Xô và những sư đoàn xe tăng Đức thì tương đương với nhau.)

Căn cứ vào đó, Bộ tổng tham mưu cho rằng: Nếu được tăng cường một bộ phận lực lượng lấy trong đội dự bị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao, thì có thể mở mũi đột kích mạnh qua suốt Đông Phổ đến tận cửa sông Vi-xla, sâu từ 220km dến 250 ki-lô-mét. Nhưng đáng tiếc là sau đấy, ở đây đành phải hạn chế – ít ra là trong thời gian đầu – ở những mục tiêu đơn giản hơn.

Còn về hướng Vác-sa-va – Pô-dơ-nan, và cả hướng Xi-lê-di, là những hướng thực tế đang quyết định vận mệnh của Béc-lin, thì thấy sức chống cự của quân địch tại đây sẽ rất mạnh. Lúc này, chúng tôi cho rằng phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và phương diện quân U-crai-na 1, với mức cố gắng tối đa, cũng chỉ có thể tiến hành chiến dịch tiến công trên một chiều sâu không quá 140 tới 150 ki-lô-mét mà thôi.

Ngược lại, trong các dải tiến công của các phương diện quân U-crai-na 4, 2 và 3, căn cứ trước hết vào những lý do chính trị, Bộ tổng tham mưu lại cho là sẽ đạt được những kết quả thật lớn và thấy hiện ra triển vọng quân ta sẽ tiến nhanh đến tận tuyến Mô-ráp-xca – Ô-xtơ-ra-va, Brơ-nô, đến tận những đường tiếp cận với Viên.

Việc chiếm được Bu-đa-pét và vượt sông Đa-nuýp trong một thời gian ngắn là hoàn toàn hiện thực đối với chúng ta. Đại bộ phận quân địch ở đây là những sư đoàn quân Hung. Theo dự đoán của ta hồi ấy, thì sức chiến đấu của các sư đoàn Hung đó có thể đã bị tan rã bởi phong trào phản chiến đang lan rộng trong hàng ngũ nhân dân Hung và bởi sự tàn bạo của bọn phát-xít đang ra sức tìm mọt cách cố giữ lầy nước Hung trong phạm vi thế lực của cái Đế chế thứ ba. Nhưng rất tiếc là những dự đoán ấy chưa thành sự thật được. Chế độ độc tài phát-xít được bọn Đức ủng hộ vẫn còn buộc được nước Hung vào guồng máy chiến tranh của Đức thêm một thời gian nữa.

Từ cuối tháng Mười, trên hướng Bu-đa-pét đã diễn ra những trận chiến đấu cực kỳ ác liệt và đẫm máu. Chống lại phương diện quân U-crai-na 2 là cả một tập đoàn địch gồm đến 39 binh đoàn mà nòng cốt là 7 sư đoàn xe tăng (5 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Hung), địch dựa vào hệ thống những công sự được chuẩn bị kỹ từ trước để kháng cự quyết liệt. Cuộc chiến đấu để chiếm thủ đô Hung kéo dài đến ba tháng rưỡi.

Những kết quả rất hạn chế chúng ta giành được trong tháng Mười chứng minh sự cần thiết phải cho các sư đoàn đã lâu chưa thay phiên được nghỉ ngơi, phải tổ chức điều động, đưa những lực lượng hậu cần lên phía trước, xây dựng những nguồn dự trữ vật chất cần thiết để đột phá và tiếp tục phát triển chiến dịch; và cuối cùng, trên cơ sở việc đánh giá tình huống, chọn lấy những phương hướng có lợi nhất, để xây dựng những kế hoạch tiêu diệt triệt để chủ nghĩa phát-xít Đức trong thời gian ngắn nhất.

Ngay hồi đầu tháng Mười một 1944, Đại bản doanh đã nghiên cứu toàn diện tình hình mọi công việc ở các khu vực hoạt động của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, Bê-lô-rút-xi-a 1 và U-crai-na 1. Đối diện với những phương diện quân ấy là tập đoàn chiến lược chủ yếu của địch: hai cụm tập đoàn quân “trung tâm” và “A”, tuy biên chế của chúng không còn đầy đủ như trước. Những phương diện quân của ta bấy giờ chưa đủ ưu thế cần thiết về lực lượng để tiến công. Từ đó có thể rút ra kết luận là: nếu cứ tiếp tục tiến công trên hướng Béc-lin thì sẽ không có lợi, cần phải tạm thời chuyển sang phòng ngự

Trong lần báo cáo thường kỳ cho Tổng tư lệnh tối cao, A. I. An-tô-nốp đặc biệt kiên trì bảo vệ quan điểm này và đến khi cho phép chuẩn bị những chỉ thị thích hợp. Chúng tôi được phép làm như vậy. Rạng ngày 5 tháng Mười một 1944, chỉ thị đã được gửi cho các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 và 2 chuyển sang phòng ngự. Mấy hôm sau, lại ban hành những mệnh lệnh như thế cho bộ đội cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1.

Ngay từ đầu, ta đã dự kiến tiến hành chiến cục cuối cùng củ chiến tranh chống nước Đức Hít-le làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, những hành động tích cực trước hết vẫn tiếp tục trên hướng cũ, nếu có thể nói như vậy, tức là ở sườn phía Nam mặt trận Xô – Đức trong khu vực Bu-đa-pét. Ta dự kiến sẽ tạo ra bước ngoặt ở đây, bằng cách đưa những lực lượng chủ yếu của phương diện quân U-crai-na 3 tiến vào giữa hai con sông Tít-xa và Đa-nuýp ở khu vực quá phía Nam Két-kê-mét. Từ đày, các đơn vị của phương diện quân ấy có thể hành động phối hợp với phương diện quân U-crai-na 2 đột kích sang phía Tây và Tây – Bắc.

Chúng ta hy vọng rằng bộ đội của hai phương diện quân trên, nếu hiệp đồng chặt chẽ với nhau, sẽ có thể tiến công với tốc độ cao và sau 20 đền 25 ngày là sẽ đạt tới tuyến Ban-xca – Bít-xtơ-ri-xa, Cô-mác-nô, Nát-ca-ni-gia, và một tháng sau, đến cuối tháng Chạp sẽ tiến tới những đường tiếp cận với Viên.

Chúng ta tin chắc rằng cứ thực sự uy hiếp tiêu diệt sườn phía Nam của chúng, là ta sẽ buộc bộ chỉ huy Đức phải điều những lực lượng bổ sung từ hướng Béc-lin đến và như vậy sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho những lực lượng chủ yếu của chúng ta, tức là những phương diện quân đã bố trí ở phía Bắc mạch núi Các-pát tiến lên phía trước.

Bộ tổng tham mưu tin chắc rằng, đến đầu năm 1945, Quân đội Liên Xô ở hạ lưu sông Vi-xla sẽ tới Brôm-béc, đánh vào Pô-dơ-nan, chiếm lấy Bre-xlau, Pác-đu-bi-xe, I-gla-va và Viên, nghĩa là từ tuyến bố trí trong tháng Mười của mình tiến lên phía trước từ 120 cho tới 350 ki-lô-mét. Sau đó, sẽ bắt đầu giai đoạn hai của chiến cục và kết quả là nước Đức sẽ phải đầu hàng.

Vậy là những tính toán sơ bộ hồi cuối tháng Mười 1944 chỉ vạch ra một nội dung chung của chiến cục kết thúc chiến tranh gồm hai giai đoạn thôi. Hướng đột kích chủ yếu vẫn còn chưa xác định được, nên lúc này, vẫn chưa nói rõ được ý định đột kích phá vỡ mặt trận chiến lược của địch và chia cắt những tập đoàn của chúng.

Để xây dựng ý định ấy được chính xác hơn, hồi đầu tháng Mười một, Bộ tổng tham mưu tổng kết những kết quả chúng ta đã giành được, đánh giá tóm tắt hình thái chiến lược của hai bên, đã xác định rằng Quân đội Liên Xô đã giành được những thắng lợi quyết định đối với kết cục của chiến tranh.

Việc kết thúc cuộc chiến đấu trên mặt trận Xô – Đức đã được quyết định, giờ phút tiêu diệt toàn bộ quân địch đang nhích lại gần. Chúng ta có ưu thế hơn địch không riêng về mặt quân số mà cả về mặt trình độ huấn luyện và trang bị kỹ thuật nữa. Công tác hậu cần tổ chức tốt, bảo đảm thành công chắc chắn cho mọi hành động chiến đấu, việc cung cấp cho tiền tuyến ngày một tăng lên nhiều.

Chúng ta đánh giá hình thái chiến lược của quân đội xô viết và quân đội các nước Đồng minh chống Hít-le là hình thái đang tiến gần tới ngày kết thúc việc bao vây nước Đức Những đòn đột kích của ta phối hợp rất khéo với hành động của các nước Đồng minh ở Tây Âu. Quân đội Liên Xô và những lực lượng Anh – Mỹ thực ra đã chiếm được những trận địa xuất phát để tiến công quyết định vào những trung tâm sinh tử của nước Đức. Đã sắp tới lúc tiến hành đợt tiến công như vũ bão cuối cùng và trong thời gian ngắn. sẽ hoàn thành việc tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Những sự kiện sau này đã xác nhận việc đánh giá tình hình như vậy là đúng đắn, một sự đánh giá làm cơ sở cho việc nghiên cứu tỉ mỉ mặt chiến dịch của ý định chiến cục cuối cùng ở châu Âu.

Ý định trên được thảo luận rất cặn kẽ trước hết ở chỗ A. I. An-tô-nôp với sự tham gia của cục trưởng Cục tác chiến, các phó cục trưởng A. A. Cru-dơ-lốp và N. A. Lô-mốp, các chủ nhiệm những khu vực mặt trận có liên quan. Tất cả những ý kiến phát biểu ở đây, sau được Cục tác chiến xác định rõ thêm.

Cục tác chiến lại còn tính toán kỹ các lực lượng và phương tiện, nghiên cứu cụ thể những yếu tố khác của chiến dịch, rồi cuối cùng đem thể hiện thành biểu đồ: kết quả của mọi tính toán đều ghi vào bản đồ, sau đó thì lại được đem ra thảo luận cặn kẽ một lần nữa. Cũng như những lần trước, các chiến dịch mở màn đều được đặt kế hoạch hết sức chi tiết, còn nhiệm vụ về sau của các phương diện quân là chỉ vạch ra những nét chung.

Trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm và sáng tạo, ban đầu mới chỉ nảy ra ý kiến, rồi sau kết tinh lại rõ dần ra thành ý định chung về những hành động của chúng ta. Mọi người thừa nhận rằng khu vực phía giữa của mặt trận Xô – Đức là khu vực quyết định, bỏi vì những mũi đột kích của quân ta ở đây sẽ chọc thẳng đến những trung tâm sinh tử của nước Đức bằng con đường ngắn nhất. Nhưng chính ở đây lại lả nơi tập trung cụm quân địch dày đặc nhất.

Để tạo ra những điều bện thuận lợi hơn cho cuộc tiến công của chúng ta, cần phải căng cụm quân phía giữa của quân Đức phát-xít ra. Vì vậy. chúng ta phải đẩy mạnh những hoạt động ở hai bên sườn mặt trận chiến lược đến mức tối đa. Và, như thế là không riêng gì ở Hung và Áo, mà cả ở Đông Phổ nữa. Cuộc tiến công mãnh liệt vào Bu-đa-pét và Viên đòi hỏi phải kết hợp với cuộc tiến công vào Khuê-ních-xbéc.

Chúng ta biết chắc rằng quân địch ở Đông Phổ và ở Hung sẽ nhạy cảm đến cao độ. Khi bị ép mạnh, nhất định chúng sẽ điều những đội dự bị và những đơn vị khác từ những nơi chưa bị đánh dồn về. Và, kết quả sẽ là: ở hướng Tây – hướng dự kiến sẽ xảy ra những sự kiện quyết định, chúng sẽ yếu hẳn đi.

Những dự kiến của chúng ta đều tỏ ra chính xác. Do những hành động tiến công của quân đội xô-viết trong tháng Mười một – tháng Chạp 1944, nên quân địch đã tập trung – theo tính toán của ta – ở Đông Phổ 26 sư đoàn, trong số đó có 7 sư đoàn xe tăng, và ngay sát thủ đô Hung 55 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn xe tăng.

Như sau này đã rõ, trong thời gian ấy Hít-le cho rằng: năm 1945, quân đội xô-viết sẽ đột kích chủ yếu không phải trên hướng Béc-lin từ phía Đông, mà lại qua đất Hung và Tiệp. Vì vậy, chủ lực của quân đội Đức được điều động tới đấy. Lần này nữa, Bộ tổng chỉ huy Đức lại buộc phải theo ý định của ta và trong khu vực mặt trận chủ yếu đối với chúng ta, chúng còn lại tất cả có 49 sư đoàn, trong đó chỉ có 5 sư đoàn xe tăng.

Mặt trận chiến lược của địch có hình thái độc đáo như sau: các cụm quân mạnh thì đóng ở hai bên sườn, còn ở giữa lại tương đối yếu và không có những đội dự bị lớn bảo đảm. Điều đó buộc chúng ta phải nghĩ ra những phương pháp hoạt động sao cho hợp lý nhất ở trên hướng chủ yếu. Trong trường hợp này, có nên bỏ ý nghĩ cho tiến quân đều trên toàn bộ mặt trận để đẩy lùi địch hay không? Hay sẽ đột kích thẳng vào khu giữa tương đối yếu, chia cắt mặt trận chiến lược quân Đức ra và không để mất thời gian, phát triển tiến công vào Béc-lin thì có tốt hơn không.

Với phương án hành động sau, ta sẽ dễ dàng tiêu diệt toàn bộ quân địch bị chia cắt, thực sự đẩy nhanh việc giành lấy mục tiêu cuối cùng của chiến tranh. Bộ tổng tham mưu dừng lại ở phương án đó. Chúng tôi tin chắc rằng, cần phải tiến hành đột kích vào Béc-lin càng sớm càng tốt và phải đột kích liên tục không được dừng lại.

Nhưng gần đây, lại có lập luận cho rằng Bộ tổng tham mưu đã gác vấn đề đánh chiếm Béc-lin lại trong một thời gian không hạn định. Chúng tôi khẳng định đó là một lập luận hoàn toàn không có cơ sở. Những sự kiện xảy ra về sau chỉ bổ sung những cái gì cần hiệu chỉnh vào trong kế hoạch của chúng ta mà thôi.

Việc xác định rõ nhiệm vụ sắp tới và những phương pháp hành động hợp lý nhất cho từng phương diện quân không phải là không khó. Trước hết phải suy nghĩ nát óc về phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3. Cánh quân địch đóng ở Đông Phổ rất mạnh, lại dựa vào những cứ điểm đã chuẩn bị kiên cố từ những chướng ngại vật thiên nhiên, những vùng dân cư, rất thuận lợi cho việc phòng ngự. Từ đây, quân địch có thể đột kích vào sườn quân ta đang tiến trên hướng Béc-lin. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu không những để kìm hãm chúng lại, mà còn để cô lập chúng, không cho liên lạc với những khu vực khác trên mặt trận chiến lược và tùy theo sức mạnh mà chia cắt chúng ra, không cho chúng hành động tập trung.

Nhiệm vụ chiến dịch nhiều mặt như vậy – kìm hãm, cô lập và chia cắt chúng – đòi hỏi cuộc tiến công vào Đông Phổ phải sử dụng ít ra là hai phương diện quân: một để đột kích từ phía Đông vào Khuê-ních-xbéc và một để cô lập cánh quân Đông Phổ của địch ra khỏi cụm tập đoàn quân “A” của chúng trên hướng Béc-lin cũng như ra khỏi cả hậu phương chiến lược của chúng nữa.

Mũi vu hồi sâu từ phía Nam và Tây-nam vào Đông Phổ đồng thời sẽ yểm hộ bên sườn cho quân ta tiến đánh Vác-sa-va, Pô-dơ-nan, Béc-lin. Mũi đột kích từ phía Đông vào cánh quân địch ở Đông Phổ giao cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 là thích hợp hơn cả, còn phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 thì sẽ đảm nhiệm việc mở những mũi vu hồi vào cánh quân ấy.

Còn giải quyết nhiệm vụ chủ yếu – mở cửa vào mặt trận chiến lược của địch và tiến công cấp tóc sang phía Tây – thì có thể sử dụng phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và phương diện quân U-crai-na 1, lúc này đã ở trên hướng ấy và đã chiếm được những căn cứ bàn đạp trên sông Vi-xla. Cần phải tìm mọi cách bổ sung thật đủ xe tăng cho các phương diện quân ấy mà trước hết là tổ chức ra những tập đoàn quân xe tăng vả những quân đoàn xe tăng độc lập.

Trong ba ngày cuối tháng Mười và đầu tháng Mười một 1944, hướng đột kích, dải tiến công, chiều sâu nhiệm.vụ trước mắt và tiếp sau của từng phương diện quân đã được xác định cụ thể. Bấy giờ, chúng tôi còn ước tính cả thời hạn tối thiểu, cần thiết để tiêu diệt hoàn toàn bộ máy chiến tranh của Hít-le.

Chúng tôi dự kiến có thể đạt được mục tiêu đó trong khoảng 45 ngày tiến công với chiều sâu từ 600 tới 700 ki-lô-mét, qua hai giai đoạn nối tiếp nhau, không có lúc tạm dừng chiến dịch ở giữa. Giai đoạn đầu được dành cho 15 ngày, giai đoạn sau 30 ngày. Theo kế hoạch thì tốc độ tiến công không cao lắm, vì dự kiến là trong những trận đánh kết thúc, sức chống cự của địch sẽ rất quyết liệt. Nhưng cả ở đây, thực tế đã đính chính lại: các đơn vị bộ đội xô-viết anh hùng đã tiến công vượt mức kế hoạch.

Trong khi xác định cho rõ chiều sâu các nhiệm vụ, chúng tôi có tính đến tất cả những điều kiện cụ thể, nhất là những đặc điểm của địa hình. Chẳng hạn đối với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, khu vực hoạt động chiến đấu có nhiều khó khăn, mà địch lại mạnh, nên chiều sâu nhiệm vụ trước mắt chỉ xác định có 50 tới 60 ki-lô-mét.

Dải hoạt động của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 có thể cho phép đặt kế hoạch nhiệm vụ trước mắt đến tuyến Mơ-la-va, Đrô-bin, tức là 60 tới 80 ki-lô-mét. Chiều sâu các nhiệm vụ trước mắt cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, phương diện quân U-crai-na 1 và một phần của phương diện quân U-crai-na 4 có thể lên 120 tới 160 ki-lô-mét. Còn những nhiệm vụ tiếp sau của các phương diện quân Bê-lô-ru-xì-a 1 và U-crai-na 1, hoạt động trong điều kiện đồng bằng ở miền Tây Ba Lan, thì chiều sâu cũng đến 130 tới 180 ki-lô-mét.

Các hướng đột kích vạch ra cũng thật đáng tin tưởng. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 đột kích hai mũi: tới Ma-ri-en-buốc, cắt cánh quân Đông Phổ ra khỏi những đơn vị khác của địch và tới A-len-stai-nơ, cắt đôi cánh quân Đông Phổ ấy ra. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a I sẽ cho một bộ phận lực lượng tiến vòng qua Vác-sa-va, còn một bộ phận lực lượng tiến ra gặp những đơn vị của phương diện quân U-crai-na 1 đang tiêu diệt cánh quân Ken-txe – Ra-đôm của bọn Đức. Các lực lượng đột kích tiếp giáp nhau cửa hai phương diện quân U-crai-na 1 và U-crai-na 4 sẽ tiến công vào Cra-cốp. Còn hai phương diện quân ở phía Nam: U-crai-na 2, và 3, thì mục tiêu cuối cùng phải đạt trong những chiến dịch tiến công ở giai đoạn đầu của chiến cục vẫn là Viên như cũ.

Khi chuẩn bị ý định chiến cục năm l945, Đại bản doanh không triệu tập một hội nghị đặc biệt gồm những đồng chí tư lệnh các phương diện quân như trước kia, chẳng hạn như lần xây dựng kế hoạch “Ba-gra-chi-on’”. Lần này, chỉ triệu tập từng người một về Bộ tổng tham mưu và thảo luận với từng đồng chí tư lệnh về mọi chi tiết chiến dịch của phương diện quân của họ, rồi sau báo cáo lên Đại bản doanh những ý kiến đã thống nhất với nhau.

Các nguyên soái Liên Xô Ph. I. Tôn-bu-khin, C. C. Rô-cô-xốp-xki, I. X. Cô-nép và đại tướng I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-ki đã làm việc lại Bộ tổng tham mưu đến ngày 7 tháng Mười một và trong cả những ngày lễ. Sau ngày lễ thì tiến hành thảo luận toàn bộ ý định chiến cục nói chung tại Đại bản doanh và không có gì bổ sung quan trọng vào ý định đó. Chúng ta thống nhất với nhau là trên hướng chủ yếu sẽ bắt đầu tiến công vào ngày 20 tháng Giêng 1945, nhưng chưa phê chuẩn kế hoạch các chiến dịch và chưa ra chỉ thị cho các phương diện quân.

Mấy hôm sau, Tổng tư lệnh tối cao quyết định nguyên soái Liên Xô Gh. C. Giu-cốp, Phó Tổng tư lệnh tối cao, là người có kinh nghiệm nhiều nhất, sẽ chỉ huy những đơn vị quân đội đánh chiếm thủ đô Béc-lin của nước Đức. Ngày 16 tháng Mười một 1944, Gh. C. Giu-cốp được chỉ định giữ cuơng vị tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1. Nguyên soái Liên Xô C. C. Rô-cô-xốp-xki từ đây chuyển sang phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 thay G. Ph. Da-kha-rốp. Xta-lin đích thân thông báo việc ấy cho các đồng chí trên bằng điện thoại.

Tổng tư lệnh tối cao tự mình đảm nhiệm việc phối hợp hành động của bốn phương diện quân trên hướng tiến vào Béclin, do đó A. M. Va-xi-lép-xki không cần phải công tác ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 nữa. Với tư cách là đại điện của Đại bản doanh, đồng chí được giao nhiệm vụ chỉ đạo những chiến dịch của hai phương diện quân Pri-ban-tích 1 và 2. Nhưng ngày 20 tháng Hai 1945, khi đại tướng I. Đ Tséc-ni-a-khốp-xki hy sinh, A. M. Va-xi-lép-xki lại trở về phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, đồng chí làm tư lệnh phương diện quân thì A. I. An-tô-nôp được cứ giữ chức tổng nham mưu trưởng.

Vậy là chúng ta đã dự kiện mở đồng loạt những đòn đột kích mãnh liệt của một số phương diện quân ngay từ đầu năm 1945 trên hướng chiến lược Béc-lin. Những đòn đột kích ấy nhằm phá vỡ và chia cắt mặt trận địch ra từng mảnh, phá hủy đường giao thông và thông tin liên lạc của chúng, làm rối loạn sự hiệp đồng của những cụm quân địch đang bố trí tại đấy và ngay trong giai đoạn đầu của chiến cục, tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của chúng. Nhờ đó sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để kết thức chiến tranh.

Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 được chú ý hơn hết. Các đơn vị của phương diện quân ấy sẽ tiến công từ những căn cứ bàn đạp Ma-gnu-sép và Pu-la-vư. Sức đột phá phải thật mãnh liệt. Thế nhưng phần nào quân địch cũng sẽ phát hiện ra hướng đột kích của chúng ta do sự xuất hiện của chính những căn cứ bàn đạp ấy, cố nhiên chúng cũng sẽ tìm những biện pháp chống trả.

Cũng phần nào vì vậy mà phương diện quân U-crai-na 1 ở bên trái sẽ phải phát triển tiến công tới biên giới nước Đức không theo con đường ngắn nhất, mà hơi chếch lên phía Bắc, tới Ca-li-sơ. Bộ tổng tham mưu cho rằng con đường ngắn nhất đối với phương diện quân U-crai-na 1 sở dĩ không thích hợp cũng là do nhiều nguyên nhân khác nữa.

Vì ở Ba Lan, trên đường này có khu vực công nghiệp Thượng Xi-lê-di cùng với những công trường đá to lớn thích ứng cho phòng ngự. Tiếp nữa là khu vực Xi-lê-di của Đức, những điều kiện phòng ngự ở đây cũng rất vững. Có triển vọng là những trận chiến đấu sẽ kéo dài, tốc độ của chiến dịch sẽ chậm lại và ta phải chịu nhiều tổn thất không hợp lý.

Bởi vậy, sau nhiều lần thảo luận vấn đề đó với nguyên soái I. X. Cô-nép, Bộ tổng tham mưu và sau đó cả Đại bản doanh nữa đều dừng lại ở phương án tiến công từ phía đông-bắc và phía Bắc vòng qua miền Xi-lê-di. Mũi đột kích ấy sẽ tạo nên môi uy hiếp thực sự vào sau lưng quân địch đang bố trí đối diện với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, làm cho bộ đội ta tiếp quân tới Pô-dơ-nan dễ dàng hơn.

Ngoài ra, theo phương án tiến công như vậy thì những cơ sở công nghiệp ở Xi-lê-di có thể sẽ còn lại nguyên vẹn tất cả. Xta-lin đặc biệt quan tâm tới việc giữ gìn khu vực công nghiệp Xi-lê-di và đã trao đổi riêng về vấn đề này với I. X. Cô-nép, tư lệnh phương diện quân U-crai-na 1.

Ngày 27 tháng Mười một, Gh. C. Giu-cốp đến Mát-xcơ-va theo lệnh triệu tập của Đại bản doanh. Dựa vào những tức tức của cơ quan trinh sát phương diện quân, đồng chí cho rằng phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đột kích thẳng vào phía Tây sẽ gặp nhiều khó khăn, vì ở đấy địch tổ chức rất nhiều tuyến phòng ngự có quân án ngữ. Theo ý của Giu-cốp nếu lực lượng chủ yếu của phương diện quân đánh tới Lot-dơ, rồi sau đó tiến ra Pô-dơ-nan thì có thể đạt được thắng lợi nhanh nhất. Tổng tư lệnh tối cao đồng ý với ý kiến bổ sung ấy. Và phương hướng chiến dịch giải quyết theo kế hoạch lúc ban đầu của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 phải thay đổi một tí.

Việc ấy cũng làm thay đổi cả nhiệm vụ của đơn vị bạn ở bên trái: việc phương diện quân U-crai-na 1 tiến tới Ca-li-sơ sẽ không còn tác dụng gì nữa và nguyên soái Cô-nép được chỉ thị: Phải đột kích theo hướng chủ yếu vào Bre-xlau.

Tất nhiên là trong khi chuẩn xác lại kế hoạch thì việc chuẩn bị chiến dịch vẫn cứ tiến hành: tập trung những đội dự bị, bổ sung mọi thứ cần thiết cho các phương diện quân.

Đến cuối tháng Mười một, toàn cảnh cuộc tiến công sắp tới đã được xác định hoàn toàn, mặc dầu mãi đến cuối tháng Chạp, các kế hoạch chiến dịch ấy mới được Đại bản doanh phê chuẩn. Sau này, chỉ phải thay đổi một ít chi tiết, chủ yếu là một số chiến dịch được bắt đầu sớm lên, do yêu cầu của các nước đồng minh đang gặp gay go ở miền Ác-đê-nư. Khoảng giữa tháng Chạp, quân Đức đánh ở đấy rất mạnh và thủ tướng Anh U. Sớc-sin phải đề nghị I. V. Xta-lin chi viện.

Trung thành với nghĩa vụ đồng minh của mình, quân đội xô viết chuyển sang tiến công quyết liệt ngày 12 tháng Giêng – trước thời hạn dự định 8 ngày. Nhịp độ tiến công, như đã nói trên, vượt tất cả mọi dự định của chúng ta. Trên hướng trung tâm, từ ngày 24 tháng Giêng, bộ đội của các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và U-crai-na 1 đã tới tuyến Pô-dơ-nan – Bre-xlau. Lực lượng chủ yếu của cụm tập đoàn quân “trung tâm” Đức phòng ngự ở Ba Lan bị thua nặng. Tàn quân của chúng rút về phía Tây và Tây – Bắc.

Việc phân tích tình hình cuối tháng Giêng 1945 xác nhận rằng: kết luận chúng ta đã rút ra trước đây về sự cần thiết phải tiến công liên tục, cho đến khi chiếm được Béc-lin, là đúng. Nhưng trong thời gian ấy, chưa thể xem việc Béc-lin thất thủ có nghĩa là nước Đức đầu hàng hoàn toàn. Vì địch vẫn còn giữ được những cụm quân khá mạnh ở Tây Âu và cả ở Hung. Riêng chỉ trong khu vực Bu-đa-pét, theo ước tính của ta hồi ấy, thì địch đều có 11 sư đoàn xe tăng và nhiều đơn vị khác, có thể cầm cự được thêm một thời gian nào đó nữa.

Chúng ta được biết là Hít-le có ý đồ tiếp lục cố thủ trong cái “pháo đài núi An-pơ” (Tên gọi một vùng ở Nam Đức, có khối núi An-pơ hiểm trở, Hit-le đã cho thành lập khu cố thủ để lâm thời rút xuống đấy chống cự. – ND.); các nước Đổng minh cũng biết như thế, và U. Sớc-sin có hỏi Xta-lin về kế hoạch của Liên Xô trong trường hợp Hít-le “chuyển xuống phía Nam”. Nhưng dù thế nào thì việc chiếm được Béc-lin cũng cực kỳ tai hại đối với Đế chế thứ ba.

Để khỏi phạm phải những tính toán nhầm lẫn nguy hại, Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu, như trước đây thường vẫn làm, chưa hạ quyết tâm dứt khoát về giai đoạn hai của chiến cục, trong khi chưa lấy được ý kiến sơ bộ của các tư lệnh phương diện quân. Lúc quân đội ta tiến tới tuyến Pô-dơ-nan – Bre-xlau, Mát-xcơ-va mới hỏi ý kiến tư lệnh các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và U-crai-na 1 về đặc điểm của các hành động sau này của các phương diện quân.

Ngày 26 tháng Giêng 1945, Bộ tổng tham mưu nhận được giải pháp của tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, thực ra vẫn là tiến công liên tục cho đến lúc chiếm được thủ đô của Đức. Phương diện quân dự định trong vòng bốn ngày sẽ điều quân lên phía trước, nhất là pháo binh, tập trung những đơn vị hậu cần, bổ sung dự trữ đạn dược, ổn định các đơn vị, bảo đảm vật chất cho những binh đoàn xe tăng, đưa tập đoàn quân đột kích 3 và tập đoàn quân Ba Lan 1 vào thê đội một nhằm ngày 1 hay 2 tháng Hai, sẽ sử dụng toàn bộ lực lượng của phương diện quân tiếp tục tiến công. Nhiệm vụ trước mắt là tiến công vượt sông Ô-đe trong hành tiến và tiếp sau là đột kích vào Béc-lin. Trong thời gian ấy, tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 sẽ từ Tây – Bắc đánh vu hồi vào Béc-lin, còn tập đoàn quân 1 thì từ Đông – Bắc tiến công vào.

Ngày hôm sau, chúng tôi nhận được giải pháp của tư lệnh phương diện quân U-crai-na 1; đồng chí cũng có ỷ định hành động liên tục không có thời gian tạm dừng. Phương diện quân dự định tiếp tục tiến công vào ngày 5-6 tháng Hai và đến 25-28 tháng Hai thì sẽ đến sông En-bơ; cánh phải của phương diện quân thì hiệp đồng với phương diện quân Bê- lô ru xi a 1 chiếm Béc-lin.

Quan điểm của Tổng tư lệnh tối cao cũng đúng như vậy. Ngày 4 tháng Hai 1945 – theo hồi ký của U. Sớc-sin – trong cuộc hội nghị nổi tiếng ở I-an-ta, Xta-lin đánh giá tình hình rất lạc quan và nhận xét rằng mặt trận quân địch đã bị phá vỡ, quân Đức chỉ còn đủ sức bịt nổi những lỗ thủng nhỏ.

Vì thế, ý kiến của mọi người đều gặp nhau ở chỗ: cần tiếp tục tiến công liên tục và đánh chiếm Béc-lin. Các phương diện quân lại nhận được những chỉ thị cần thiết của Mát-xcơ-va, rồi lại giao nhiệm vụ cho các tập đoàn quân.

Bộ tổng tham mưu chỉ băn khoăn về một chi tiết: làm thế nào để trong hai phương diện quân tiến công vào Béc-lin, theo như chỉ thị của Xta-lin, lực lượng do Gh. C. Giu-cốp chỉ huy sẽ chiếm được thủ đô của nước Đức phát-xít. Sau những cuộc tranh luận sôi nổi, chúng tôi đề nghị lên trên phê chuẩn những giải pháp của cả hai đồng chí tư lệnh phương diện quân.

Đại bản doanh đồng ý, nhưng xác định tuyến phân giới giữa hai phương diện quân theo đề nghị của nguyên soái Giu-cốp ngày 26 tháng Giêng là: Xmi-gen, Un-rút-stốt, sông Phau-le-ốp-ra, sông Ô-đe, Rát-xđo, Phrít-lan, Grô-xơ Kê-rít, Mi-khen-đo. Cách phân giới như vậy thực tế đã kéo phương diện quân U-crai-na 1 xuống phía Nam Béc-lin, không cho phương diện quân này một cửa mở nào để đột kích vào thủ đô nước Đức; cánh phải của phương diện quân thì hướng thẳng tới Gu-ben và Bran-đen-buốc.

Rõ ràng là không hợp lý: một mặt đã phê chuẩn quyết tâm của nguyên soái Cô-nép là dùng cánh phải nói trên tiến công vào Béc-lin, nhưng mặt khác lại xác định tuyến phân giới không cho phép làm như thế. Nhưng, chúng tôi cho rằng còn lâu mới đến Béc-lin và rồi chúng ta sẽ khắc phục được tình trạng vô lý đó, tình huống tự nó sẽ có những bổ sung cần thiết trong quá trình chiến dịch. Quả thật, mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Nhưng không phải là trong tháng Hai, tháng Ba, mà cả tháng Tư cũng không phải. Những sự kiện phát triển sau đó, không cho phép chúng ta tiến hành tiến công vào Béc-lin đúng thời hạn đã tính.

Ngày 1 tháng Hai 1945, bộ đội của tập đoàn quân đột kích 5 và tiếp theo là tập đoàn quân cận vệ 8 của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đã lao nhanh tới bờ phía Tây sông Ô-đe, và một bộ phận lực lượng đã chiếm được những căn cứ bàn đạp nhỏ ở khu vực pháo đài Cu-xtơ-rin. Nhưng chính pháo đài thì vẫn còn ở trong tay địch. Tập đoàn quân 69 đã tiến đến bờ sông Ô-đe về phía Nam, nhưng trong dải tiến công của tập đoàn quân ấy, quân Đức vẫn giữ được một cứ điểm bàn đạp ở gần Phran-phuốc. Tập đoàn quân 33 cũng tới sông Ô-đe. Tiếp theo là một khoảng cách nhỏ, rồi phương diện quân U-crai-na 1 cũng tiến xuống phía Nam chiếm lĩnh những trận địa dọc sông Ô-đe.

Bộ đội xô-viết bị chặn lại trên tuyến này.

Tình hình chiến dịch không thuận lợi cho chúng ta. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 có nhiệm vụ đánh đến Béc-lin, đã tiến lên phía trước, nhưng lúc này chưa thể chiếm được thủ đô nước Đức. Trên hướng Béc-lin, phương diện quân này thực ra chỉ có 4 tập đoàn quân binh chủng hợp thành và 2 tập đoàn quân xe tăng không còn đủ biên chế. Chưa kể những thiệt hại lớn trong chiến đấu, hai tập đoàn quân trong số đó là tập đoàn quân cận vệ 8 và tập đoàn quân 69 còn phải để lại một phần lực lượng để chiến đấu chống quân địch đang bị vây ở Pô-dơ-nan, còn một tập đoàn quân là tập đoàn quân đột kích 5 thì vừa tiến về phía Béc-lin, vừa phải tiếp tục vây hãm Cu-xtơ-rin.

Nguyên soái Gh. C. Giu-cốp phải cho những tập đoàn quân binh chủng hợp thành còn lại quay sang phía Bắc, vào hướng Đông Pô-mê-ra-ni, là nơi quân địch tập trung những lực lượng đáng kể và đã từng bước chống cự quyết liệt với bộ đội ta khi tiến qua đất Ba Lan. Dần dần, ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 hình thành một bên sườn kéo dài tới hàng trăm ki-lô-mét. Các tập đoàn quân đột kích 3, tập đoàn quân Ba Lan 1, 47 và 61 bảo đảm bên sườn ấy, trong lúc một phần lực lượng của họ lại bị hút vào cuộc chiến đấu chống quân Đức đang bị vây ở Snai-dơ-muyn và ở những vùng dân cư khác.

Sườn kéo dài như vậy không cho phép thành lập một tập đoàn đột kích đủ mạnh trên hướng chủ yếu, và sức chống cự mỗi lúc một tăng của địch đe dọa đột phá vào sườn để tiến vào sau lưng quân ta. Mối nguy cơ ấy ngày càng rõ vì giữa hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 2 là cả một khoảng cách lớn gần như không có lực lượng nào bảo đảm.

Gh. C. Giu-côp tìm cách điều tập đoàn quân 47 vào hướng chủ yếu nhưng quân địch cản trở ý định ấy. Tạo nên một bước chuyển biến trong tình huống, bằng cách tiến hành những trận đánh nhằm tiêu diệt địch ở bên sườn, cũng không thể được. Tất cả những điều ấy làm giảm nhiều khả năng tiến công của bộ đội xô-viết, mà mệnh lệnh đánh chiếm Béc-lin của Đại bản doanh thì vẫn không hủy bỏ.

Lực lượng địch ở Đông Pô-mê-ra-ni tăng lên nhanh, còn về phía chúng ta thì hàng ngũ ngày một hao hụt dần. Chẳng hạn, trong tập đoàn quân cận vệ 8, sau khi phải chiến đấu liên lục, gay go trên chặng đường dài 500 ki-lô-mét, các trung đoàn trong biên chế chỉ còn có hai tiểu đoàn và các đại đội thì chỉ có 22 đến 45 người. Ở những tập đoàn quân khác đang tiến về Béc-lin, tình hình cũng hệt như vậy.

Việc bảo đảm vật chất lại càng gặp nhiều khó khăn. Bộ đội thiếu đạn nghiêm trọng. Phải chở đạn đại bác và đạn cho các loại súng từ những kho tàng còn nằm ở phía Đông sông Vi-xla.

Ngày 8 tháng Hai 1945, V. I. Tsui-cốp, tư lệnh tập đoàn quân cận vệ 8, báo cáo với Gh. C. Giu-cốp:

“Đạn bảo đảm cho tập đoàn quân trung bình chỉ có 0,3 -0,5 cơ số. Tiêu phí đạn dược hàng ngày rất lớn… Việc chuyển vận bằng đường bộ của tập đoàn quân không thể bảo đảm tiếp đạn từ khu vực sông Vi-xla lên phía trước được.

Đoàn tàu chỏ đạn cho tập đoàn quân xuất phát ngày 2 tháng Hai 1945 từ ga Xô-bô-lê-vô đến ngày 8 tháng Hai 1945 vẫn chưa thấy tới ga Sơ-véc-sen là nơi quy định.

Do địch tăng cường hoạt động ráo riết trong khu căn cứ bàn đạp và cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục trong thành phố Pô-dơ-nan, chúng tôi đề nghị bảo đảm việc tiếp đạn trong hạn từ hai đến ba ngày sắp đến”.

Đồng thời, tư lệnh tập đoàn quân còn báo cáo: “Lữ đoàn pháo binh 43 không thể tiếp tục tiến xa hơn nữa. Máy kéo bị hỏng, không thể tiến hành sửa chữa được, vì không có phụ tùng”.

Các tập đoàn quân 69, 33 và đột kích 5 cũng gửi về những bức điện tương tự như vậy. Tất cả đều đề nghị xin giúp đỡ, xin chi viện; mà khả năng thì chưa có được bao nhiêu.

Các tập đoàn quân đã tìm mọi cách vượt qua những khó khăn ấy. Ví dụ như tập đoàn quân cận vệ 8, đã sử dụng trang bị và đạn dược chiến lợi phẩm để chiến đấu mở rộng căn cứ bàn đạp. Nhưng, đặt kế hoạch phát triển thắng lợi và đánh chiếm thủ đô đích, mà lại chỉ trông chờ vào chiến lợi phẩm thì thật là nông nổi, không thể tha thứ được.

Đạn dược và nhiên liệu thiếu thốn lại không cho phép ta sử dụng một cách thỏa đáng pháo binh là lực lượng hỏa lực chủ yếu của chúng ta trong thời gian ấy. Mà không có pháo binh thì mọi ý định tiến công trước đây đều phải gác lại cả.

Khi quân đội xô-viết tiến tới sông Ô-đe, thì tình hình không quân đã thay đổi. Máy bay Đức hoạt động ráo riết hẳn lên, nhất là đối với những đơn vị bộ đội đang bố trí ở những căn cứ bàn đạp. Dựa vào trung tâm sân bay ở Béc-lin, máy bay của chúng có thể hoạt động ngay cả vào những lúc tuyết rơi nhiều và mưa to khiến cho những sân bay dã chiến của ta bị hư hại nặng, trong lúc lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân không quân 16 phải cất cánh từ những sân bay dã chiến ấy. Thêm nữa là những căn cứ không quân chưa hoàn bị như vậy lại ở cách xa chiến tuyến của ta từ 120 tới 140 ki-lô-mét. Trong tình thế ấy, không quân của phương diện quân không thể chi viện đắc lực cho bộ đội mặt đất; mà hồi ấy đặc biệt có ngày địch đã xuất trận tới 3.000 lần chiếc và rõ ràng đã khống chế khoảng không. Vì thế, một loạt vấn đề về phòng không được cấp bách đề ra, đặc biệt là phải điểu động vội vã pháo cao xạ từ những phương diện quân khác đến.

Trong tình huống đó, quân Đức có thể chiếm lại quyền chủ động đang nằm trong tay ta và phá vỡ chiến dịch ta dự định tiến hành. Chúng chăm chú theo dõi những hành động của ta và ngay hồi cuối tháng Giêng, khi ta hạ quyết tâm tiến công liên tục vào Béc-lin, chúng đã thực hiện một số biện pháp chống trả quan trọng, đã điều học viên một số trường đào tạo sĩ quan và những binh đoàn dự bị tới sông Ô-đe, nơi những lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân 9 của chúng đang phòng ngự. Việc phòng ngự hướng Béc-lin nói chung được giao cho cơ quan SS đặc trách, và chính Him-le được chỉ định làm tư lệnh cụm tập đoàn quân “Vi-xla” mới thành lập. Lúc đầu, trong biên chế của cụm tập đoàn quân này có hai tập đoàn quân 9 và 2.

Vấn đề tất nhiên không phải là ở chỗ Him-le làm tư lệnh cụm tập đoàn quân, vì như thế không phải là bộ chỉ huy quân Đức đã được tăng cường, mà nói cho đúng ra là đã bị suy yếu đi. Vấn đề chủ yếu là ở chỗ quân địch dùng những biện pháp đặc biệt, trong một thời gian ngắn đã thay đổi được tương quan lực lượng có lợi cho chúng ở trên hướng Béc-lin, nhất là ở sườn phía Đông Pô-mê-ra-ni, và hãm quân đội ta vào một tình thế rất bất lợi.

Tập đoàn quân 9 của địch, có một bộ phận lực lượng ở phía Đông sông Ô-đe, trực tiếp phòng ngự hướng Béc-lin. Tập đoàn quân 2 bố trí ở Đông Pô-mê-ra-ni đang tiến hành chiến đấu cùng một lúc với lực lượng cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và cánh trái của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2.

Theo những số liệu của quân Đức, ngày 1 tháng Hai, tập đoàn quân 9 có năm sư đoàn bộ binh và một sư đoàn xe tăng, tập đoàn quân 2 có mười ba sư đoàn bộ binh và một sư đoàn xe tăng. Hai sư đoàn bộ binh và một lữ đoàn làm đội dự bị của cụm tập đoàn quân “Vi-xla”. Đáng tiếc là lúc ấy, chúng ta chưa có được những số liệu trên, và những điều ta kết luận về địch đã tỏ ra không hoàn toàn đúng. Theo tính toán của chúng tôi hồi ấy, thì đối diện với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 có tất cả mười một sư đoàn và một số chi đội.

Chiến tranh càng tới gần trung tâm của nước Đức, thì khả năng cơ động lực lượng và phương tiện của chúng càng tăng. Hệ thống đường sắt và đường bộ rất tốt ở đây thật dầy đặc. Thêm nữa, quân địch còn có thể sử dụng đường biển trong một chừng mực nào đó, để kéo quân của chúng ở miền Cuốc-li-an-đi-a về. Chỉ trong thượng tuần tháng Hai, chúng đã điều được một số binh đoàn từ cái “vùng nhốt thú Cuốc-li-an-đi-a” về Pô-mê-ra-ni bằng đường biển.

Đến ngày 10 tháng Hai, quân Đức đã lập được một tập đoàn quân mới, tập đoàn quân 11, chiếm lĩnh dải hoạt động ở phía Tây tập đoàn quân 2. Từ nay, cụm tập đoàn quân “Vi-xla” đã có 38 sư đoàn (trong số đó có 6 sư đoàn xe tăng) và 6 lữ đoàn. Ngoài ra, còn phải cộng thêm cả những đơn vị không nằm trong biên chế của cụm tập đoàn quân “Vi-xla”, nhưng đang hoạt động trong dải của tập đoàn quân 11 và tập đoàn quân 2, sau này trên cơ sở những đơn vị ấy đã triển khai ra thành hai sư đoàn là sư đoàn “Béc-van-đe” và “Ke-dơ-lin”.

Nhưng khả năng tăng cường lực lượng của địch trên các hướng chiến lược quan trọng, kể cả hướng Béc-lin, như vậy chưa phải là đã cạn. Trong hội nghị những người lãnh đạo ba cường quốc ở Crưm ngày 4 tháng Hai 1945, đại tướng A. I. An-tô-nốp đã trích dẫn những số liệu sau:

“a) Ngoài mặt trận chúng ta đã xuất hiện: 9 sư đoàn lấy ở các miền Trung Đức; 6 sư đoàn từ mặt trận Tây Âu; 1 sư đoàn từ I-ta-li-a; tất cả 16 sư đoàn.

b) Đang trên đường điều động: 4 sư đoàn xe tăng: 1 sư đoàn cơ giới: tất cả 5 sư đoàn.

c) Chắc là địch sẽ còn điều động thêm tới 30 hay 35 sư đoàn nữa, lấy ở các mặt trận Tây Âu, Na Uy, I-ta-li-a và những đội dự bị ở trong nước Đức.

Như vậy là trên mặt trận, chúng có thể có tới 35 hay 40 sư đoàn bổ sung thêm”.

Trong số những sư đoàn địch được bổ sung, nhiều sư đoàn có quân số đủ theo biên chế quy định, còn những sư đoàn của chúng ta hồi ấy thì trung bình chỉ có độ 4.000 người; trong việc chuyên chở đạn dược, nhiên liệu và những phương tiện vật chất khác lên phía trước, ta lại vấp phải rất nhiều khó khăn, trong lúc ấy, không quân Đức tạm thời giành được quyền khống chế trên không. Nếu cân nhắc kỹ các mặt trên, thì sẽ thấy rõ ràng tại sao chúng ta chưa thể tiếp tục tiến công liên tiếp vào Béc-lin được. Làm như thế sẽ là một trọng tội và tất nhiên Bộ Tổng tư lệnh tối cao, Bộ tổng tham mưu và cả những tư lệnh các phương diện quân quyết không thể theo con đường ấy được.

Những sự việc sau này xác nhận rằng những dự đoán của Bộ tổng tham mưu về cơ bản là đúng. Trong tháng Hai 1945, bộ chỉ huy phát-xít Đức thực sự đã có những lực lượng lớn để phòng ngự Béc-lin, và trong trường hợp cần thiết, chúng còn có thể tăng thêm quân nữa. Quả thật, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, con thú phát-xít vẫn là con thú nguy hiểm, đủ sức chôn vùi dưới mồ hàng trăm ngàn sinh mệnh. Đó là chưa kể đến việc nếu đánh vào Béc-lin mà không thắng thì sẽ còn đi đến những hậu quả chính trị tai hại nữa.

Đồng thời với tin quân địch đang tổ chức điều động binh lực lớn, Bộ tổng tham mưu còn nhận được những tin tình báo về ý định của bộ chỉ huy phát-xít Đức lợi dụng tình hình bất lợi khi phòng ngự của các tập đoàn quân trong phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đã tiến lên phía trước, để mở những mũi đột kích giao nhau từ khu vực Ác-no-xơ-van-đe – Pô-mê-ra-ni xuống phía Nam và từ tuyến Glô-gau, Gu-ben ở Xi-lê-di xuống phía Bắc, nhằm chia cắt những tập đoàn quân đó.

Bây giờ ta biết rõ là Gu-đê-ri-an, Tổng tham mưu tưởng lục quân Đức, đã kiên trì trong kế hoạch ấy và sẽ tiến hành kế hoạch ấy thật nhanh chóng, trong khi chúng ta chưa kịp điều đủ những lực lượng lớn tới đây. Vào những ngày cuối tháng Giêng, quân địch đã tiến hành hoạt động thiết thực nhằm phối hợp hành động của các đơn vị được hút đến để thực hiện ý định đó.

Mọi nguy cơ hiện ra bên cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đều được cân nhắc triệt để ở Mát-xcơ-va. Về điều này, Tổng tư lệnh tối cao và Bộ tổng tham mưu thường xuyên trao đổi ý kiến với Gh. C. Giu-cốp và cơ quan tham mưu của phương diện quân, lại trao đổi trực tiếp với cả các tư lệnh tập đoàn quân nữa. Chúng ta còn sử dụng rộng rãi tất cả những nguồn tin khác nữa để kiểm tra và xác định những tin tức về ý đồ cùng lực lượng của địch trên hướng Béc-lin và ở Pô-mê-ra-ni.

Về mối nguy cơ ở phía Xi-lê-di, nơi tiếp giáp giữa hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và U-crai-na 1, thì ta đỡ lo hơn một chút, ở đây, địch còn phải lập một tập đoàn đột kích nữa và khi phản kích, chúng phải vượt sông Ô-đe và còn phải tiến hành cơ động bên sườn khá mạo hiểm xuống phía Bắc nữa.

Tôi nghĩ, nếu nhìn lại những thủ đoạn chính trị của bọn cầm đầu nước Đức phát-xít hồi ấy cũng không phải là vô ích. Chính trong thời gian này, bọn chúng đang tích cực tìm cách ký kết hòa ước riêng rẽ với Mỹ và Anh. Nhiều thủ lĩnh của Đế chế thứ ba tựa hồ những con nhện, đang chăng những tấm mạng đàm phán phức tạp, nhằm làm ly tán những thành viên trong khối liên minh chống Hít-le, nhân đó tranh thủ thời gian và đi đến điều đình ám muội với các nước đồng minh của chúng ta, làm thiệt hại cho Liên Xô.

Tình huống đó đặt ra một trách nhiệm lịch sử đặc biệt: đối với mỗi điều quyết định đều phải cân nhắc thận trọng, không thể hành động một cách khinh xuất được. Đại bản doanh, Bộ tổng tham mưu, các hội đồng quân sự các phương diện quân đánh giá lại những khả năng của ta, bằng cách so sánh với khả năng của địch, cuối cùng đã đi tới nhất trí với kết luận trước đây là: chưa tập trung được những dự trữ đầy đủ về các phương tiện vật chất tại khu vực sông Ô-de, chưa có thể tận dụng toàn bộ sức mạnh của không quân và pháo binh, chưa bảo đảm an toàn cho hai bên sườn, thì ta chưa thể tung những tập đoàn quân của ta tiến công vào thủ đô nước Đức được. Trong trường hợp này, đánh liều là không phải lúc. Đánh mà không thắng trong giai đoạn kết thúc chiến tranh này, thì hậu quả chính trị và quân sự đối với chúng ta sẽ vô cùng nặng nề và khó mà cứu vãn được.

Trước hết, cần phá