← Quay lại trang sách

Kiếp thứ nhì

Kiếp thứ nhì

ia đình tôi vào cung hồi giữa thế kỷ XIV, khi tướng Chu Nguyên Chương sau khi đánh đuổi quân Mông ra khỏi đất Trung Hoa lên xưng vương và lập ra triều Minh. Ngài ban thưởng các chiến hữu và phong cho cụ tổ tôi là tướng Minh Khải tước hiệu Vĩnh Phúc công.

Trong ba thế kỷ, qua mười thế hệ, gia đình tôi không ngừng theo đuổi vinh hoa, phú quý và quyền lực. Đàn ông thì giữ chức vụ cao còn đàn bà thì được gả vào các gia đình quyền quý.

Rồi một ngày, cùng với nạn đói, nhiều băng đảng trộm cướp xuất hiện. Chúng hoành hành khắp nơi, làm bá chủ các địa phương, bao vây Bắc Kinh và công phá cồng Cấm Thành. Hoàng đế thắt cồ tự tử trong vườn thượng uyển, và tướng Lý Tự Thắng, thủ lĩnh bọn phiến loạn, lên ngôi.

Các rợ ở Mãn Châu nhân sự hỗn loạn bên trong đất nước Trung Hoa, liền tràn xuống phía Nam. Có một viên tướng phản bội, ra mở cổng thành cho chúng. Lý Tự Thắng, kẻ cướp ngôi, trúng một phát tên xuyên qua người mà chết. Thủ lĩnh rợ bên ngoài trở thành chủ nhân mới của Cấm Thành, lập ra triều Thanh.

Gia đình tôi có ba trăm người bỏ mạng trong làn khói chiến tranh hoặc dưới lưỡi búa đao phủ. Một cụ tổ của tôi may mắn thoát cuộc tàn sát. Cụ lang thang suốt hai năm trời rồi cuối cùng định cư tại cao nguyên Tây Nam. Những dòng sông dữ dội, những triền núi cao chót vót, nơi cư trú của các đám dân hoang dã, đã bảo vệ cụ và giữ kín bí mật nguồn gốc của cụ. Cụ thay tên đổi họ, cưới vợ, cả cuộc đời còn lại cụ chỉ làm một công việc chăn nuôi.

Trong thời kỳ dài đằng đẵng đợi cho triều đại Mãn Châu sụp đồ để cho các vị quan phấm quay trở lại triều đình, các cụ tổ của tôi không hoạt động gì cả mà chỉ lo làm giàu. Gia đình đông con gái, thường gả cho các thổ quan; làm thế là để nuôi ảo tưởng khôi phục lại quyền lực vô song của gia đình Nhưng hình như bị trời trừng phạt mà gia đình rất hiếm con trai. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình tôi lúc nào cũng đứng trước nguy cơ tuyệt tự.

Cha tôi cưới con gái một đại thương gia vùng Tây Nam. Của hồi môn của bà gồm đất đai rộng lớn, hàng đàn gia súc và nhiều cửa hàng. Hai năm sau hôn lễ, cha tôi mua thêm hai thiếp. Các bà đó, chẳng bà nào sinh hạ được cho cha tôi một mụn con

Sau rồi, mẹ tôi, người đàn bà khả kính sau ba nghìn ngày nhiệt tâm cầu kinh và theo phương pháp chữa trị vô cùng đau đớn của một bà phù thuỷ, bà đã mang thai. Anh tôi và tôi những ngày đầu tiên cùng sống chung với nhau trong bụng mẹ, đầu đối đầu. Chúng tôi gắn bó với nhau như một cơ thể duy nhất.

Không gian sống của chúng tôi sớm trở nên ngột ngạt. Tôi phải vật lộn để được thoải mái hơn. Anh tôi cũng làm như tôi, nhưng những cú huých của anh mạnh hơn. Anh ấy xuống tấn, chèn tôi, bóp nghẹt tôi, dẫm đạp lên tôi, đạp đầu tôi xuống để vươn lên.

Tôi nghe thấy những tiếng kêu xa xôi. Một giọng người tôi chưa từng nghe thấy đang rên lên vì sung sướng và tự hào. Tôi hiểu rằng anh tôi đã bỏ tôi. Nỗi cô đơn làm tôi kinh sợ. Buồn bã, thất vọng, tôi không biết nên ngủ đi hay là nên gắng sức. Tôi cong người đập đầu vào bức tường mềm mại bao bọc lấy tôi. Tôi hoàn toàn kiệt sức, ngột thở, thế rồi bỗng nhiên không khí mát mẻ, ánh sáng và cái lạnh ùa đến! Người ta nắm lấy hai chân tôi, đánh vào đít tôi. Lạnh quá! Lạnh quá! Tiếng kêu thoát ra từ cổ họng tôi, và tôi bật khóc.

Gia nhân vội vã may thêm áo. Anh tôi và tôi được đặt trong căn buồng ấm áp, nằm cạnh nhau trên cùng một giường, cả hai đều được quấn trong chăn bông lụa. Tiếng bước chân lại gần. Một đám đông vào phòng.

“Con trai Xuân Di của ta đâu, “Điềm lành mùa xuân” của ta đâu?” giọng đàn ông nôn nóng hỏi.

“Đứa to hơn, hồng hơn, cái đứa kêu to nhất ấy, thưa lão gia”, một giọng kéo dài lê thê đáp lại

Rồi những lời chúc tụng cất lên, Người ta khen anh tôi, ca ngợi vẻ đẹp của anh ấy. Những tràng pháo cười giòn giã.

Giọng phụ nữ, cương quyết nhưng hơi run cất lên khiến ai nấy im bặt: “Con bé gái này quá gầy yếu, nó không chắc sống nổi đâu. Con trai ơi, dù sao cũng cứ phải đặt tên cho nó. Rồi sau đó, gọi thợ đến đóng cho nó một chiếc quan tài”.

Những tiếng thì thầm nổi lên. Họ bàn bạc với nhau rồi thống nhất đặt tên cho tôi là Xuân Ninh, “sự yên ả của mùa xuân”.

Mắt nhắm nghiền, lông mày nhíu lại, tôi chìm vào lặng thinh. Thỉnh thoảng, tiếng anh tôi cười hả hê lôi tôi từ sâu thẳm của thế giới Bóng tối trở về. Tôi bỗng khóc thét lên. Má tôi rát bỏng, giọng tôi như xé vải. Tôi tìm cách thách thức với anh tôi. Đứa con trai được kích thích hét váng lên inh ỏi cho đến khi tôi ngạt thở và những tiếng thét của tôi trở thành những tiếng rên yếu ớt.

Bà tôi kéo tuột anh tôi ra khỏi bầu vú mẹ. Mẹ tôi suy yếu hoàn toàn sau kỳ sinh nở. Bà cho anh vào phòng của mình, tìm cho anh một bà vú to khoẻ, được ăn uống nhồi nhét như một con ngỗng nhà nuôi. Khi Xuân Di đi rồi, mấy ngày sau thì tôi tăng cân.

Ba tuổi, anh tôi được mặc váy ngắn, đội mũ chiến nhẹ, rồi được đặt lên yên ngựa.

Khi vừa tròn bốn tuổi, bà cho mời thầy giáo nổi tiếng tỉnh Tứ Xuyên về dạy học cho anh ấy.

Ít lâu sau, bà chết ở đám tang của bà, người ta nắm tay tôi đẩy về phía một đứa con trai nhỏ có khuôn mặt cau có.

“Xuân Di, đây là em Xuân Ninh của mày; Xuân Ninh, đây là anh Xuân Di của mày”, người ta nói với chúng tôi.

Tôi quỳ xuống chào. Anh ấy mặc tang phục may bằng vải lanh trắng. Tôi chỉ có kỷ niệm về anh trai tôi quấn trong tã trắng, suốt ngày lắc đầu gào thét. Trong năm năm tách nhau, anh ấy lớn lên nhiều. Tôi không nhận ra được khuôn mặt anh ấy, ngày xưa bé tí tẹo, đỏ hỏn và đầy nếp nhăn. Anh ấy cao hơn tôi một cái đầu. Những bài tập võ làm cho cánh tay anh ấy nở nang, đôi vai dày cuồn cuộn. Má đầy thịt bao xung quanh cái mũi tẹt dí xuống mặt Anh ấy khinh khỉnh nhìn tôi vẻ thù địch Tôi mỉm cười. Anh ấy cong môi trên lên, đáp lại bằng một cái nhăn mặt khủng khiếp. Tôi sợ, nước mắt rưng rưng. Anh tôi quan sát tôi, vẻ mãn nguyện. Tôi cố gắng hết sức không khóc, mỉm cười với anh ấy lần nữa. Anh ấy quay đi.

Sau hôm đưa ma, người ta không cho anh ấy bú vú nuôi nữa và cho ở với mẹ của hai chúng tôi. Nhưng anh ấy trốn đi gặp vú nuôi đang làm việc trong bếp. Vú vứt đồ làm bếp xuống, ôm anh ấy vào lòng khóc nức nở. Cả hai trốn trong góc chứa đồ. Bà ấy cởi khuy áo ra. Anh tôi nằm trên đầu gối bà, mắt nhắm hờ, bám lấy bầu vú bú chùn chụt. Tay còn lại vặn vẹo chơi nghịch bầu vú bên kia. Anh ấy ngủ thiêm thiếp, mơ màng, chìm vào mùi thơm da thịt của vú nuôi.

Thế rồi cả hai bị phát hiện. Chồng của vú làm việc trong chuồng ngựa được gọi đến, người ta cho ông ta một món tiền. Sáng hôm sau, ông ta gói ghém hành lý ra đi, mang theo cả người vợ. Xuân Di không thấy vú nuôi nữa, lo lắng điên cuồng. Anh ấy một mình bí mật sục sạo chuồng ngựa, nhà bếp, nhà kho, vào cả trong các buồng lạnh đã được đóng chặt bằng khoá to qua lối cửa sổ, lật rèm che phòng ngủ, rũ gối, tìm trong từng góc vườn. Anh ấy không tin được là vú nuôi có thể biến mất, nên quyết tâm tìm cho bằng được cho dù vú có biến thành bông hoa, thành cái bóng hay thành hơi nước. Mùi da thịt vú ám ảnh anh. Anh ấy đánh hơi như chó dại. Đêm, anh ấy tỉnh dậy, âu sầu thiểu não.

May mắn thay ngày tháng trôi đi. Nỗi ám ảnh giống như giấc mơ biến mất. Anh trai tôi tìm thấy niềm vui mới.

Anh ấy được phép ra khỏi nhà nếu có gia nhân đi kèm. Họ cưỡi ngựa một mạch xuống núi theo hình chữ chi. Phía dưới, đồng cỏ trải rộng đến tận chỗ trời cao cúi cong xuống, hoà vào trong bao la. Ngẩng đầu lên có thể thấy ngôi nhà kiên cố, giống một con đại bàng đậu trên mỏm đá bo bo canh giữ đất đai của mình. Đám người phi nước kiệu. Trái đất run lên, thảo nguyên lao lên, trùm xuống, ào sâu vào con ngươi và lồng ngực của anh. Đôi lúc, cả bọn dừng lại vì một toán kị sĩ trong những bộ quần áo kỳ lạ vấy bẩn tiến đến gần. Cả đoàn chờ cho toán kị sĩ lại gần và xuống ngựa. Anh trai tôi ngạc nhiên nghe thấy mình được gọi là thiếu gia. Anh tôi khinh khỉnh quan sát đám người hoang dại đó cúi mình rất thấp để chào anh.

Một hôm, viên quản gia tháp tùng anh trai tôi quàng tay vẽ một vòng và nói:

“Thưa thiếu gia chủ, những ngọn núi này, đất đai này và súc vật kia là của người. Bọn người kia là nô lệ của người”.

Theo cánh tay của tên quản gia, mắt anh tôi đưa từ mỏm núi này sang mỏm núi khác rồi dừng lại trên thảo nguyên nơi gió thổi bạt cây cỏ tạo nên một đường chạy dài như một đường cày rộng. Anh hắng giọng, muốn nói một câu gì đó trang nghiêm. Nhưng trong đầu anh chẳng có gì mà nói. Bỗng nhiên có tiếng vỗ cánh đồm độp, một con sếu bay ngang trời.

“Sếu trắng kia, của ta!”, anh trai tôi mừng rỡ kêu lên rồi chạy bổ theo để bắt.

Anh tôi cảm thấy mình côi cút kể từ khi bà tôi qua đời Anh tôi hoàn toàn bối rối khi được dẫn tới gặp mẹ. Ngược với bà tôi lúc nào cũng chung thuỷ với màu áo lam, mẹ tôi lại mặc toàn lụa và gấm đẹp. Tóc mẹ đen nhánh, dùng dầu quế chải bóng mượt. Một con chim phượng miệng ngậm viên ngọc to trang trí búi tóc của mẹ. Anh tôi ngắm mẹ, miệng há hốc ra, chẳng nghe được gì chẳng nghe được tiếng ai nói hết. Mẹ tôi thở dài đứng dậy bỏ mặc anh tôi đang đờ người ra đó. Anh đứng như tượng phỗng, lòng tràn ngập một nỗi buồn lạ lùng. Đôi khi, tâm trạng mẹ vui vẻ, mẹ để cho anh ngồi cạnh rồi hỏi anh muốn ăn gì, thích đồ chơi gì, việc học hành của anh thế nào. Mẹ đặt bàn tay nặng những nhẫn lên đầu anh, anh tôi thẹn đỏ như gấc, người cứng đờ lại.

Anh trai coi khinh tôi. Bà tôi không bao giờ nói với tôi nửa lời, bà dạy cho anh biết kiêu ngạo khi là thân trai, là người nối dõi tông đường. Tuy nhiên, anh vụng trộm quan sát tôi. Đối với anh, những việc tôi làm lúc thức dậy, lúc một nhũ mẫu và hai thị nữ hối hả tắm cho tôi, chải tóc rồi mặc quần áo cho tôi, là một nghi lễ đáng xấu hổ. Buồi chiều, sau khi phi ngựa một vòng trở về, người đầy bụi và mồ hôi, anh thấy tôi đang ngồi một chỗ tránh nắng và tránh gió. Tôi đứng lên bắt chuyện với anh.

Lúc nào nhìn thấy anh, tôi cũng thấy vui vẻ. Còn anh thì nhìn lại tôi đầy vẻ khinh rẻ tàn bạo đến mức hễ còn cách anh năm bước là tôi đứng sững lại không dám bước tiếp nữa.

Đối với tôi, trả thù anh rất dễ. Xuân Di lúng túng trước những âu yếm vuốt ve của mẹ, còn tôi lại nhào vào vô cùng thích thú. Nằm trên đầu gối mẹ, tôi vặn vẹo người, vầy vò váy lụa của mẹ, chơi với các đồ trang sức của mẹ, hít hà mùi nước hoa của mẹ. Sự sỗ sàng này làm anh tôi bực bội tức giận vì anh cảm thấy mình lố bịch.

Một đêm, tiếng tôi hét làm anh thức giấc. Anh đứng lên trên nệm, vén màn rèm lên, rồi tuồn ra khỏi giường. Bà nhũ mẫu cùng ngủ trong phòng với bọn hầu gái biến đâu không biết. Tò mò, anh tôi đẩy cửa bước ra sân. Những bóng đen in hắt trên lối đi đến toà nhà đối diện, từ đó có tiếng tôi kêu khóc và rên rỉ.

Anh tiến lại gần cửa sổ, nhấm nước bọt cho ướt ngón tay, rồi làm thủng một lỗ trên tờ giấy bản rồi dán mắt vào đó. Những gì anh nhìn thấy làm anh sợ chết cứng. Anh thấy tôi ngồi trên giường váy kéo lên, và được một hầu gái mặc bộ đồ chàm giữ lấy. Bà quản gia, trước kia là vú nuôi của mẹ tôi, ngồi trên ghế đẩu trước giường, tay áo xắn lên. Bà tay cuốn băng quanh bàn chân tôi. Mỗi một vòng, bà lại thít chặt lại. Ngoài tiếng nức nở của tôi chỉ có sự im lặng trang trọng. Trong bóng tối, anh tôi thấy bà nhũ mẫu của anh tay cầm kéo, bên cạnh là một nữ tỳ bê chậu nước và một nữ tỳ khác bê một cái giỏ. Quần áo màu sặc sỡ của họ thành những mảng đen trong bóng tối. Mẹ ngồi trên ghế, tựa lưng vào tường, hơi cau mày mỗi khi tôi kêu quá to.

Cuốn băng xong, bà quản gia khâu nó lại. Chiếc kim lấp lánh. Mẹ đưa cho bà ta cuộn băng thứ hai để bó nốt chân kia. Các đốt ngón chân đau nhức, tôi khóc lóc giãy giụa. Một bà nhũ mẫu lấy cánh tay ghì chặt tôi lại. Thỉnh thoảng, một cô thị tỳ lấy khăn ướt lau mặt tôi đẫm nước mắt và mồ hôi. Thay vì đến giúp tôi thì anh tôi lại run lẩy bẩy ngoài cửa sổ. Gió rú ngoài vườn, lá xào xạc. Một con chim cất tiếng khàn khàn rồi tung mình vào bầu trời. Kinh hoàng không thể tả được, anh tôi trốn vào phòng riêng, chui xuống đống chăn.

Đêm đó, tôi không ngủ được. Cạn nước mắt vì khóc, tôi rên khừ khừ. Nỗi đau đớn ở chân tôi lan ra khắp nơi, đùi tôi ngứa ngáy. Ngày hôm sau, người ta bắt ép tôi đứng lên. Dù tôi van xin thảm thiết, nhưng tôi vẫn bị bắt buộc phải đi lại trên đôi chân bó chặt. Yên lặng bất thường ngự trị trong vườn. Người ta nói anh tôi bị sốt.

Anh ấy nằm liệt giường mười ngày.

Năm lên sáu tuổi, anh tôi và tôi đã tỏ ra có tính cách trái ngược nhau. Xuân Di hung hăng và hiếu động còn tôi lại biết kiềm chế tính đỏng đảnh, biết giữ ý tứ trong lời nói, biết đoán trước những đòi hỏi của mọi người. Anh tôi thích chế ngự thiên hạ, còn tôi chỉ thích làm hài lòng người khác. Khuôn mặt Xuân Di là một vũ trụ hỗn độn mà ở đó thiên nhiên chưa định hình. Gió, mây và mù dày đặc vần vũ giữa đất và trời. Anh ấy có mũi quá to, đôi má quá phình, mí mắt quá hụp làm cho đôi mắt chỉ còn tựa như hai đường kẻ mảnh - có thể gọi là giống bố. Người ta nói rằng khuôn mặt tôi có những nét đẹp nhất của ông bà tôi, lộng lẫy và kiêu sa. Ngay cả cha chúng tôi, người nghiêm khắc và ủ ê, đôi lúc cũng tỏ ra cảm động khi nhìn tôi. Cha trút tiếng thở dài và phàn nàn tại sao tôi lại không phải là con trai.

Ngôi nhà của chúng tôi vốn chỉ là một nơi trú ấn, một pháo đài, một vương quốc của những kẻ bị lưu đày. Qua nhiều thế kỷ, gia đình tôi cố gắng phục hồi lại vẻ huy hoàng, thanh tao ngày xưa. Nhưng nằm trong một vùng thiên nhiên chỉ có thể có được cái hùng vĩ và sự thô kệch, con mắt nhìn của cha ông tôi cũng biến đổi. Cách xa đô thành, tin tức hiếm khi đến được với các cụ, thế là các cụ chỉ biết đến vẻ lộng lẫy của quá khứ qua những bức chân dung các cụ tổ và những câu chuyện truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, rút cục các cụ đã biến ngôi nhà thành một sự phô trương kiêu kì đầy mâu thuẫn.

Tường nhà rất dày, quét sơn đỏ, mùa hè thì mặt trời thiêu đốt, mùa đông thì gió bấc đập ình ình, đôi chỗ bở ra, rơi xuống để hở những viên đá đen, nơi cho địa y xanh bám vào. Cánh cửa trang trí bằng đinh đồng đóng trên khung cửa vẹo vọ vì mưa gió nắng sương. Các tấm đá lát được đẽo cắt thô thiển, màu xám xỉn lót lối đi. Cây cối không có chút dịu dàng nào: những cây thông, cây trắc bách diệp, các loài tùng bách cành lá xoắn xuýt vào nhau vì gió thổi quá mạnh, sét đánh nứt cả thân cây tạo thành những ngọn giáo thép được nước mưa mài sắc thêm. Một cụ tổ nào đó trồng được mấy cây thùy liễu. Nửa thế kỷ sau, thân liễu bắt đầu rỗng, lại bị sét đánh, cành liễu tàn tạ xơ xác rạp xuống tận mặt đất. Nhưng mỗi khi gió nổi lên, tự nhiên đám cây cối nổi hứng lạ kỳ, chúng cùng nhau nhảy múa.

Mấy khóm đỗ quyên, loại hoang dại nhất, cũng ra được hoa nhưng than ôi chỉ là những bông hoa ốm yếu bé tí. Hoa hồng leo lên tường nhà, nở ra những bông hoa xỉn màu và hương chúng chỉ thơm thoang thoảng. Chính vì vậy mà gia đình chúng tôi rất quý hoa mẫu đơn, loại hoa sống trên núi đá mà vẫn không mất đi vẻ đẹp rực rỡ và cao quý. Các cụ nhà tôi còn lại tạo những giống mẫu đon mới, lấy tên của các nữ hoàng triều Minh mà đặt. Mẫu đơn chẳng tìm cách quyến rũ chúng tôi, ngược lại, chúng làm cho cuộc sống của chúng tôi càng thêm đau đớn tan nát bằng cái lối bất ngờ nở rộ như sét đánh.

Những cái chòi sơn son được lợp mái ngói đá đen. Những cửa sổ có hình thù chạm trổ, những cánh cổng hình mặt nguyệt làm chúng tôi vui mắt. Những dãy hành lang có mái lợp nối liền các ngôi nhà chạy ngoằn ngoèo qua vườn. Chúng che nắng, che mưa, che tuyết cho chúng tôi. Hai trăm căn phòng tạo thành một mê cung. Để đi lại từ nhà này qua nhà nọ, phải mở cửa, nâng rèm, đi ngang một vách ngăn có hình chạm trổ rồi vòng qua bức tường chắn bằng đá hoặc tấm bình phong sơn thếp và khảm xà cừ.

Anh tôi khoái trá chiêm ngưỡng cơ ngơi rộng rãi đượm vẻ tăm tối này. Một vết nứt, một con thằn lằn hoặc thậm chí là một mạng nhện, cả cái gì đó xấu xí cũng đều làm anh ngạc nhiên và mơ màng. Anh chú ý đến rất nhiều căn phòng không người ở, những góc không ai đặt chân vào đầy ắp bóng tối và bụi bặm.

Bầu trời của chúng tôi có màu xanh ngọc còn mặt trời thì đỏ thắm. Nhưng ở vùng núi này, xen lẫn với những buổi đẹp trời là những ngày bão táp. Anh tôi sợ tiếng đất gầm gào, sợt tiếng sấm nổ đùng đoàng nhưng lại thích những giây phút hiếm hoi trước cơn giông, lúc mà bầu trời thì không một gợn mây, và những cột mây mù mịt xô đấy nhau ở phía dưới thung lũng. Trên đỉnh núi, một thứ ánh sáng xanh xao soi lên mái nhà, trèo vào trong vườn, làm biến mất mọi bóng hình. Một nỗi âu lo khó tà từ ngọn cây bò xuống, làm cho những người hầu gái mặc quần áo lụa cảm thấy hoảng hồn, xua đuổi lũ côn trùng đang trốn trong những đọt cây.

Anh trai tôi ghét những ngày lễ Tết, khi cả ngôi nhà như bừng tỉnh sau những ngày dài u ám. Việc chuẩn bị được kéo dài nhiều ngày, tùy theo tầm quan trọng của từng dịp. Người ta lau chùi nhà cửa, treo đèn lồng trong phòng khách có bày biện bàn ăn. Có tiếng ư ử hát, tiếng váy sột soạt, tiếng cười như những hạt ngọc lăn tròn từ phòng này sang phòng khác, rồi tràn ra đầy ắp khuôn viên. Vàng bạc, châu báu, nhung gấm lụa là lóng lánh khắp nhà, những món đồ chơi xem ra cũng có vẻ quý giá, treo đầy tường là tranh vẽ, thư pháp của các bậc thầy. Anh tôi đi dạo quanh quanh, người cứng đờ trong bộ quần áo mới, lòng không vui. Anh lỉnh vào bếp, nơi người ta hối hả nhặt rau, gọt củ, cắt tiết gà, treo thỏ lên đế lột da, nhổ lông gà gô, đôi khi còn chọc tiết lợn nữa. Máu động vật sùi bọt làm anh chóng mặt. Thấy mặt anh tái xanh tái xám, những người làm trong bếp buông lời pha trò trong khi vẫn thọc sâu đôi tay vào lòng ruột con vật. Anh tôi co rúm người lại, muốn ngoảnh mặt đi, nhưng có sức thôi miên kỳ lạ cứ níu anh lại. vẫn còn đờ đẫn, anh được dẫn đến trước mặt khách mời là những vị quyền cao chức trọng trong vùng, bụng phệ, nhạt nhẽo và trang sức phủ đầy người. Có cha giám sát nên anh buộc phải nói chuyện với mấy vị này. Họ hỏi han anh chuyện học hành, rồi cất giọng the thé nói chuyện với nhau về lịch sử, đọc thơ, bàn về về du ngoạn và các sự kiện xảy ra. Anh cảm thấy hoàn toàn xa lạ với những người này và chỉ muốn nhớ lại cảnh cạo lông máu me trong nhà bếp, nhớ lại những con mắt đau đớn và lóp da hồng của những con vật bỗng biến thành đỏ thẫm.

Bị anh trai khinh thị, lại không có ai là bạn ngoài mấy người hầu buồn thảm, tôi sống một cuộc đời đơn độc. Niềm vui thú nhất của tôi là ngửa đầu ra đằng sau đi lang thang trong các dãy nhà. Đi từ phòng này sang phòng khác, tôi ngắm nghía những tấm hoành có hoạ tiết nối ngang các cột nhà. Tôi tìm cách nhận diện ở đó những nhân vật truyền thuyết, các anh hùng trong sử sách và những con vật huyền thoại.

Rồi tôi ra nằm mơ mộng dưới gốc cây. Thỉnh thoảng mây trắng đến chói mắt đột nhiên chồng chất thành đống trên trời tạo thành quả núi. Những tia nắng màu tím, màu xanh, màu xám vây quanh những đám hơi nước, khoét thành những thung lũng, cắt thành những thành vách, tỉa hình những mỏm núi. Có gì trong những đám mây nhỉ? Truyền thuyết kể lại rằng mây cõng trên lưng cả một xứ thiên đường, ở đó, trong những cung điện, chủ nhân của chúng là những người bất tử, sống cuộc đời không lo âu và đầy lạc thú.

Không như Xuân Di, tôi lại nóng lòng mong đến ngày lễ Tết, thời gian trôi chậm chạp muốn làm tôi chết. Hương, khói, pháo hoa, đèn lồng son, những món ngon, quần áo thêu thùa và cả những nghi lễ chán ngắt đều làm tôi cảm nhận thấy sự tồn tại của các vong hồn.

Tại sao mùa thay đổi? Năm mới mang đến tuyết và lạnh, Vào Tết Nguyên Tiêu, gió bấc thổi ù ù, những chiếc đèn lồng rung rinh, hắt ánh sáng yếu ớt lên lớp nhũ đá lạnh cứng. Vào tết Thanh Minh, tuyết vẫn còn đọng lại nhưng bị mặt trời nhuộm đen. Đâu đó vang lại những tiếng róc rách bí ẩn, nước nhỏ giọt xuống từ đám lá cây, đập tong tong vào mái nhà. Vào lễ Đoan Ngọ, mồng năm tháng năm âm lịch, người ta làm bánh nếp gói lá tre, người lớn buộc dây lạt nhuộm xanh nhuộm đỏ vào cánh tay chúng tôi để đánh lừa ma quỷ, những kẻ gieo rắc bệnh tật. Sau ngày Tết, mùa xuân ngự trị trên núi. Từ những miền đất xa xôi, hạc trắng quay trở về, cánh giang thẳng trên trời. Tại sao ngày lại dài ra? Tại sao không khí đặc hơn? Cây cối hít thở, uốn đưa, vươn dậy, hướng thẳng lên bầu trời. Những chú ong bụng đốm đập đập đôi cánh trắng bạc. Ai cho chúng niềm vui làm mật nhỉ? Một chú bướm leo lên tận trên đỉnh núi chót vót, lượn lờ dưới những thân cây. Bàn tay thiên thần nào vẽ nên vẻ duyên dáng của nó? Mùa hè trôi qua, tết Trung Thu gọi mùa thu tới. Vì tinh tú nhẵn nhụi và tròn trịa soi sáng cánh rừng bắt đầu thưa lá. Người ta thấy rõ màu đỏ trên cánh rừng, màu vàng trong các bụi cây, nho lủng lẳng dưới giàn đầy lá. Ngôi nhà kiên cố nghiêng mái trên đó có những hình ác thú quỳ gối tạc bằng đá hoa cương. Hỡi các anh bạn ác thú của tôi, những người canh giữ cho những buổi đêm yên tĩnh, các anh có thấy thần núi đi ngang qua chăng? Mùa thu đi qua vào ngày mồng chín tháng chín, vào dịp tết Trùng Dương. Lúc đó, những chậu cây hoa cúc được mang tới, mùi ẩm ướt, vẻ mong manh báo hiệu sắp đến lúc tuyết rơi. Mùa đông ơi, ngươi đi đâu, rồi ngươi từ đâu quay lại?

Vào những ngày lễ Tết, tôi ngồi vào bàn dành cho phụ nữ dựng ở những căn phòng phía trong, tôi chỉ được nhìn thấy các vị khách mời khi tham dự cảnh biếu diễn. Trong vườn theo truyền thống của những gia đình giàu có, các cụ tổ cho xây một cái chòi dùng làm nơi biểu diễn ca kịch. Một cái ao ngăn đôi chỗ ngồi của khách nam và khách nữ. Gió mang lại cho tôi nghe chuyện của đám người ngồi phía bờ bên kia. Họ nói về những thị thành xa xôi, bí ấn, những phong tục kỳ lạ. Họ nói cả chuyện ma, chuyện người hiện hồn, cả chuyện người da trắng mắt nâu.

Tôi rất hay nghe thấy tên Bắc Kinh, thành phố của vạn sự phồn hoa kỳ thú. Thế thì Bắc Kinh ở đâu nhỉ? Làm sao đến được đó?

Ở đó có bao nhiêu nhà? Bao nhiêu mèo? Có bao nhiêu người con gái như tôi? Bờ hè đường ở đó có màu gì? Ở đó có chim nô đùa trong lá không? Có sư tử đá đứng trước cửa chế nhạo người đi ngang qua không?

Tôi có một nhũ mẫu già người thường chải bộ tóc dài của tôi. Mồ côi từ nhỏ, bà sinh ra ở một tỉnh lị xa xôi, vẫn giữ kỷ niệm về một vùng đất xanh tươi được tưới tắm bởi những dòng sông đầy ắp cá. Bà mất cả con lẫn chồng trong trận dịch tả, rời bỏ vùng quê mình, bà được nhận vào làm nàng hầu trong một gia đình quan phẩm. Mỗi khi ông chủ đổi chỗ làm, bà cũng đều đi theo để hầu bà chủ. Trong chiếc xe do la kéo, giữa các gói đồ đạc và hòm xiểng, bà quan sát thế giới bên ngoài qua kẽ rèm. Bà quen dần với tiết trời đặc sương mù, bà quen nghe những giọng nói chói tai, quen với con đường dài tối tăm, ấm ướt, chen chúc đầy những người bán hàng. Bà tự đày ải mình đi từ thị thành này qua thị thành khác. Đời bà là một cái trượt dài tới chốn lạnh giá, chốn im lặng, tới vùng đất khô rắn, càng ngày càng cằn cỗi hơn.

Bà biết tới hàng nghìn số phận đủ thoả mãn trí tò mò của tôi.

Sáng khi ngủ dậy, bà đoán mộng cho tôi; buổi tối trước khi đi ngủ, bà kể chuyện ma để giữ tôi ngồi im trên giường. Đôi bàn tay bà thô và nhám chải đầu cho tôi, cử chỉ của bà chậm và chẳng biết thương hại là gì. Đôi khi tôi có cảm giác cái phần hồn của tôi bị kéo căng ra, bị chải bới và sắp tuột khỏi cổ, rớt xuống theo mái tóc của tôi. Tôi gào lên. Nhưng già Lý gầy gò, khô đét trong áo ngoài màu chàm, tóc bạc phơ cuộn thành búi tó, cương quyết tiếp tục nói:

“Đời ta chỉ là một quãng ngắn. Ta sống nhiều đời. Ta còn sống tiếp nhiều đời nữa”.

Không để cho tôi có thời gian kịp đặt câu hỏi, già Lý nói tiếp:

“Dưới đất, có một nước mà ngay cả mặt trời cũng không tới được. Ớ đấy cũng có nhà của, đường phố, thành thị giống như ở đây vậy. Nhưng lúc nào cũng tối om. Trên bầu trời đen sì có một vầng trăng xanh xao. Người ta gọi xứ ấy là Âm Phủ bởi vì đó là nước của các vong hồn.

Vong hồn là cái gì? - Một buổi sáng tỉnh dậy tôi hãi hùng kêu lên.

Là tất cả những ai từng sống trên đời này, còn bây giờ thì không sống trên trái đất này nữa. Vũ trụ chia thành ba tầng. Tầng thứ nhất dành cho người sống, tầng thứ hai dành cho vong hồn và tầng thứ ba dành cho những vì tinh tú. Trời trông nom mọi thứ, quỷ sứ và cầy cáo đi lại trên cả ba tầng này, chúng lạc lối, có thể phục vụ cho các ác hoặc cũng có thể phục vụ cho cái thiện. Ta ở đây là trái đất, có Bắc Kinh, có Cấm Thành là nơi mọi người quỳ lạy tnrớc hoàng đế. Ở dưới kia là Âm Phủ, người ta cũng tuân lời vua dưới đó, người ta gọi nơi ở đó là Địa Ngục. Cuối cùng, ở phía trên chúng ta là nơi ngự trị của nữ hoàng cai quản trời đất, quyền uy vô song.

Nhưng bóng tối không làm vua đau khổ hay sao? Vua không sợ bóng tối à? Ông vua nước Âm Phủ làm gì cả ngày?

Ông ta tra cứu một quyển sách dày ghi rõ ngày sinh và ngày chết của chúng ta. Vào ngày mệnh đã định, ông gọi quỷ sứ đến, cử chúng lên mặt đất. Chúng phải tìm ra người bị kết án, dù người này trốn ở bất kỳ chỗ nào chúng cũng tìm ra. Chúng lôi họ đi, kéo cổ xuống tận Địa ngục. Diêm Vương vua Âm Phủ sẽ phán xử họ. Kẻ nào vô tội sẽ được thả, đi lang thang khắp các phố tối om và buồn bã. Kẻ nào có tội sẽ bị trừng trị, nhục hình sẽ rửa sạch mọi tội lỗi. Đến ngày tái sinh, lũ quỷ sứ lại trói mọi người một lần nữa. Chúng lôi mọi người đến cửa Địa ngục, ở đó có cái bánh xe quay khổng lồ. Lũ quỷ dùng hết sức đẩy ta vào đấy. Ta ngã xuống, bánh xe khổng lồ sẽ cuốn ta vào những vòng quay vĩnh cửu. Chúng ta tỉnh dậy đầu thai vào một kiếp mới và trải qua một số phận khác như chó, mèo, đàn ông, đàn bà, giàu hay nghèo, vua hay ăn mày. Tất cả phụ thuộc vào nhân đức mà ta tích được ở kiếp trước.

Mắt giương to, miệng há hốc, quá đỗi bàng hoàng trước bí ẩn vừa biết, tôi đứng lặng người. Trước thái độ quá đỗi ngạc nhiên của tôi, già Lý âm thầm sung sướng và không bỏ qua cơ hội phô bày hiểu biết của mình:

“Tại sao chúng ta lại có những mối quan hệ đặc biệt với một số người nào đó thôi? Tại sao lại có những người làm cho ta vui sướng, còn những người khác lại làm ta đau khổ? Tại sao họ đến với chúng ta trong cuộc đời này để rồi vội vã lìa xa chúng ta, bỏ rơi chúng ta trong nỗi đau buồn vô vọng? Tại sao họ được sinh ra để trở thành cha mẹ ta, thành anh chị em của ta, hoặc làm con chó con mèo của ta, hay làm thân con kiến mà không may chúng ta xéo nát dưới đế giày? Tại sao chúng ta lại bị phản bội, lừa dối, lại được yêu và được người khác xả thân vì ta? Đấy chính là cái nút của nghiệp chướng! Qua những số kiếp không ngừng được tái sinh liên tiếp, các linh hồn đi tìm kiếm giải thoát những gánh nhân quả tiền kiếp”.

Má già Lý đỏ ửng, mắt long lanh. Suốt đời đã trải qua, già luôn luôn thành tâm cầu nguyện trời phật, luôn luôn hỏi ý kiến các ông thầy bà đồng, luôn luôn cầu khấn các oan hồn để được giải thoát khỏi vòng luân hồi.

Tôi bẽn lẽn hỏi già Lý không biết khi nào đó tôi có thể trở thành kiếp chim được không. Già chỉ mỉm cười mà không trả lời.

“Thành một con bướm hay một con chuồn chuồn cũng được!” Tôi kêu lên. Ý tưởng có đôi cánh bay lượn thoải mái trên bầu trời làm tôi sướng rơn.

Bất chợt niềm vui của tôi biến thành nỗi lo âu. Nếu tôi là bướm thì mẹ tôi sẽ ra sao? Tôi hỏi già Lý. Liệu mẹ tôi có trở thành bướm mẹ được không? Có thể như vậy được chăng? Có thể ở kiếp đó, mẹ tôi sẽ là một công chúa, một con chim hay là một cái cầy. Mẹ sẽ chẳng biết đến tôi và không yêu tôi. Rồi còn cha tôi nữa? Và anh tôi nữa? Và rồi ông bà tiên tổ của tôi, họ sẽ là ai? Tại sao lại phải sùng kính ông bà cha mẹ nếu mọi quen hệ chỉ là thoáng qua?

“Hãy cầu nguyện đi, con ạ, phải chấp nhận số phận đã được dành cho chúng ta”.

Nhưng tôi không nghe chuyện của già Lý nữa, Tôi quay lại nhìn cái chòi biểu diễn ca kịch, nơi đó mấy diễn viên đã hoá trang xong, một số khác thì đang biểu diễn rồi, còn một số người nữa ngồi bệt xuống đất đợi đến lượt ra sân khấu. Tôi cảm thấy một nỗi cô đơn mênh mông.

Tôi là ai?

Tôi trèo xuống khỏi ghế, để yên cho người ta mặc quần áo cho tôi, bỗng thấy anh tôi đang rình ngó tôi ở cửa sổ. Anh ấy muốn trốn đi nhưng bị tôi giữ lại.

“Xuân Di, anh nghe thấy hết cả rồi! Em sẽ là con bướm bay lượn!”

Anh nhăn mặt, biến mất sau gốc ây.

Tức giận vì thái độ thờ ơ như vậy, tôi thề sẽ bám theo anh ấy đến tận kiếp sau, khi đó tôi sẽ làm người tra tấn anh.

Sau đó, tôi về phòng mẹ ăn bữa sáng. Đó là thời ỳì xương ngón chân tôi đang dần gãy, đôi bàn chân băng bó của tôi bắt đầu thâm tím lại, chảy máu và mưng mủ. Nhưng vẫn cứ phải đi. Đau đớn buốt da buốt thịt làm tôi phát khóc.

Sáng nay, mẹ có vẻ lo lắng. Nhìn thấy tôi khập khiễng đi tới, mẹ thở dài, ôm tôi vào lòng.

“Con gái tội nghiệp của mẹ, mẹ nói với tôi. Khi người ta bó chân cho mẹ, bà ngoại con lấy đá lăn lên chân mẹ cho xương gãy nhanh hơn. Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Không có đôi chân bó đẹp đẽ, mẹ không thể gả con cho một đám tử tế được”.

Người mẹ thơm mùi bạch xạ. Lời mẹ nói ngọt ngào là niềm an ủi hào phóng giảm nhẹ đau đớn cho tôi.

Khi chúng tôi ăn cơm sáng xong, mẹ cho dọn bàn đi. Đám gia nhân bày trước mặt mẹ mực, giấy, sổ ghi chép, bàn tính gay bằng gỗ rồi thông báo cho mẹ biết các quản gia, kế toán và quản lý đang đứng đợi để báo cáo công việc với mẹ.

Từ khi bị bó chân, để an ủi tôi, mẹ cho tôi ngồi cạnh khi xử lý các công việc gia đình. Ngồi trên ghế, tôi hí hoáy vẽ bằng bút lông. Tôi thích cái giây phút trang trọng của buổi sáng yên tĩnh tuyệt đối này. Mẹ thừa hưởng của ông cái khiếu điều hành công việc. Mẹ biết cách nắm các khoản chi tiêu. Mẹ tính toán, suy nghĩ, ra lệnh với cách nói vừa dịu dàng vừa chắc nịch. Mẹ nói những từ giản dị để làm cho gia nhân tuân lệnh. Kẻ mắc lỗi thì phải chịu tra hỏi rất tỉ mỉ và phải giải thích đến từng chuyện nhỏ nhặt. Kẻ nói dối thì tái mét mặt mày dưới cái nhìn tinh sâu của mẹ đọc được mọi điều họ suy nghĩ.

Sáng nay, sau khi người quản gia ra khỏi phòng, tôi định đòi mẹ thề sẽ vẫn cứ là mẹ trong kiếp tới, thì đúng lúc đó cha đến thăm. Thấy cha đi vào, tôi không nói gì nữa, tôi cúi lạy cha rồi lẻn sang phòng bên cạnh.

Ngay khi đó, tôi nghe tiếng cha càu nhàu. Cha kêu ca khí trời oi bức, ánh nắng loá cả mắt, gió thổi tung cả quần áo của cha, và chuyện gia nhân hỗn hào.

“Ông cần bớt hút thuốc đi, mẹ tôi trả lời, giọng điềm tĩnh. Hút thuốc làm sức khoẻ của ông yếu đi”.

Cha tôi phá lên cười giọng miễn cưỡng.

“Ngu muội, cha nói, ngu muội!”

“Thời gian gần đây, ông gầy đi nhiều, mẹ tôi thuyết phục thêm. Thiếp nghe nói ở Quảng Đông, từ vài năm nay, người ta đóng cửa các nhà hút và trưng thu tất cả thuốc phiện, đem đốt trước dân chúng. Ông thấy đấy, ai ai cũng biết tác hại của nó”.

Tôi nghe thấy cha lên giọng:

“Im đi, im đi, mụ đàn bà ngu xuấn, đừng có nhúng mũi vào chuyện của ta”.

Cha tôi dừng lời, hạ thấp giọng hòng kiềm chế cơn giận dử:

“Cuộc sống là dòng sông chảy chậm chạp, mọi thứ đều bị cuốn trôi, không có cái gì ở lại. Tất cả trốn chạy, tất cả đều bốc hơi và biến mất ở ngay nơi trần thế này, ta có thể là trời nếu cứ tuần theo dòng chảy của vũ trụ, không ràng buộc vào điều gì hết, không sợ cái chết. Thuốc phiện là cái nâng đỡ trí tuệ. Nó giúp ta vượt qua những giây phút phù du và giao cảm với cái vĩnh hằng”.

Mới đầu, mẹ tôi giữ im lặng, nhưng rồi mẹ nói:

“Theo thiển ý của thiếp, vĩnh hằng là điều đi ngang qua chúng ta qua việc ta thờ cúng tổ tiên và dạy con cái biết khiêm nhường, biết tôn kính và biết cống hiến”.

Tiếng một đồ bằng sứ vỡ tan.

Cha tôi la lên:

“Con cái ư? Giời đất ơi, ta có đứa con trai vô dụng, không phẩm cách. Tại sao bà lại không bao giờ hiểu vinh quang của gia đình ta thế là đã hết. Sẽ không có gì trường tồn, chả có cái gì là trường tồn nữa hết. Hôm nay, ta còn được một cái nhà kiên cố, ngày mai, nó sẽ thành đống đá đồ nát. Phi lý, phi lý..Cha đi khỏi. Tôi còn nghe nhiều lần nữa cha lặp đi lặp lại “phi lý, phi lý”.

Ngay từ hơi thuốc phiện đầu tiên, người hút lập tức chìm sâu xuống vực thẳm, nơi đó hơi nóng và bóng tối liệm họ lại. Tiếp theo, đột nhiên là sự nhẹ tênh, là cõi tịch mịch... cái vô tận. Linh hồn tách ra khỏi thân thể bay là là ở một độ cao mà hiện tại, quá khứ và tương lai đều lẫn lộn, hoà làm một. Nằm trên giường hút, cha tôi mơ mơ màng màng, chiêm ngưỡng cuộc đời như một bức tranh mà săm soi những vẻ đẹp phù phiếm nhất của nó. Cha tôi ngẫm nghĩ về vũ trụ trống rỗng của chúng ta.

Khi thuốc phiện hết tác dụng, sau chuyến du ngoạn lơ lửng trong xứ sở các thánh thần, cha tôi quay trở lại với thực tế. Cha mở mắt ra. Phòng hút được soi sáng yếu ớt tựa hồ chiếc mõm ngoác rộng của một con quái vật. Cha tôi đứng dậy, gọi người hầu đến nhưng không ai đến. Cha đi vài bước, đẩy cửa ra. Mặt trời trút xuống cha nỗi buồn dai dẳng của cuộc sống trần thế.

Ngay sau khi sinh cha tôi, ông tôi bỏ lâu đài ra đi và biến mất. Một số người kể lại rằng ông đi theo đạo thiên chúa, một số khác lại nói ông trở thành thủ lĩnh của hội Nghĩa Hoà Đoàn đi cắt đầu bọn Tây đương ngoại quỷ.

Là đứa trẻ ốm yếu, cha tôi được nuôi dưỡng lớn lên giữa đám phụ nữ. Cha mơ ước trở thành một viên tướng. Nhưng ông tôi, người mà cha tôi tôn kính, lại chẳng quay về để đón cha bước vào đời. Đứa trẻ bị ốm vì tuyệt vọng Người ta đặt đứa trẻ là cha tôi lên giường, bọc nhiều lóp chăn lụa. Quanh năm lúc nào phòng của cha cũng được làm nóng; rất nhiều thầy thuốc được mời đến kê cho cha tôi cơ man nào là đơn thuốc. Dù đã uống biết bao sâm nhung, đã ăn yến sào và các loại cao địa bồ, nhưng cha vẫn cứ yếu đi. Cha ho, cha nôn, cha đau đầu dữ dội; cha trở nên ủ rũ, cha đối xử tồi tệ với gia nhân. Vinh quang, chiến trận, du ngoạn, kinh kỳ, tất cả đều bốc bay đằng sau những tấm rèm thêu. Khi trời đẹp và ấm áp, đôi khi cha được đưa ra khỏi gian phòng tối. Người ta cứ bê nguyên cả giường với cha ra ngoài vườn. Chăn trùm kín đến tận cằm, cha nhìn trời. Chim bay qua trên đầu. Đó là thời niên thiếu của cha, trôi đi như cánh chim bay qua cửa.

Ngày hôm đó, khi ra khởi phòng hút, cha nhớ ngay đến thằng con trai nối dõi tông đường căm ghét học hành và không chịu thờ phụng tổ tiên. Cha bỗng điên tiết lên, đâm bổ về phía chòi đặt tên là chòi Hương Xưa như thể có ma quỷ dẫn lối.

Vào thời kỳ đó, tôi cũng được học kèm với anh tôi. Lớp gồm có bốn người, con nhải riêng của tôi, người hầu của anh, Xuân Di và tôi. Chiều chiều, chúng tôi lại tụ họp trong chòi Hương Xưa hình tứ giác, do một cụ tổ xây nhưng không ai còn nhớ rõ đó là cụ nào. Để giúp đầu óc tập trung vào việc học hành, tường nhà hoàn toàn trần trụi, bàn ghế giản dị và là đồ cũ. Những cây trắc bách diệp cành lá đan vào nhau rủ bóng mát xuống ru chúng tôi.

Anh tôi ghét cay ghét đắng chuyện phải ngồi yên một chỗ, vì vậy anh vô cùng căm ghét việc học hành. Giọng nói run run của thầy dạy ru anh buồn ngủ. Trong phòng, đôi khi có con ruồi bay qua làm cho anh mơ mộng. Đằng sau cửa sổ, cha giật mình thấy anh tôi xé sách dựng trên bàn, vê thành cục nhỏ, lấy nước bọt thấm ướt lên rồi ném vào gáy tên người hầu.

Cha tôi đẩy cửa bước vào, tất cả mọi người đều đứng dậy chào. Cha ra hiệu cho tất cả chúng tôi ngồi xuống, trừ anh tôi, cha bắt phải quỳ. Cả hai gườm gườm nhìn nhau.

“Hãy đọc to bài “Tổ tiên quang vinh”, cha ra lệnh cho Xuân Di:

Ôi, tổ tiên quang vinh!

Hành trang tổ tiên mãi mãi trường tồn!

Hãy ban phúc lành vỏ giới hạn

Cho tất cả chúng con nơi trần gian!

Xin rót đầy rượu trong cốc;

Xin cho con được thực hiên ỷ nguyện của mình,

Và đây là, đây là...

Mặt Xuân Di đỏ bừng. Anh cố nhớ những câu thơ nhưng không sao nhớ nổi, chúng biến đi đằng nào mất. Mồ hôi chảy ròng ròng trên gò má. Anh lấy mu bàn tay bẩn quệt ngang mặt, để lại mấy vệt đen. Anh tôi vẫn tiếp tục quỳ, đầu cúi gằm, lưng cong, mắt cắm xuống đất.

Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy nụ cười nhạo trên mép anh.

Tinh thần tôi rối loạn, tôi nhìn về phía cha tôi cầu khẩn. Tôi thấy cha tôi cũng vậy, cha cười mỉa mai.

Cha gọi người mang roi đến.

Tôi chăm chú nhìn vào quyển sách. Vô ích. Tôi cố gắng đọc từng chữ. Bên tai tôi chỉ còn nghe thấy tiếng roi vun vút và sự im lặng bướng bỉnh của anh tôi. Tôi co rúm người lại, tự dưng lại đếm những tiếng roi quật xuống dù cố gắng kiềm chế không làm như vậy, tôi cầu nguyện tất cả các vị thần linh sao cho cuộc tra tấn rút ngắn lại

Tiếng roi ngừng lại, tiếng cha tôi cất lên: “Xuân Ninh, chắc là con đọc được bài “Tổ tiên vinh quang” cho ta nghe”.

Tôi định giả vờ không thuộc để làm đồng loã với anh tôi đang lăn lộn dưới đất. Nhưng tôi lại không đủ dũng cảm để nói dối. Tôi đọc toàn bộ bài thơ từ đầu đến cuối không vướng lỗi nào.

Ngay tối hôm đó, anh chặn đường tôi dưới giàn đậu tía. Anh đi theo tôi rất lâu trong bóng tối, rình lúc tôi chỉ có một mình. Anh nhìn tôi chằm chằm thật lâu như người đàn ông đang chiêm ngưỡng bóng của chính mình, ảnh phản chiếu chính mình, con đỉa của mình. Đột nhiên, anh ấy tóm lấy cánh tay tôi và chửi rủa tôi, gọi tôi là đồ phản trắc, đồ hèn, đồ con gái ngu xuẩn. Anh nói sẽ trả thù. Anh nói sau khi cha mẹ chết, anh sẽ có toàn quyền đối với tôi và sẽ làm tôi đau khổ. Anh giậm chân, nhổ nước bọt, giơ nắm đấm. Một cách vô ý thức, anh hành động hệt như cha. Anh cao hơn tôi đúng một cái đầu Tôi thấy vừa sợ hãi, vừa thương hại. Đêm tĩnh mịch, tôi cố gắng đếm những chùm đậu tía treo lơ lửng trong bóng tối. Những lời sỉ nhục làm tôi tổn thương. Nhẽ ra tôi đã hét lên, gào lên, cào vào mặt anh rồi bỏ chạy và mách cha, nhưng người ta vẫn dạy tôi phải kính trọng và không bao giờ được tự vệ. Tôi còn quá trẻ con nên chẳng thể biết được rằng chửi tôi thì tôi có quyền chửi lại. Tôi không thể hiểu được tôi có quyền chống đối, còn Xuân Di đã lạm dụng quyền làm anh mà chà đạp lên tôi.

Những cảnh như vậy tiếp tục tái diễn nhiều lần, bởi vì anh tôi càng ngày càng sa sút phẩm cách, trong khi tôi thì càng ngày càng trưởng thành hơn. Đôi khi tôi cảm thấy có lỗi vì hơn anh. Cha bỏ hẳn việc giáo dục con trai, có chút ít dịu dàng, tình cảm cha dành hết cho tôi. Cha đòi tôi đọc một bài thơ, nhắm mắt lại thưởng thức nụ cười trên khoé miệng. Sau đó, cha thường cho tôi một câu nói dịu dàng, một cái vuốt ve âu yếm hoặc một món quà. Càng ngày cha càng suy ngẫm lâu hơn trong phòng hút. Cha không còn đến lớp học để kiểm tra sự chuyên cần của Xuân Di nữa. Tuỳ theo cảm hứng của cha mà cha bắt con trai mình phải chịu hình phạt nặng đến mức nào để rồi sau đó, các hình phạt đó lại được trút sang tôi vì thù hận. Nghe tôi rên rỉ, nức nở, anh ấy nhẹ người đi. Tôi không tố cáo anh ấy, đấy là điều bí mật của tôi. Sự bạo tàn của cha làm tôi sợ, còn sự bạo tàn của anh tôi chỉ làm tôi mếch lòng mà thôi. Xuân Di và tôi là người thân thích, dù cho anh ấy có khinh bỉ và xa cách tôi. Còn cha là người dưng trong vũ trụ của chúng tôi. Chúng tôi là những người chia sẻ cuộc sống với nhau từ trước khi nó bắt đầu.

Cha nghe nói rằng tiếng đàn thập lục có thể thuần hoá thú dữ, làm cho tính người mềm mại, biến kẻ vô đạo thành sùng tín và có đạo đức, nên cha cho mời thầy dạy đàn giỏi nhất tỉnh Tứ Xuyên về, hy vọng lôi Xuân Di trở lại con đường đúng. Lão thầy già này không chấp nhận học sinh thuộc giới ô uế, nhưng tôi cứ xin mẹ can thiệp giúp. Nhạc cụ mà chúng tôi tìm cách tuần phục đáp lại chúng tôi bằng những tiếng kêu khó chịu. Mới đầu anh tôi say mê chiếc đàn thập lục cổ do cha mua cho, nhưng rồi rất nhanh nản chí. Anh thiếu năng khiếu cảm nhận nhịp điệu và anh cũng kém bền chí, nhất là những buồi học nhạc lại cướp mất đi của anh thời gian vô công rồi nghề và đem lại thêm cho anh những lời quở mắng mới. Tôi thì gần với văn thơ hơn là với âm nhạc, nên tôi phải hết sức cần mẫn chế ngự cây đàn, bởi vì Xuân Di có mặt bên cạnh và tôi cần phải vượt anh ấy. Tôi tiến bộ rất nhanh, làm cho thầy dạy phải ngạc nhiên vì trí nhớ và bàn tay khéo léo.

Chẳng bao lâu sau, tôi có thể chơi nhiều điệu không mắc lỗi nào, trong khi đó, cây đàn của anh tôi cứ bập bùng sai điệu, sai âm và vô hồn.

Tôi không thấy vui thích gì hết trong việc học đàn, ngoại trừ được cảm thấy nổi bật. Tôi không thể tiếp thu được loại âm nhạc này. Dù vậy, tôi thích nghe thầy chơi sau nhiều lần cha tôi nài nỉ khi gia đình tôi ăn tối xong trong không khí thuận hoà. Thầy ngẩng đầu để kiểm tra xem có đúng là trăng đã soi tỏ ban đêm không và ngoài vườn đã tắm trong một không khí tinh khiết chưa. Thầy đòi chậu nước trong để rửa tay. Rượu sưởi ấm tâm hồn thầy, giải phóng thầy ra khỏi sự trang trọng cứng nhắc. Thầy ngồi dưới cây thông to mà tnrớc đó tên hầu của thầy đã đặt sẵn một cái bàn với chiếc đàn thập lục đời Đường. Thầy bật ngón tay vào dây đàn. Âm thanh yếu ớt nhưng rõ, như một tiếng thì thầm vào tai. Những nốt nhạc tuôn ra như dòng suối chảy quanh những cây to, vuốt ve những mỏm đá rồi biến thành thác nước. Gió đi ngang khu vườn làm run rẩy những bông hoa. Âm điệu của cây đàn lướt trên những khối đá, làm dịu đi vẻ hỗn độn của chúng. Anh tôi ngủ, miệng há hốc. Cơn buồn ngủ ngay lập tức xâm chiếm lấy anh khi âm nhạc vừa nổi lên. Còn cha thì mắt nhắm lại, tĩnh tâm suy tưởng. Tiếng đàn mở rộng một cánh cửa vô hình, tôi bắt đầu phân biệt được những âm thanh nhỏ nhất của đêm: tiếng rin rít của một con côn trùng, tiếng rì rào của lá, tiếng vỗ cánh. Cái mênh mang bủa vây lấy tôi: cỏ trên thảo nguyên gọn sóng, một con ngựa cất tiếng hí, những làn sóng vỗ ì oạp, những chú cá đuổi nhau dưới nước. Dần dần, những âm thanh này biến mất như thế một đám sương mù bốc hơi. Chỉ còn lại tiếng đàn vang lên rồi yếu dần, tâm trí người theo dõi nó dần dần tụt xuống một vực thắm yên lặng. Tiếng nhạc bây giờ không thể nhận ra được nữa, nó giống như bóng ma dẫn dắt chúng tôi về nơi Âm Phủ. Bỗng nhiên, nó hoá thành một con sếu trắng, giương cánh ra lao thẳng vào nền trời tối đen, rồi trở thành một chấm nhỏ mà mắt thường không nhận ra được nữa.

Năm mười hai tuổi, anh tôi nhảy lên một chú ngựa trắng hùng dũng, lưng anh đeo bao tên da khảm những hình bằng vàng. Trong bộ quần áo kỵ sĩ, đôi vai rộng của anh như đội cả bầu trời. Đầu anh để trần, chạm vào mầy. Cánh tay phải anh quấn băng dày làm chỗ cho một con chim ưng mặt bị che kín bám chặt vào. Bằng một cử động đầy hung hăng, anh cho ngựa xông tới cái cồng bên đã được lão coi ngựa mở sẵn. Anh lao vút đi như tên bắn thẳng vào cái thế giới cấm kỵ đối với tôi. Anh trở về nhà khi màn đêm buông xuống, đúng giờ cha thường giam mình trong phòng hút để chỉ trở ra vào sáng hôm sau. Anh tôi đi theo con đường có mái che, vừa đi vừa gây ồn ào ầm ĩ. Mọi người nhận ra ngay tiếng bước chân kênh kiệu của anh. Quần áo anh rách tơi tả, dính đầy lá và bùn khô. Người anh bốc ra mùi nằng nặng của khói lẫn mồ hôi. Nhưng đôi mắt anh tràn đầy kiêu hãnh của con người đã chiêm ngưỡng một xứ sở thần bí.

Cái mênh mông vô cùng của cao nguyên ám ảnh anh, sự thô kệch của dân chúng trên thảo nguyên thôi miên anh. Anh đi săn với lũ gia nhân và với cả bọn trẻ con người Mông cổ và người Tây Tạng. Anh quý bọn trẻ đó hơn trẻ con của người chăn cừu Trung Quốc vì chúng có nụ cười hoang dại, giọng hát sắc ngọt và cái nhìn không thế chế ngự được. Chúng dạy anh đi săn con chim ưng, leo trèo và đánh giáp lá cà tay không.

Bức tường nhà là những đường biên giới có từ lâu. Vượt qua đó trở về, tính cách anh thay đôi. Niềm vui rơi mất. Tim anh chỉ còn lại sự thù hận, tính kiêu căng và xua đi sự vô tư. Anh vừa khiếp đảm đồng thời lại say mê tính bạo tàn của cha. Anh bắt chước cha lối đối xử thô bạo với tôi. Ghen tị trong anh đã đạt tới mức cực điềm. Anh cảm thấy bị truất bỏ, bị kết án, cảm thấy chỉ là cái bóng trước ánh sáng toả ra từ tôi. Anh sợ trở thành một hành tinh chết.

Tôi học thuộc mọi sách quy tắc, đọc hàng trăm bài thơ. Tôi thông tường tất cả cây cối, những câu chuyện được minh hoạ trên trần nhà, các quái vật chạm khắc được dựng trên mái hay trên tường. Nhưng mùa xuân

Rồi mùa thu cứ thay phiên nhau đến rồi đi mà chẳng ai biết cách giải thích cho tôi về những điều ấy.

Các mùa đi qua rồi quay trở lại, hoa tàn rồi lại nở, mà tôi vẫn chưa gặp được một trí tuệ, một bóng ma hay một người bạn gái nào. Vào lần sinh nhật thứ mười sáu, tôi lăn ra ốm.

Chỉ là những cơn nghẹt thở nhưng tôi không thể ngủ được, ăn không ngon miệng. Tôi trở nên bẳn tính. Nhiều thầy thuốc đã đến bên đầu giường thăm và chữa bệnh cho tôi nhưng chẳng toa thuốc nào hiệu nghiệm. Khi đó là mùa đông, một mùa đông dài và im ắng. Ngày trôi qua, tôi ngồi dưới cửa sổ, ôm chiếc lồng ấp lớn với đôi găng tay lông chồn Tuyết rơi. Trên những tờ giấy bản che ô cừa kính, những bông tuyết to vẽ nên những chiếc bóng.

Mùa xuân đến muộn. Vài cây dại xanh trồi lên trên tuyết. Đất ấm ướt, đen như mực. Rồi một hôm, mặt trời bỗng toả sáng rực rỡ, làm cho cây cối xanh mơn mởn. Ngày hôm sau, sau nhiều lần nài nỉ, mẹ cho phép tôi đi ra ngoài. Tôi lang thang trong vườn, nhiều lần phải dừng lại đế thở. Không khí nhẹ nhàng, ấm áp. Nhưng khắp nơi vẫn chưa nở hoa; vẫn không có tiếng ong vo ve cũng chẳng có tiếng sếu kêu.

Buồn bã, tôi ngước mắt nhìn trời. Những dải mây trôi nổi. Bỗng nhiên, có tiếng kêu than van theo sau là những tiếng rì rào. Một đàn sếu trắng bay ngang bầu trời. Chúng bay qua đầu tôi, oai nghiêm, nhẹ nhàng. Tôi dõi mắt theo chúng, có cảm giác cũng đang bay lên, nhưng bức tường lại cắt đứt mất chân trời của tôi, thả tôi trả lại mặt đất. Tức giận, tôi ra lệnh cho người hầu kiệu tôi lên vai, giúp tôi trèo lên cây trắc bách diệp có đến hàng trăm năm tuổi. Một cành to đâm ngang, sà lên bờ tường như một cái cầu. Tôi ra lệnh cho cô hầu ngậm miệng lại vì cô ta sợ hãi rên ri. Tôi trèo lên tường, quấn váy lại và ngồi lên tường theo kiểu cưỡi ngựa.

Tôi ngước mắt nhìn.

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy xứ sở của mình. Khoảng vài trăm bước chân phía dưới, trên thảo nguyên bao la, bò, cừu và ngựa Tây Tạng đi lại như từng đàn mây bị gió xua đi. Bên phải và bên trái, những dải núi bò như những con rắn, trên đỉnh là những đám tuyết vĩnh cửu. Phía chân trời có một hồ lớn, phản quang cả trời và đất. Đàn sếu bay về phía hồ nước ấy: vô số những con chim khác họp lại như những đàn ong, xoay tròn xung quanh như những chấm đen.

Tôi ước muốn được tung mình trên không, được bay lên trời.

Từ lúc ấy cho đến tối, con người tôi là sự phấn khích tột độ. Tôi cười, ăn ngon miệng vô cùng và chuyện trò rôm rả. Tôi đe doạ bắt cô hầu thề giữ kín bí mật của tôi. Buổi tối trên giường, trước mắt tôi lại hiện ra những phong cảnh kỳ lạ rồi tôi ngủ thiếp đi với niềm hạnh phúc của một người đã có trong tay cả một đế chế.

Năm mười bốn tuồi, thỉnh thoảng Xuân Di cũng có chút tình cảm với em gái song sinh. Anh cố gắng nói chuyện với tôi, giải thích cho tôi những thứ vũ khí mà anh sử dụng, nhưng anh không kiên nhẫn, thường xuyên nổi giận rồi bỏ đi. Anh mang về cho tôi những ôm hoa dại, xanh hơn cả màn đêm và trắng hơn cả bình minh. Anh nhiệt thành đến độ khi bắt gặp vẻ dè dặt của tôi khiến anh thất vọng. Anh tức mình vứt cả bó hoa qua bờ tường. Tôi khóc. Anh ân hận, lại ra đi và mang về cho tôi một quả trứng hay một chiếc lông đẹp.

Một lần trở về nhà người anh ướt sũng, anh tìm tôi khắp nơi, tay bưng cho tôi một cái bát đầy nước trong vắt. Một cái cây kỳ lạ trôi nổi bập bềnh trong đó, lá xanh của nó giống những chiếc lông chim. Có một con cá trong suốt đang bơi. Anh tôi mang về cho tôi một cư dân của cái hồ xa xôi kia mà tôi vẫn chiêm ngưỡng từ trên bờ tường!

Anh và tôi hoà giải với nhau mà không nói lời dàn hoà chính thức. Chúng tôi nghĩ rằng vũ trụ của chúng tôi được chia làm đôi. Một bên có mẹ và chúng tôi, còn bên kia có cha và các nàng thiếp.

Cha có ba nàng thiếp, chúng tôi đều gọi là “Má”. Họ là giống người chẳng như ai, tựa như con thú bé nhỏ có răng sắc nhọn trú ẩn trong hang sâu. Họ là nỗi sợ hãi, cái quyến rũ, sự tàn ác. Họ làm chúng tôi choáng váng, kinh hãi vì thứ ngôn ngữ tục tằn của họ. Cung cách của họ bạo tàn hơn mẹ nhưng tinh tế hơn người hầu. Khuôn mặt họ hằn lên sự dỗi hòn, đố kị và bạc nhược.

Trẻ con trên thảo nguyên trưởng thành sớm. Mùa xuân, khi hoàng hôn tô hồng đỉnh núi, trai trẻ trần trùng trục dưới làn da dê, thong thả đuổi từng đàn súc vật về chuồng. Những cô gái mang quần áo được gió hong khô vào nhà, chuẩn bị nấu nướng. Khi đi ngang qua trước cửa lều có cô gái ở, các chàng trai cất tiếng hát. Giọng hát khàn, đầy khát khao làm trời phải đỏ mặt. Thỉnh thoảng nổi lên tiếng hát của một cô gái ước mơ trở thành đàn bà. Giai điệu, dường như khởi sinh từ khung cảnh, diễn tá niềm vui một cách đau đớn.

Vào những lúc đó, Xuân Di đi theo bạn, răng nghiến chặt, máu nóng rần rần trong huyết quản.

Nàng thiếp đầu tiên là một cô bán hàng chợ phiên. Cha tôi chọn nàng vì những ngón tay khéo léo của nàng chơi đàn tì bà như ngón tay của nữ thần; người thiếp thứ hai xuất thân từ một gia đình quý tộc bị phá sản; người thứ ba, đẹp nhất, người thiếp cuối cùng được phát hiện ra trong dịp chợ phiên ở miếu thờ, lúc đó nàng trong bộ áo dài xám, đầu cạo trọc, đang đi ăn xin.

Vào tuổi hai mươi, nàng mê hoặc cả nhà bằng gương mặt sáng ngời, thái độ vui vẻ và làm mủi lòng mọi người bằng những câu chuyện về tuổi thơ côi cút. Nhưng Xuân Di và tôi sợ đôi mắt một mí của nàng kéo dài đến tận thái dương, lòng đen dài giống như hai con lươn đen. Khi Xuân Di cao bằng nàng, người phụ nữ trước đây không thèm để ý đến anh, bây giờ bắt đầu trêu ghẹo anh. Anh trốn chạy, nhưng sự chạy trốn của anh lại càng kích thích nàng bám đuổi anh không ngừng Tôi rất ph