← Quay lại trang sách

Chương 5 NURIA MONFORT: HỒI ỨC VỀ ĐIỀU MẤT MÁT-1933-1955-45

SẼ KHÔNG CÓ CƠ HỘI THỨ HAI TRONG ĐỜI, ngoại trừ cơ hội để thấy ăn năn. Julián Carax và tôi gặp nhau vào mùa thu năm 1933. Lúc ấy tôi đang làm việc cho nhà Toni Cabestany, người đã phát hiện ra anh ấy năm 1927 trong một chuyến đi “săn-lùng-sách” của ông tới Paris. Julián kiếm sống nhờ chơi dương cầm tại một quán bar vào các buổi chiều, còn về đêm anh ấy viết. Chủ quán, một người tên Irene Marceau, quen biết hầu hết các nhà xuất bản ở Paris, và nhờ có bà nài xin các nhà xuất bản, dành ưu đãi cho họ hoặc đe dọa tiết lộ bí mật của họ mà Julián Carax có một số tiểu thuyết được xuất bản, dù với doanh số bán ra thảm hại. Bằng một giá cho không, Cabestany được độc quyền xuất bản các tác phẩm của Carax ở Tây Ban Nha và Mỹ La tinh, việc dịch thuật từ bản gốc tiếng Pháp sang tiếng Tây Ban Nha do chính tác giả đảm nhiệm. Cabestany hy vọng bán được chừng ba đến bốn ngàn bản mỗi tác phẩm, nhưng hai đầu sách trước xuất bản ở Tây Ban Nha đã thất bại toàn diện: mỗi cuốn bán được chưa đầy trăm bản. Bất chấp những kết quả bi thảm này, cứ hai năm chúng tôi nhận được bản thảo mới của Julián, Cabestany đón nhận không một lời phản đối, bảo rằng ông đã ký thỏa thuận với tác giả, lợi nhuận không phải là tất cả, văn chương hay cần được ủng hộ với bất cứ giá nào.

Một ngày, tôi tò mò hỏi ông tại sao ông tiếp tục xuất bản các tiểu thuyết của Julián Carax như một chuyến phiêu lưu thua lỗ. Trả lời tôi, Cabestany trịnh trọng bước đến giá sách, lấy một cuốn của Julián, bảo tôi đọc. Tôi đã đọc. Hai tuần sau, tôi đã đọc hết tất cả sách của Carax. Lần này câu hỏi của tôi là, tại sao những tiểu thuyết như vậy lại bán được quá ít thế?

“Tôi không biết, Nuria thân mến,” Cabestany đáp. “Nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục cố gắng.”

Cử chỉ cao thượng và đáng ngưỡng mộ như vậy không hợp với hình dung của tôi về ông Cabestany. Có lẽ tôi đã đánh giá thấp ông ấy. Tôi nhận ra hình ảnh Julián Carax ngày càng gợi trí tò mò, bởi mọi thứ liên quan đến anh ấy dường như đều bị phủ dưới tấm màn bí ẩn. Ít nhất cứ hai tháng một lần, có người lại gọi điện hỏi địa chỉ anh ấy. Rồi tôi sớm nhận ra vẫn luôn là một người, mỗi lần lại xưng một tên khác. Nhưng tôi chỉ có thể cho hắn biết những điều được in trên bìa sau các tiểu thuyết của anh ấy, và rằng Julián sống ở Paris. Sau một thời gian, hắn thôi gọi điện. Để đề phòng, tôi đã xóa địa chỉ của Carax trong hồ sơ công ty. Tôi là người duy nhất viết thư cho anh ấy, và tôi đã thuộc lòng địa chỉ.

Nhiều tháng sau, tôi tình cờ bắt gặp những hóa đơn do nhà in gửi cho ông Cabestany. Khi liếc qua, tôi nhận ra chi phí biên tập cho sách của Julián Carax đã được thanh toán, toàn bộ, bởi một người ngoài công ty, mà tên tôi chưa từng nghe đến: Miquel Moliner. Hơn nữa, chi phí in ấn và vận chuyển những cuốn sách này thấp hơn rất nhiều so với tổng số tiền tính cho Moliner trên hóa đơn. Những con số không biết nói dối: công ty xuất bản kiếm tiền bằng cách in những cuốn sách một khi đã in ra xong là đi thẳng vào kho. Tôi không đủ can đảm để chất vấn những bất thường về tài chính của Cabestany. Tôi sợ mất việc. Điều tôi làm là ghi lại địa chỉ chúng tôi đã gửi hóa đơn cho Miquel Moliner, một dinh thự trên phố Puertaferrissa. Tôi giữ địa chỉ ấy trong nhiều tháng trước khi dồn hết dũng khí đến thăm anh ấy. Cuối cùng, lương tâm đã chiến thắng, và tôi đến nhà anh ấy để bảo rằng ông Cabestany đang bịp anh ấy. Anh ấy mỉm cười bảo tôi rằng anh đã biết.

“Chúng ta đều làm điều chúng ta giỏi nhất.”

Tôi hỏi có phải anh ấy là người thường gọi điện hỏi địa chỉ Carax không. Anh ấy bảo không, và cho tôi biết với vẻ lo lắng rằng tôi không nên đưa địa chỉ cho bất cứ ai. Không bao giờ.

Miquel Moliner khá bí ẩn. Anh sống một mình trong một tòa nhà rộng thênh thang, tàn tạ, vốn là một phần di sản thừa kế từ người cha, nhà công nghiệp đã làm giàu nhờ sản xuất vũ khí và nghe đồn là buôn bán cả chiến tranh nữa. Cuộc sống của Miquel không hề xa hoa, mà như một thầy tu, chuyên tâm hoang phí tiền bạc của cha mình, mà anh cho là đồng tiền vấy máu, vào việc khôi phục viện bảo tàng, nhà thờ, trường học, thư viện, bệnh viện, và bảo đảm tác phẩm của người bạn thời thơ ấu, Julián Carax, được xuất bản trên quê hương.

“Anh có nhiều tiền hơn anh cần, nhưng không có nhiều người bạn như Julián,” anh chỉ giải thích có thế.

Anh không liên hệ gì với các anh chị em hay người còn lại trong gia đình, những người anh xem như xa lạ. Anh chưa kết hôn và hiếm khi rời khỏi dinh thự của mình, trong tòa nhà ấy anh chỉ sống trên tầng cao nhất. Ở đó anh lập một văn phòng, nơi anh làm việc điên cuồng, viết báo và giữ chuyên mục cho nhiều báo và tạp chí ở Madrid và Barcelona, dịch tài liệu kỹ thuật từ tiếng Đức và tiếng Pháp, sửa bản in cho sách bách khoa thư và sách giáo khoa. Miquel Moliner mắc căn bệnh sầu khổ của những người cảm thấy tội lỗi khi không làm việc; tuy anh tôn trọng và thậm chí ghen tị với sự nhàn rỗi mà những người khác hưởng thụ, song anh lẩn tránh nó. Anh không hả hê với lề thói làm việc dị thường của mình, mà hay đùa cợt về cái hoạt động như bị ám này và coi đấy như một biểu hiện nhỏ nhặt của tính hèn nhát.

“Khi làm việc, ta không phải nhìn thẳng vào mắt cuộc đời.”

Chúng tôi dần trở thành bạn tốt của nhau mà không nhận ra. Chúng tôi có nhiều điểm chung, có lẽ quá nhiều. Miquel thích nói với tôi về những cuốn sách, về bác sĩ Freud yêu quý của anh ấy, về âm nhạc, nhưng trên hết là về người bạn cũ Julián. Chúng tôi gặp nhau gần như hằng tuần. Miquel kể cho tôi nghe những câu chuyện thời Julián còn học ở trường San Gabriel. Anh ấy giữ một bộ ảnh cũ, cùng những câu chuyện do Julián viết lúc còn niên thiếu. Miquel ngưỡng mộ Julián, và qua lời kể cùng những ký ức của anh, tôi dần biết Julián, hay ít nhất là gây dựng một hình ảnh về anh ấy khi anh ấy không có mặt. Một năm sau ngày chúng tôi gặp nhau, Miquel thú nhận anh đã đem lòng yêu tôi. Tôi không muốn làm tổn thương anh, nhưng cũng không muốn lừa dối. Không thể nào lừa dối Miquel được. Tôi bảo tôi hết mực quý mến anh, và anh đã trở thành bạn thân nhất của tôi, nhưng tôi không yêu anh. Miquel bảo anh đã biết.

“Em yêu Julián nhưng em hãy còn tự chưa biết.”

Tháng Tám năm 1933, Julián viết thư cho tôi rằng anh ấy đã hoàn thành bản thảo của một cuốn tiểu thuyết khác là Tên trộm trong nhà thờ. Cabestany đã ký với Gallimard một số hợp đồng đến tháng Chín phải gia hạn. Ông đã bị liệt vài tuần nay vì bệnh gút, và để thưởng cho sự tận tình của tôi, ông đã quyết định cử tôi sang Pháp thay ông ấy đàm phán hợp đồng mới. Đồng thời, tôi có thể đến thăm Julián Carax và nhận tác phẩm mới. Tôi biên thư báo cho Julián chuyến thăm của tôi, dự kiến vào giữa tháng Chín, nhờ anh ấy tìm cho một khách sạn rẻ tiền, đáng tin cậy. Julián đáp rằng tôi có thể ở tại nhà anh ấy, một căn hộ khiêm nhường trong khu phố Saint-Germain, và để tiền khách sạn tiêu vào việc khác. Ngày lên đường, tôi đến gặp Miquel hỏi xem anh có nhắn gì Julián không. Một lúc lâu, anh ngập ngừng, rồi bảo anh không nhắn gì.

Lần đầu tôi gặp Julián là tại nhà ga Austerlitz. Tiết thu đã len lén về sớm với Paris, và nhà ga chìm trong lớp sương mù dày đặc. Tôi đợi trên sân ga trong khi những hành khách khác tiến về phía cổng. Tôi nhanh chóng bị bỏ lại một mình. Rồi tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo choàng đen đang đứng ở cổng sân ga nhìn tôi qua làn khói thuốc. Trong suốt chuyến đi, tôi luôn băn khoăn làm cách nào để nhận ra Julián. Những bức ảnh tôi đã xem trong bộ ảnh của Miquel Moliner cũng cách nay ít nhất đã mười ba mười bốn năm rồi. Tôi nhìn lên nhìn xuống sân ga. Không có ai khác ngoài tôi và người đó. Tôi nhận ra người đàn ông ấy đang nhìn tôi tò mò: có lẽ anh ấy cũng đang đợi ai đó. Không thể là anh ấy được. Theo tôi ước tính, Julián chỉ tầm ba ba tuổi, còn người đàn ông kia già hơn. Anh ta tóc lấm chấm bạc, trông u sầu và mệt mỏi. Quá nhợt nhạt, quá gầy gò, hay có lẽ do màn sương và chuyến đi mệt mỏi, hay chỉ bởi vì những hình ảnh trong tâm trí tôi là về Julián thời niên thiếu. Tôi ngập ngừng bước đến người lạ và nhìn thẳng vào mắt anh.

“Julián phải không?”

Người lạ mỉm cười gật đầu. Julián Carax có nụ cười quyến rũ nhất thế giới. Đó là điều duy nhất còn lại ở anh ấy.

Julián sống trong một căn hộ trên gác mái ở Saint-Germain. Căn hộ chỉ có hai phòng: phòng khách với một gian bếp sơ sài và ban công nhỏ xíu từ đó có thể thấy những ngọn tháp của Nhà thờ Đức Bà sừng sững vươn lên giữa một khu rừng đầy những mái nhà và đám sương mờ, và một phòng ngủ không có cửa sổ, một chiếc giường đơn. Phòng tắm ở cuối hành lang tầng dưới, anh dùng chung phòng tắm với những người hàng xóm. Cả căn hộ còn nhỏ hơn phòng làm việc của ông Cabestany. Julián đã lau dọn phòng và chuẩn bị mọi thứ để chào đón tôi với sự khiêm nhường và giản dị. Tôi vờ ra vẻ hài lòng về căn hộ, vẫn còn mùi nước tẩy và mùi sáp đánh bóng đồ dùng, được Julián sử dụng với quyết tâm nhiều hơn là kỹ năng. Khăn trải giường còn mới. Chúng dường như có họa tiết những con rồng và tòa lâu đài. Loại dành cho trẻ con. Julián biện bạch: anh đã mua chúng với giá rất thấp, nhưng chất lượng hảo hạng. Loại khăn trải giường không có họa tiết giá gấp đôi, anh giải thích, và trông chúng chán ngắt.

Trong phòng khách, một chiếc bàn gỗ cũ quay mặt về phía tháp nhà thờ. Trên bàn là cái máy đánh chữ hiệu Underwood mà Julián mua với số tiền Cabestany cho ứng trước, cùng hai tập giấy, một tập trắng còn tập kia chữ kín đầy hai mặt. Julián sống trên căn phòng áp mái cùng một con mèo to tướng tên Kurtz. Con vật nhìn tôi đầy ngờ vực khi nó nằm dưới chân chủ, liếm móng vuốt. Tôi đếm được hai chiếc ghế, một cây móc áo, vài món đồ lặt vặt khác. Còn lại là sách. Sách xếp dọc tường, từ sàn lên trần, xếp hai hàng. Thấy tôi soi xét căn nhà, Julián thở dài.

“Cách đây hai dãy nhà có một khách sạn. Sạch sẽ, rẻ thôi, tử tế. Anh đặt phòng ở đấy nhé.”

Tôi đã nghĩ đến điều này, nhưng sợ làm anh phật lòng.

“Em ở đây cũng được, miễn là không phiền đến anh hay Kurtz.”

Kurtz và Julián liếc nhìn nhau. Julián lắc đầu, và con mèo bắt chước. Tôi đã không để ý họ giống nhau đến thế vậy. Julián một mực bắt tôi dùng phòng ngủ của anh ấy. Anh không mấy khi ngủ ở đây, anh giải thích, và anh sẽ nằm trong phòng khách trên chiếc giường gấp, một hàng xóm cho mượn, ông Darcieu – một thầy bói già chuyên xem chỉ tay các thiếu nữ đổi lấy một nụ hôn. Đêm đầu tiên tôi ngủ rất ngon, vì mệt mỏi sau chuyến đi. Tôi thức dậy lúc hửng sáng và phát hiện Julián đã ra ngoài rồi, Kurtz vẫn ngủ trên cái máy đánh chữ của chủ nó. Nó ngáy như con chó ngao. Tôi bước đến bàn và thấy bản thảo của tiểu thuyết mới mà tôi đến nhận.

TÊN TRỘM TRONG NHÀ THỜ

Trang đầu tiên, như trong mọi tiểu thuyết khác của Julián, là dòng chữ đề tặng viết tay:

Dành tặng P

Tôi náo nức muốn đọc tiếp. Tôi định cầm lên trang thứ hai thì nhận ra Kurtz đang nhìn tôi qua khóe mắt. Tôi lắc đầu theo cách tôi thấy Julián đã làm. Con mèo, để đáp lại, cũng lắc đầu, và tôi đặt trang giấy xuống. Một lúc sau Julián xuất hiện, mang theo món bánh mì mới nướng, một bình cà phê và ít pho mát. Chúng tôi ăn sáng ngoài ban công, Julián nói liên tù tì, nhưng lẩn tránh ánh mắt tôi. Dưới ánh ban mai, trông anh như một đứa trẻ già. Anh đã cạo râu và khoác lên bộ đồ tôi thiết tưởng là bộ tươm tất duy nhất của anh, chiếc áo màu kem đã cũ mòn nhưng rất lịch lãm. Tôi lắng nghe khi anh ấy kể về những bí ẩn của Nhà thờ Đức Bà và về một chiếc sà lan ma quái nghe đồn đêm đêm nó rẽ mặt nước sông Seine để thu nhặt linh hồn những tình nhân vô vọng đã trầm mình xuống dòng sông buốt giá hòng kết liễu cuộc đời. Trong thời gian chúng tôi ở cùng nhau, tôi đã nghe một ngàn lẻ một câu chuyện ly kỳ anh ấy sáng tạo ra ngõ hầu tôi khỏi chất vấn anh. Tôi lặng lẽ ngắm nhìn anh, gật đầu, tìm kiếm trong anh người đàn ông đã viết những cuốn sách mà tôi đã thuộc làu vì đọc đi đọc lại quá nhiều lần, cậu bé mà Miquel Moliner thường mô tả cho tôi.

“Em ở Paris được bao lâu?” anh hỏi.

Công việc của tôi với Gallimard mất chừng vài ba ngày, tôi nói. Cuộc hẹn đầu tiên của tôi với họ là buổi chiều hôm ấy. Tôi bảo anh đã tính dành vài ngày đi thăm thú thành phố trước khi về Barcelona.

“Paris cần nhiều hơn hai ngày,” Julián nói. “Nó không chịu nghe theo lý lẽ đâu.”

“Em không có nhiều thời gian hơn đâu, Julián ạ. Ông Cabestany là một ông chủ rộng lượng, nhưng mọi thứ có giới hạn của nó.”

“Cabestany là một tên cướp, nhưng đến ông ta cũng biết rằng không thể đi xem Paris chỉ trong hai ngày, hay hai tháng, thậm chí hai năm.”

“Em không thể ở Paris hai năm được, Julián.”

Một hồi lâu, anh ấy nhìn tôi không nói, rồi anh ấy mỉm cười. “Sao lại không? Có người nào chờ em sao?”

Công việc với Gallimard và những chuyến thăm xã giao đến nhiều nhà xuất bản khác mà Cabestany có hợp đồng chiếm mất ba ngày trời, như tôi đã dự đoán. Julián đã cử cho tôi một hướng dẫn viên kiêm vệ sĩ, một cậu bé tên Hervé tầm mười ba tuổi biết tường tận thành phố này. Hervé sẽ đưa tôi đi đến nơi về đến chốn, chỉ cho tôi biết quán cà phê nào nên ghé, phố nào nên tránh, cảnh đẹp nào nên xem. Cậu bé sẽ đợi tôi hàng giờ ở cửa văn phòng các nhà xuất bản mà không đánh mất nụ cười trên môi và chấp nhận bất cứ khoản tiền bo nào. Hervé nói thứ tiếng Tây Ban Nha bập bõm nghe rất vui tai, mà cậu ta lẫn vào cả tiếng Ý và Bồ Đào Nha.

“Chú Carax, chú ấy đã trả công cho cháu rồi, hậu hĩnh lắm lắm ạ....”

Theo tôi tìm hiểu, Hervé là trẻ mồ côi, con của một cô gái làm việc cho Irene Marceau, cậu sống ở trên gác mái khu nhà thổ. Julián đã dạy cậu ta tập đọc, viết, chơi dương cầm. Vào các ngày Chủ nhật anh ấy đưa cậu đến nhà hát hoặc nghe hòa nhạc. Hervé thần tượng Julián và dường như sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho anh ấy, thậm chí dẫn tôi đến tận cùng thế giới nếu cần. Ngày thứ ba đi cùng nhau, cậu ấy hỏi tôi có phải là bạn gái của Signore Carax không. Tôi bảo không phải, mà chỉ là một người bạn đến thăm thôi. Cậu bé tỏ vẻ thất vọng.

Julián hầu như thức mọi đêm, ngồi nơi bàn với Kurtz trong lòng, lật qua nhiều trang sách hoặc đơn giản ngắm nhìn tháp nhà thờ đổ bóng xa xa. Một đêm, khi tôi không thể ngủ được vì tiếng mưa tí tách trên mái nhà, tôi bước vào phòng khách. Chúng tôi nhìn nhau không nói, và Julián mời tôi thuốc. Một lúc lâu, chúng tôi lặng lẽ nhìn cơn mưa. Sau đó, khi mưa thôi rơi, tôi hỏi anh ấy P là ai.

“Penélope,” anh ấy trả lời.

Tôi bảo anh kể về cô ấy, về mười bốn năm sống lưu vong ở Paris. Bằng giọng thì thầm, trong ánh sáng mờ nhạt nhòa, Julián bảo tôi Penélope là người phụ nữ duy nhất anh ấy yêu.

MỘT ĐÊM, VÀO MÙA ĐÔNG NĂM 1921, Irene Marceau bắt gặp Julián lang thang trên đường phố Paris, không thể nhớ nổi tên mình và đang ho ra máu. Anh chỉ có trong người vài xu lẻ và mấy tờ giấy gập chi chít chữ viết. Irene đọc chúng và nghĩ bà đang gặp một nhà văn nổi tiếng đang say rượu, và có lẽ một nhà xuất bản hào hiệp sẽ trả ơn bà khi anh tỉnh lại. Ít nhất thì đó là theo lời kể của bà, còn Julián biết bà cứu anh vì lòng thương. Anh ở sáu tháng trên căn phòng gác mái trong nhà thổ của Irene. Các bác sĩ cảnh báo Irene rằng nếu người đàn ông ấy tự đầu độc lần nữa, họ sẽ không chịu trách nhiệm. Anh ấy đã hủy hoại dạ dày và gan của mình, và suốt phần đời còn lại sẽ chỉ được uống sữa, ăn pho mát gạn kem và bánh mì mới. Khi Julián nói được trở lại, Irene hỏi anh ấy là ai.

“Không ai cả,” Julián trả lời.

“Chậc, ở đây chẳng ai ở không mà sống bằng tiền của tôi hết. Anh có thể làm được gì?”

Julián bảo anh có thể chơi dương cầm.

“Chứng minh xem nào.”

Julián ngồi xuống cây dương cầm ở sảnh, đối diện một đám khán giả chăm chú là những cô điếm mười lăm tuổi chỉ mặc mỗi đồ lót, rồi chơi một bản dạ khúc của Chopin. Tất cả mọi người đều vỗ tay, ngoại trừ Irene, bà bảo anh cái thứ bà vừa được nghe là loại nhạc cho người chết, mà họ thì đang làm ăn với người còn sống cơ. Julián cho bà nghe một giai điệu nhộn nhịp và vài khúc nhạc của Offenbach.

“Hay hơn đấy. Nhanh chút nữa.”

Công việc mới giúp anh đủ sống, có một mái nhà, và hai bữa ăn mỗi ngày.

Anh sống sót được ở Paris nhờ lòng hảo tâm của Irene, bà là người duy nhất động viên anh tiếp tục viết lách. Sách ưa thích của bà là tiểu thuyết diễm tình và tiểu sử các vị thánh và những đấng tuẫn đạo, mấy thể loại ấy vô cùng hấp dẫn bà. Theo ý bà, vấn đề của Julián là con tim anh đã bị đầu độc; ấy là lý do tại sao anh chỉ viết được những câu chuyện kinh dị và đen tối. Dù Irene có phản đối như vậy, song cũng chính nhờ bà mà Julián tìm được nhà xuất bản cho những tác phẩm đầu tiên của anh. Bà chính là người đã cho anh căn phòng áp mái để anh lẩn tránh khỏi thế giới, người đã mặc đồ cho anh và lôi anh ra ngoài hưởng chút ánh mặt trời và không khí trong lành, mua sách cho anh và bắt anh đi dự lễ mixa với bà vào mỗi Chủ nhật rồi sau đó tản bộ qua vườn Tuileries. Irene Marceau cưu mang anh mà không đòi hỏi anh đền đáp điều gì, ngoại trừ tình bạn của anh và lời hứa anh sẽ tiếp tục viết sách. Đôi khi bà cũng cho phép anh đưa một cô gái về phòng của anh, dù họ chỉ lên đấy ôm nhau ngủ. Irene cười đùa rằng các cô gái ấy cũng cô đơn như chính anh, và điều họ chỉ cần là một chút tình yêu.

“Hàng xóm của anh, ông Darcieu, nghĩ anh là gã phúc đức nhất trên đời,” anh ấy bảo tôi.

Tôi hỏi tại sao anh không bao giờ quay về Barcelona để tìm Penélope. Anh liền rơi vào một khoảng lặng dài, sâu, rồi khi tôi nhìn khuôn mặt anh trong bóng đêm, tôi thấy những giọt nước mắt chảy dài. Không biết mình đang làm gì, tôi quỳ xuống ôm lấy anh. Chúng tôi cứ như thế, ôm nhau, cho đến khi bị ánh ban mai bắt quả tang. Tôi không còn biết ai hôn ai trước, hay điều đó có quan trọng không. Tôi biết tôi đã tìm thấy đôi môi anh và để anh âu yếm tôi mà không nhận ra rằng chính tôi nữa cũng đang khóc mà không biết tại sao. Mờ sáng hôm ấy, và tất cả những ngày sau đó trong hai tuần tôi ở bên Julián, chúng tôi ân ái cùng nhau trên sàn nhà, không nói một lời. Sau này, khi ngồi trong quán cà phê hay tản bộ qua những con phố, tôi nhìn vào mắt anh và biết, dù không cần hỏi anh, rằng anh vẫn yêu Penélope. Tôi còn nhớ trong những ngày ấy tôi dần căm ghét cô gái mười bảy tuổi kia (vì với tôi Penélope luôn mười bảy) người tôi chưa bao giờ gặp mặt và giờ đây ám những giấc mơ của tôi. Tôi tìm cớ điện cho ông Cabestany kéo dài thời gian lưu trú. Tôi không còn bận tâm về chuyện mình có mất việc không hay về cuộc sống ảm đạm tôi đã bỏ lại ở Barcelona. Tôi thường tự vấn phải chăng tôi đã đến Paris với một cuộc đời trống rỗng như vậy và ngã vào vòng tay của Julián như những cô gái của Irene Marceau, những người khao khát thương yêu dù không hề tự biết. Tôi chỉ biết hai tuần sống cùng Julián là khoảng thời gian duy nhất trong đời tôi được là chính mình, ấy cũng chính là lúc tôi hiểu ra một cách rõ ràng và vô vọng điều không thể giải thích rằng tôi sẽ không bao giờ có thể yêu một người đàn ông khác như tôi yêu Julián, dù tôi có cố gắng cả đời.

Một ngày kia, Julián mệt mỏi thiếp đi trong vòng tay tôi. Chiều hôm trước, khi chúng tôi qua một hiệu cầm đồ, anh ấy dừng lại chỉ cho tôi xem một cây bút máy đã bày ở đó nhiều năm. Theo ông chủ hiệu cầm đồ, cây bút từng thuộc về Victor Hugo, Julián chưa bao giờ có tiền, dù chỉ một phần nhỏ, để mua cây bút ấy, nhưng anh dừng lại ngắm nhìn nó mỗi ngày. Tôi lặng lẽ mặc đồ và bước xuống hiệu cầm đồ. Cây bút đáng giá cả gia tài, mà tôi không có, nhưng ông chủ hiệu bảo ông chấp nhận séc bằng đồng peso của bất cứ ngân hàng Tây Ban Nha nào có chi nhánh ở Paris. Trước khi mẹ tôi mất, bà đã hứa dành đủ tiền mua cho tôi chiếc váy cưới. Cây bút của Victor Hugo sẽ thay cho nó, cả mạng che mặt và mọi thứ, dù biết thật là điên rồ, nhưng tôi chưa bao giờ tiêu một số tiền lớn nào mà lại cảm thấy thỏa lòng như vậy. Khi rời cửa hiệu với hộp bút đẹp đẽ, tôi nhận ra một người phụ nữ đang theo tôi. Đó là một phụ nữ tao nhã, với mái tóc ánh bạc và cặp mắt xanh biếc nhất tôi từng thấy. Bà bước đến chỗ tôi và tự giới thiệu. Bà là Irene Marceau, người bảo trợ của Julián. Hervé, cậu bé hướng dẫn viên, đã kể với bà về tôi. Bà chỉ muốn gặp tôi hỏi xem tôi có phải người phụ nữ mà Julián chờ đợi từng ấy năm không. Tôi không buộc phải trả lời. Irene gật đầu đồng cảm rồi hôn lên má tôi. Tôi nhìn bà bước đi dọc phố, và lúc ấy tôi hiểu ra Julián sẽ không bao giờ thuộc về tôi. Tôi quay về căn gác mái với cái hộp bút giấu trong túi xách. Julián đã thức chờ tôi. Anh lặng lẽ cởi đồ tôi ra, và chúng tôi ái ân lần cuối. Khi anh ấy hỏi tại sao tôi khóc, tôi bảo anh đó là những giọt nước mắt vui sướng. Lát sau, khi Julián xuống mua đồ ăn, tôi gói ghém đồ đạc và đặt hộp bút lên máy đánh chữ của anh ấy. Tôi cho bản thảo cuốn tiểu thuyết của anh ấy vào túi xách rồi ra đi trước khi anh quay lại. Ngoài chiếu nghỉ, tôi gặp ông Darcieu, ông thầy bói già chuyên đọc chỉ tay của các thiếu nữ để đổi lấy một nụ hôn. Ông nắm tay tôi rồi nhìn tôi ảo nảo.

“Vous aves du poison au coeur, mademoiselle*.”

Trái tim cô đã nhiễm độc, cô gái ạ.

Khi tôi cố trả công, ông lắc đầu nhè nhẹ, và chính ông hôn bàn tay tôi.

TÔI ĐẾN NHÀ GA AUSTERLITZ kịp bắt chuyến tàu mười hai giờ đi Barcelona. Người soát vé đã bán vé cho tôi hỏi tôi có làm sao không. Tôi gật đầu và chui vào toa. Tàu đã chuyển bánh khi tôi nhìn ra cửa sổ và thoáng thấy Julián trên sân ga, ngay tại nơi tôi lần đầu gặp anh. Tôi nhắm mắt lại, và không mở mắt cho đến khi không còn thấy nhà ga và thành phố đầy mê hoặc ấy nơi tôi không bao giờ có thể quay lại. Hôm sau tàu đến Barcelona, khi trời vừa hửng sáng. Đó là sinh nhật thứ hai mươi tư của tôi, và tôi biết phần đời đẹp nhất của mình đã bị bỏ lại đằng sau.

46

SAU KHI TRỞ VỀ BARCELONA, tôi đợi một thời gian trôi qua mới đến thăm Miquel Moliner. Tôi cần xua Julián ra khỏi đầu mình, và tôi nhận ra nếu Miquel hỏi tôi về anh ấy, tôi sẽ không biết phải nói sao đây. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi không cần kể gì cho anh. Miquel chỉ cần nhìn vào mắt tôi là biết. Trông anh gầy hơn trước chuyến đi Paris của tôi; khuôn mặt anh xanh xao yếu ớt, mà tôi cứ đổ cho vì anh làm nhiều việc quá để hành hạ bản thân. Anh thừa nhận đang gặp khó khăn về tài chính. Anh đã tiêu gần hết số tiền thừa kế cho những mục đích nhân đạo, và giờ luật sư của các anh trai anh đang tìm cách tống anh ra khỏi nhà, viện dẫn một điều khoản trong di chúc của ông cụ Moliner nêu rõ anh chỉ có thể sống ở đó nếu giữ gìn căn nhà trong điều kiện tốt và có thể chứng minh là anh có đủ nguồn tài chính sửa sang ngôi nhà. Nếu không, dinh thự Puertaferissa sẽ được chuyển giao cho các anh em của anh quản lý.

“Thậm chí trước khi chết, cha anh đã cảm thấy rằng anh sẽ tiêu hết tiền của ông ấy vào những thứ mà ông kinh tởm nhất đời, tiêu đến đồng xu cuối cùng.”

Thu nhập của anh ấy từ viết chuyên mục trên báo và làm dịch giả không đủ trang trải cho công việc bảo trì như vậy.

“Bản thân chuyện kiếm tiền không khó,” anh than phiền. “Cái khó là kiếm được tiền bằng công việc nào xứng đáng cho mình cống hiến cả cuộc đời.”

Tôi ngờ anh bắt đầu lén lút uống rượu. Đôi khi tay anh run run. Mỗi Chủ nhật, tôi đến thăm anh và lôi anh ra phố, tránh xa khỏi cái bàn và bộ sách bách khoa của anh. Tôi biết anh đau đớn mỗi khi nhìn thấy tôi. Anh cư xử như không còn nhớ anh đã cầu hôn tôi và tôi đã khước từ, nhưng nhiều lần tôi bắt gặp anh nhìn chằm tôi với ánh mắt khát khao xen lẫn thảm bại. Lý do duy nhất của tôi buộc anh phải chịu sự tàn nhẫn như vậy hoàn toàn ích kỷ: chỉ Miquel biết sự thật về Julián và Penélope Aldaya.

Trong những tháng tôi xa Julián, Penélope Aldaya đã trở thành bóng ma đánh cắp giấc ngủ và chiếm trọn suy nghĩ của tôi. Tôi có thể vẫn nhớ vẻ thất vọng trên khuôn mặt Irene Marceau khi bà nhận ra tôi không phải là người phụ nữ Julián chờ đợi. Penélope Aldaya, người vắng mặt ngoan trá, là một kẻ địch quá mạnh với tôi. Cô ấy vô hình, nên tôi mường tượng cô ấy hoàn hảo. Cạnh cô ấy, tôi vô giá trị, tầm thường, quá trần trụi. Tôi chưa bao giờ nghĩ có thể căm ghét ai đó đến nhường ấy một cách vô thức đến vậy – căm ghét người tôi thậm chí còn không quen biết, người cả đời chưa bao giờ gặp. Thiết tưởng nếu tôi gặp trực diện cô ấy, nếu tôi có thể đoán chắc với mình rằng cô ấy hiện hữu bằng xương bằng thịt, thì lời nguyền sẽ bị phá bỏ và Julián sẽ được tự do. Và tôi sẽ được ở bên anh ấy. Tôi muốn tin đấy chỉ là vấn đề thời gian và kiên nhẫn mà thôi. Sớm hay muộn, Miquel sẽ cho tôi biết sự thật. Và sự thật sẽ giải phóng tôi.

Một ngày, khi chúng tôi đang rảo bước qua hành lang nhà thờ, Miquel một lần nữa tỏ tình ý với tôi. Tôi nhìn anh và thấy một người cô đơn, trống vắng hy vọng. Tôi biết mình đang làm gì khi dẫn anh về nhà và thả mình theo những vuốt ve mơn trớn của anh. Tôi biết tôi đang lừa dối anh, và anh cũng biết, nhưng anh không còn gì khác trên đời này. Chúng tôi đã trở thành tình nhân như vậy, những tình nhân vô vọng. Tôi thấy trong mắt anh điều tôi hằng muốn được thấy trong mắt Julián. Tôi cảm thấy rằng bằng cách hiến dâng mình cho anh, tôi đang trả thù Julián và Penélope và trả thù tất cả những gì đã chối bỏ tôi. Miquel, vẫn đang ốm yếu vì khao khát và cô đơn, biết rằng tình yêu của chúng tôi là một trò giả dối, dù vậy anh không thể buông tôi. Càng ngày anh càng uống nhiều hơn và thường không thể ân ái với tôi. Lúc ấy anh sẽ mỉa mai cay đắng rằng, rốt cuộc, chúng tôi đã trở thành một cặp vợ chồng hoàn hảo trong một thời gian ngắn kỷ lục. Chúng tôi đang gây tổn thương cho nhau bằng lòng căm thù và sự hèn nhát. Một đêm, gần một năm sau khi tôi từ Paris trở về, tôi đã cầu xin anh kể tôi nghe sự thật về Penélope, Miquel lúc ấy đang trong cơn say, và anh trở nên hung hãn, chưa bao giờ tôi thấy anh như vậy. Trong cơn cuồng nộ, anh nhục mạ và cáo buộc tôi chưa bao giờ yêu anh ấy, là một con điếm dâm loàn. Anh xé toạc quần áo tôi, và khi anh đang cố lên người tôi, tôi nằm xuống, hiến dâng thân thể mình không chút kháng cự, khóc thầm. Miquel quỳ xuống cầu xin tôi tha thứ. Tôi ước làm sao mình có thể yêu anh chứ không phải yêu Julián, và có thể lựa chọn ở bên cạnh anh. Nhưng tôi không thể. Chúng tôi ôm nhau trong bóng tối, và tôi cầu xin anh tha thứ cho mọi nỗi đau tôi gây ra. Rồi anh bảo tôi, nếu với tôi chuyện ấy quá quan trọng, anh sẽ kể sự thật về Penélope Aldaya. Lại một sai lầm nữa của tôi.

Ngày Chủ nhật năm 1919 ấy, khi Miquel Moliner ra sân ga đưa cho bạn mình tấm vé đi Paris và tiễn bạn, anh đã biết Penélope sẽ không đến hẹn. Hai ngày trước, khi Don Ricardo Aldaya từ Madrid trở về, vợ ông ta thú nhận bà đã bắt quả tang Julián và con gái Penélope của họ trong phòng cô bảo mẫu. Ngày hôm sau Jorge Aldaya đã tiết lộ cho Miquel, và bắt anh thề không được kể với ai. Jorge giải thích, khi hay tin, Don Ricardo đã bừng bừng giận dữ thế nào và tức tốc lên phòng Penélope chửi rủa như một kẻ điên. Khi nghe tiếng gào thét của cha, Penélope khóa trái cửa phòng và khóc lóc trong khiếp sợ. Don Ricardo đạp đổ cửa và thấy con gái đang quỳ gối, run rẩy cầu xin tha thứ. Don Ricardo tát vào mặt cô mạnh đến nỗi cô ngã sóng soài. Đến Jorge cũng không thể nhắc lại những lời Don Ricardo tuôn ra trong cơn cuồng nộ. Mọi người trong gia đình và kẻ ăn người ở chờ nơi tầng dưới khiếp đảm, không biết phải làm gì. Jorge trốn trong phòng, trong bóng tối, nhưng thậm chí ở đó anh ta cũng có thể nghe tiếng la hét chửi rủa của Don Ricardo. Jacinta bị đuổi ngay hôm ấy. Don Ricardo còn không thèm hạ cố nhìn bà. Ông lệnh cho kẻ hầu ném bà ra khỏi nhà và dọa họ sẽ chịu chung số phận nếu bất cứ ai có liên hệ gì với bà ấy.

Khi Don Ricardo xuống thư viện thì đã nửa đêm. Ông ta bỏ Penélope bị khóa trái trong phòng của Jacinta và nghiêm cấm mọi người, dù là nhân viên hay gia đình, được gặp cô ấy. Trong phòng mình, Jorge có thể nghe cha mẹ nói chuyện ở tầng dưới. Bác sĩ đến ngay từ sáng sớm. Señora Aldaya dẫn ông ta vào phòng Jacinta và đứng chờ ngoài cửa trong khi bác sĩ khám cho Penélope. Khi bước ra, bác sĩ chỉ gật đầu và nhận tiền. Jorge nghe Don Ricardo đe bác sĩ rằng nếu ông ta kể cho bất cứ ai điều nhìn thấy ở đấy, danh tiếng của ông ta sẽ bị hủy hoại và ông ta sẽ không bao giờ có thể hành nghề y được nữa. Ngay đến Jorge cũng biết thế có nghĩa là gì.

Jorge thú nhận anh ta rất lo cho Penélope và Julián. Anh ta chưa bao giờ thấy cha mình phẫn nộ đến như vậy. Kể cả xét đến cái tội lỗi đôi tình nhân ấy đã làm, thì anh ta cũng không thể hiểu độ mãnh liệt của cơn cuồng nộ ấy. Hẳn phải có gì khác, anh ta nói, có gì đó khác. Don Ricardo đã lệnh trường San Gabriel tống cổ Julián và liên lạc với cha anh, ông bán mũ, về việc cho anh nhập ngũ ngay lập tức. Khi Miquel nghe toàn bộ chuyện này, anh quyết định không kể cho Julián sự thật. Nếu anh tiết lộ cho Julián rằng Don Ricardo nhốt Penélope ở nhà, và cô hẳn đang mang đứa con của anh ấy, Julián sẽ không bao giờ bắt chuyến tàu đi Paris kia. Anh biết rằng nếu bạn mình vẫn ở lại Barcelona, đó sẽ là dấu chấm hết cho Julián. Nên anh quyết định lừa dối bạn, để anh ấy đi Paris không biết chuyện xảy ra; anh để cho anh ấy nghĩ rằng Penélope sẽ sang với anh ấy sau. Khi nói lời từ biệt Julián ngày hôm ấy ở nhà ga Francia, thậm chí Miquel cũng muốn tin rằng chưa phải tất cả đã mất.

Vài ngày sau, khi phát hiện Julián biến mất, mọi việc trở nên rối loạn. Don Ricardo Aldaya nổi trận lôi đình. Ông ta điều đến nửa sở cảnh sát truy tìm kẻ lẩn trốn, nhưng không thành. Ông ta cáo buộc ông bán mũ phá hoại kế hoạch họ đã thỏa thuận và đe dọa sẽ cho ông tán gia bại sản. Ông bán mũ, không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra, bèn quay sang cáo buộc vợ mình, bà Sophie, đã lập mưu tẩu thoát cho đứa con hèn hạ kia và hăm dọa tống bà ra khỏi nhà. Chẳng hề ai ngờ chính Miquel Moliner mới là người lên kế hoạch mọi chuyện – ngoại trừ Jorge Aldaya, người đã đến gặp anh hai tuần sau. Anh ta không còn cái vẻ sợ hãi và lo lắng đã xâm chiếm anh ta như trước. Đây là một Jorge Aldaya khác, một người trưởng thành đã bị tước đoạt hết mọi ngây thơ. Cho dù sự thật ra sao đằng sau cơn phẫn nộ của Don Ricardo, Jorge cũng đã tìm ra. Lý do của cuộc viếng thăm thật rõ ràng: anh ta biết Miquel là người đã giúp Julián bỏ trốn. Anh ta bảo tình bạn của họ đã chấm dứt, rằng anh ta không muốn nhìn thấy anh nữa, và đe dọa sẽ giết anh nếu anh kể cho bất kỳ ai điều anh ta đã tiết lộ hai tuần trước.

Vài tuần sau, Miquel nhận được một bức thư, với tên người gửi mạo danh, do Julián gửi từ Paris. Trong thư, anh ấy cho anh địa chỉ, bảo rằng anh ấy vẫn khỏe và rất nhớ bạn, và gửi lời thăm hỏi đến mẹ và Penélope. Anh ấy cũng gửi kèm một bức thư cho Penélope, mà Miquel sẽ phải gửi đi từ Barcelona, thư đầu tiên trong rất nhiều bức thư Penélope không bao giờ được xem. Miquel thận trọng chờ vài tháng trôi qua. Anh viết cho Julián mỗi tuần một lần, chỉ nói những điều anh cảm thấy phù hợp, vốn gần như chẳng có gì. Julián, ngược lại, kể cho anh về Paris, về mọi sự khó khăn thế nào, anh ấy cảm thấy cô đơn và vô vọng ra sao. Miquel gửi cho anh ấy tiền, sách vở, và tình bạn. Trong mỗi bức thư, Julián đều gửi kèm một bức nữa cho Penélope. Miquel gửi chúng từ các bưu điện khác nhau, dù anh biết việc ấy vô ích. Trong thư, Julián không ngớt hỏi về Penélope nhưng Miquel không thể kể được gì. Anh biết, nhờ Jacinta, rằng Penélope chưa rời ra khỏi căn nhà trên Đại lộ Tibidabo kể từ khi cha cô khóa cửa giam cô trong căn phòng trên tầng ba.

Một buổi tối, Jorge Aldaya nấp trong bóng đen đợi Miquel, cách nhà anh chừng hai dãy phố. “Cậu đến giết tôi à?” Miquel hỏi. Jorge bảo anh ta đến ban cho Miquel và bạn anh một ân huệ. Anh ta đưa cho Miquel một bức thư và khuyên anh nên gửi đến tay Julián, dù anh ấy có lẩn trốn nơi đâu. “Vì mọi người,” anh ta tuyên bố đầy điềm gở. Trong phong thư là tờ giấy có chữ viết tay của Penélope Aldaya.

Julián thân mến,

Tôi viết dòng này báo anh biết đám cưới sắp tới của tôi và cầu xin anh đừng viết cho tôi nữa, hãy quên tôi đi và xây dựng lại cuộc đời. Tôi không oán hận gì anh cả, nhưng sẽ là không chân thành nếu tôi không thú nhận rằng tôi chưa bao giờ yêu anh và sẽ không bao giờ có thể yêu được. Chúc anh những gì tốt đẹp nhất, dù anh ở nơi đâu.

Penélope

***

Miquel đọc đi đọc lại lá thư hàng ngàn lần. Chữ viết tay không thể nhầm lẫn được, nhưng anh không tin dù chỉ một chút rằng Penélope tự nguyện viết bức thư ấy: “... dù anh ở nơi đâu.” Penélope biết rất rõ Julián ở đâu: Paris, đang chờ đợi cô ấy. Nếu cô ấy vờ như không biết anh ấy ở đâu, Miquel ngẫm nghĩ, thì đó là để bảo vệ anh ấy. Cũng vì lý do ấy, Miquel không thể hiểu điều gì xui khiến cô viết những lời kia. Còn mối đe dọa nào nữa mà Don Ricardo mang lại cho cô, hơn cả việc nhốt cô như một tù nhân nhiều tháng ròng trong căn phòng kia? Hơn bất kỳ ai, Penélope biết bức thư ấy như một con dao tẩm độc đối với trái tim Julián: một thanh niên mười chín, lưu lạc ở một thành phố xa xôi và lạ lẫm, bị tất cả bỏ mặc, sinh tồn chỉ để hy vọng hão huyền sẽ được gặp lại cô ấy. Điều gì khiến cô muốn bảo vệ anh ấy bằng cách đẩy anh ấy rời xa như vậy? Sau nhiều suy xét, Miquel quyết định không gửi bức thư. Không, chừng nào anh chưa biết lý do. Không có một lý do thuyết phục, thì chính anh mới là người cắm con dao ấy vào tâm hồn bạn mình.

Vài ngày sau, anh phát hiện ra Don Ricardo Aldaya, mệt mỏi vì cứ phải thấy Jacinta đứng chờ như lính gác trước cửa nhà mình hòng cầu xin được biết tin Penélope, đã sử dụng mối quen biết để đưa bà vào nhà thương điên Horta. Khi Miquel Moliner cố đi gặp bà, người ta không cho anh vào thăm. Ba tháng đầu tiên Jacinta Coronado phải chịu cảnh ở trong phòng giam biệt lập. Sau ba tháng trong lặng câm và bóng tối, anh được một bác sĩ – một người trẻ tuổi vui tính – cho biết rằng yêu cầu đưa bệnh nhân vào viện đã được đảm bảo. Theo linh cảm, Miquel quyết định đến khu nhà trọ nơi Jacinta ở sau khi bị đuổi. Khi anh tự giới thiệu tên, bà chủ nhà nhớ ra Jacinta đã để lại cho anh một bức thư và vẫn nợ bà ta ba tháng tiền nhà. Anh trả số tiền nợ, dù không mấy tin là chuyện ấy có thực, và nhận bức thư. Trong thư, bà bảo mẫu giải thích bà nghe được tin rằng Laura, một trong những người hầu nhà Aldaya, đã bị đuổi việc khi bị phát hiện cô ta lén lút gửi thư của Penélope cho Julián. Miquel suy ra rằng địa chỉ duy nhất mà Penélope, đương lúc bị giam cầm, có thể gửi bức thư ấy chính là nhà cha mẹ Julián trên phố San Antonio, hy vọng họ sẽ gửi đến cho anh ấy ở Paris.

Thế là anh quyết định đến thăm Sophie Carax để lấy bức thư và chuyển cho Julián. Khi đến nhà Fortuny, Miquel gặp phải một bất ngờ không vui: Sophie Carax không còn sống ở đó nữa. Vài ngày trước bà đã bỏ ông chồng – ít nhất thì tin đồn lan trong khu nhà như vậy. Miquel đành cố nói chuyện với ông bán mũ, ông ta cả ngày thui thủi trong cửa hàng, bị tàn phá bởi lòng căm giận và nỗi ô nhục. Miquel bảo ông ta rằng anh đến để nhận bức thư hẳn đã chuyển đến cho con trai ông, Julián, vài ngày trước.

“Tao không có con” là câu trả lời duy nhất anh nhận được.

Miquel Moliner bỏ đi không biết bức thư đang tìm đã rơi vào tay người bảo vệ và nhiều năm sau này cậu, Daniel ạ, tìm thấy nó và đọc những lời Penélope dành cho Julián, lần này là chính từ trái tim cô ấy: những lời anh ấy không bao giờ nhận được.

Khi Miquel rời cửa hàng mũ Fortuny, một người sống trong nhà, tự xưng là Viçenteta, đến hỏi có phải anh tìm Sophie. Miquel xác nhận và bảo anh là bạn của Julián.

Viçenteta cho anh biết Sophie đang ở tại một nhà khách ẩn trong khu phố nhỏ sau tòa nhà bưu điện, đang chờ khởi hành trên con tàu sẽ mang bà sang châu Mỹ. Miquel đến địa chỉ ấy, nơi anh thấy một cầu thang nhỏ hẹp, tồi tàn, hầu như thiếu ánh sáng và không khí. Trên đỉnh cầu thang xoắn ốc, anh tìm thấy Sophie Carax, trong một căn phòng tầng bốn, tối tăm, ẩm dột. Mẹ của Julián đang nhìn ra cửa sổ, ngồi bên mép cái giường tạm bợ, cùng hai chiếc va li đóng kín nằm như những cỗ quan tài chứa hai mươi năm của bà ở Barcelona.

Khi đọc bức thư có chữ ký của Penélope mà Jorge Aldaya đã chuyển đã cho Miquel, Sophie tuôn ra những giọt lệ giận căm.

“Con bé biết,” bà lẩm bẩm. “Tội nghiệp con bé, nó biết rồi...”

“Biết gì ạ?” Miquel hỏi.

“Là lỗi của ta,” Sophie nói. “Lỗi của ta.”

Miquel cầm tay bà, anh không hiểu. Sophie không dám nhìn thẳng vào mắt anh.

“Julián và Penélope là anh em,” bà thầm thì.

47

NHIỀU NĂM TRƯỚC KHI TRỞ THÀNH NÔ LỆ cho nhà Antoni Fortuny, Sophie Carax là một phụ nữ sống nhờ vào tài năng. Năm mới mười chín tuổi, bà đến Barcelona mong tìm một công việc hứa hẹn, điều không bao giờ trở thành hiện thực. Trước khi chết, cha bà đã xin được những lời giới thiệu cần thiết để bà vào làm việc cho nhà Benarens, một gia đình phong lưu làm nghề buôn bán, xuất thân từ Alsace, đã xây dựng được cơ ngơi ở Barcelona.

“Khi bố chết, con hãy đến nhà họ, rồi họ sẽ coi con như con gái trong nhà,” ông nài nỉ con gái.

Sự chào đón nồng hậu bà nhận được cũng là một phần của rắc rối. Ông Benarens quả thật đã đón tiếp bà với vòng tay rộng mở - quá rộng mở, theo ý bà vợ. Bà Benarens cho Sophie một trăm peso và đuổi ra khỏi nhà, không hề tỏ chút thương xót cho bà và vận hạn của bà.

“Mày có cả cuộc đời phía trước, còn tao chỉ có một lão chồng xấu xa, dâm dật.”

Một trường nhạc trên phố Diputación đã nhận Sophie vào làm gia sư dạy nhạc và đàn dương cầm. Vào thời ấy, các cô gái con nhà khá giả được dạy dỗ cách giao tiếp ứng xử và bập bõm nhạc đàn cho những dịp đến chốn tiệc tùng giao lưu, nơi mà những điệu polonaise được cho là đỡ nguy hại hơn so với chuyện trò hay văn chương đáng ngờ. Vậy nên Sophie Carax bắt đầu lui tới các dinh thự, nơi những cô hầu cứng nhắc và câm lặng sẽ dẫn bà vào phòng nhạc. Ở đó những đứa trẻ khó bảo con các nhà quý tộc công nghiệp đang chờ bà đến, cười nhạo trước giọng nói, sự bẽn lẽn hay địa vị thấp hèn của bà – dẫu bà có thể đọc nhạc, thì cũng chẳng thay đổi được gì. Dần dần, Sophie biết tập trung vào số nhỏ những học sinh vượt lên khỏi vị trí loài sâu mọt bọc hương, và biết cách quên đi những đứa còn lại.

Trong thời gian này, Sophie gặp một thợ làm mũ trẻ tuổi (vì ông ta thích gọi như vậy, với niềm tự hào nghề nghiệp) tên là Antoni Fortuny, người dường như quyết tâm theo đuổi bà, với bất cứ giá nào. Antoni Fortuny, người mà Sophie cảm nhận một tình bạn nồng ấm và chỉ thế thôi, không mất nhiều thời gian để ngỏ lời cầu hôn bà, một lời cầu hôn mà Sophie từ chối – và tiếp tục từ chối, hàng chục lần mỗi tháng. Mỗi khi họ tạm biệt nhau, Sophie hy vọng bà không gặp ông ta nữa, vì bà không muốn làm ông ta tổn thương. Ông bán mũ, bất chấp những lần chối từ, vẫn giữ thế tấn công, vẫn mời bà đi nhảy, đi dạo bộ, hay uống ly sô cô la nóng ăn cùng bánh bích quy trên phố Canuda. Cô đơn ở Barcelona, Sophie thấy thật khó cưỡng lại lòng nhiệt tình của ông ta, sự bầu bạn của ông, sự tận tâm của ông. Bà chỉ cần nhìn vào Antoni Fortuny là biết bà không bao giờ có thể yêu ông ta được. Không yêu theo cách bà mơ ước sẽ yêu một người. Nhưng bà thấy thật khó xóa bỏ cái hình ảnh về bản thân mà bà nhìn thấy được phản chiếu trong đôi mắt mê cuồng của ông bán mũ. Chỉ trong đôi mắt ấy, bà mới thấy cô Sophie bà mong ước trở thành.

Thành thử, do nhu cầu hoặc do yếu đuối, Sophie tiếp tục vui thỏa cuộc săn đón của ông bán mũ, với niềm tin sẽ có một ngày ông ta gặp được một cô gái đáp lại tình cảm của ông ta và cuộc đời ông ta sẽ nhận được nhiều hơn... Trong lúc ấy, được ham muốn và được nâng niu là đủ làm vơi đi nỗi cô đơn và niềm mong mỏi đối với mọi thứ bà bỏ lại đằng sau. Bà gặp Antoni vào các ngày Chủ nhật, sau lễ mixa. Những ngày còn lại bà bận bịu với những buổi dạy nhạc. Học trò yêu thích của bà là một cô bé tên Ana Valls, con gái của một nhà sản xuất máy dệt phát đạt, ông ta xây nên cơ nghiệp từ con số không, nhờ những nỗ lực và hy sinh lớn lao, mà hầu hết là của kẻ khác. Ana bày tỏ ước muốn trở thành một nhà soạn nhạc vĩ đại và thường bắt Sophie lắng nghe những đoạn nhạc cô bé sáng tác, học theo những mô típ của Grieg và Schumann – không phải không có kỹ thuật. Dù ông Valls tin là phụ nữ không có khả năng làm được gì ngoài mấy thứ thêu thùa may vá, ông ta vẫn ủng hộ con gái nghệ sĩ tài năng trên những phím đàn, vì ông ta đã sắp đặt gả con mình cho người thừa kế một dòng họ danh giá nào đấy. Ông ta biết rằng những người cao sang thích khám phá những phẩm chất khác thường ở các cô gái đến tuổi lấy chồng, bên cạnh sự hiền thục và mắn đẻ của tuổi xuân.

Chính ở nhà ông Valls mà Sophie đã gặp một trong những ân nhân và là bố già tài chính vĩ đại nhất của ông Valls. Don Ricardo Aldaya, người thừa kế của đế chế Aldaya, lúc ấy đã là niềm hy vọng sáng ngời của tập đoàn đầu sỏ xứ Catalan vào cuối thế kỷ. Mới vài tháng trước, Don Ricardo Aldaya đã thành hôn một người thừa kế giàu có, một vầng nhan sắc sững sờ với cái tên rất khó đọc, ấy là theo lời những kẻ ngồi lê đôi mách, mặc dù ông chồng mới cưới dường như không thấy chút sắc đẹp gì ở bà ta và chưa bao giờ thèm nhắc đến tên bà ta. Đó là cuộc hôn nhân được sắp xếp giữa các gia đình và ngân hàng, không hề có chút tình cảm vớ vẩn gì ở đây, ông Valls nói, vì ông ta hiểu rõ một đằng là chuyện trên giường còn đằng kia là chuyện cái đầu.

Sophie chỉ cần một thoáng trao ánh mắt với Don Ricardo Aldaya cũng đủ biết bà đã bị đánh gục. Aldaya có cặp mắt sói, háu đói và sắc sảo, cặp mắt của người đàn ông biết phải tấn công lúc nào và ở đâu. Ông hôn tay bà chầm chậm, đầu môi mơn trớn những khấc tay. Ở ông bán mũ toát lên vẻ ân cần và nồng ấm, thì Don Ricardo phát ra sự tàn nhẫn và quyền uy. Nụ cười nanh ác tỏ rõ rằng ông ta có thể đọc suy nghĩ và khao khát của bà và thấy chúng thật nực cười. Cảm giác của Sophie về ông ta là kiểu khinh thường bị đánh thức trong lòng ta bởi những điều ta khao khát nhất nhưng không hề hay biết. Bà ngay lập tức tự nhủ sẽ không gặp ông ta nữa, sẽ thôi dạy cô học sinh yêu quý của mình nếu đó là cần thiết để tránh sự đụng độ nào nữa với Ricardo Aldaya trong tương lai. Chưa bao giờ có gì khiến bà sợ hãi đến vậy khi cảm nhận cái bản tính thú vật ấy dưới lớp da thịt mình, bản năng của con mồi nhận ra kẻ ăn thịt đang khoác lớp vải áo tinh tế. Bà chỉ mất vài giây bịa ra một cái cớ vụn vặt để rời phòng, trước sự bối rối của ông Valls, sự thích thú của Aldaya, và sự thất vọng của Ana bé nhỏ, cô bé hiểu con người còn hơn hiểu âm nhạc, và cô bé biết mình đã mất cô giáo rồi.

Một tuần sau Sophie gặp Don Ricardo Aldaya đang đợi bà ở cổng trường nhạc trên phố Diputación, đang hút thuốc và lật giở trang báo. Họ liếc nhìn nhau, và không nói một lời, ông ta dẫn bà đến một tòa nhà cách đó hai dãy phố. Đó là một tòa nhà mới xây, vẫn chưa có người ở. Họ lên tầng hai. Don Ricardo mở cửa và đẩy bà vào. Sophie vào căn hộ, một mê cung những hành lang và phòng ốc, không có đồ đạc, tranh ảnh, đèn đóm, hay bất cứ vật dụng nào khác cho thấy đó là một chốn để ở. Don Ricardo Aldaya đóng cửa, và họ nhìn nhau.

“Cả tuần nay anh không thôi nghĩ về em. Nếu em bảo rằng em không hề nghĩ đến anh, anh sẽ để em đi, và em sẽ không bao giờ gặp anh nữa,” Ricardo nói.

Sophie lắc đầu.

Những cuộc hẹn bí mật của họ kéo dài chín mươi sáu ngày. Họ gặp nhau vào các buổi chiều, luôn ở trong một căn hộ trống ở góc phố giữa Diputación và Rambla de Catalua. Thứ Ba và thứ Năm, lúc ba giờ. Những cuộc hẹn hò không bao giờ kéo dài quá một tiếng đồng hồ. Đôi khi Sophie nằm trên giường một mình, lúc này Aldaya đã đi khỏi, bà khóc lóc và run rẩy trong góc phòng ngủ. Rồi, khi Chủ nhật đến, Sophie tuyệt vọng nhìn vào đôi mắt ông bán mũ để tìm kiếm dấu vết của người phụ nữ đang dần biến mất, đang mong mỏi cả sự hiến dâng lẫn sự lừa gạt. Ông bán mũ không thấy những dấu vết trên da bà, những vết xước và bỏng chi chít trên cơ thể bà. Ông bán mũ không thấy sự tuyệt vọng trong nụ cười của bà, trong sự ngoan ngoãn của bà. Ông bán mũ không thấy gì hết. Có lẽ vì lý do ấy, bà đã nhận lời hứa hôn của ông ta. Lúc ấy, bà đã ngờ mình đang mang thai đứa con của Aldaya, nhưng sợ không dám nói, cũng như sợ đánh mất ông ta. Một lần nữa, chính Aldaya đã nhìn thấy ở Sophie điều bà không đủ khả năng thừa nhận. Ông ta đưa bà năm trăm peso cùng một địa chỉ ở phố Platería và lệnh cho bà phá bỏ đứa bé. Sophie từ chối. Don Ricardo Aldaya tát cho đến khi tai bà chảy máu, rồi đe dọa sẽ cho người giết bà nếu bà dám nhắc đến những cuộc hẹn bí mật của họ hay thừa nhận rằng đứa con là của ông ta. Khi Sophie bảo ông bán mũ rằng bà bị bọn côn đồ hành hung tại Quảng trường Pino, ông đã tin bà. Khi bà bảo rằng bà muốn làm vợ ông, ông tin bà. Vào ngày cưới, có ai đó sơ xuất gửi vòng hoa tang đến nhà thờ. Mọi người cười cợt một cách bồn chồn khi họ thấy đó là lỗi của người bán hoa. Tất cả mọi người, trừ Sophie, bà biết quá rõ Don Aldaya không quên ngày cưới của bà.

48

SOPHIE CARAX KHÔNG BAO GIỜ TƯỞNG TƯỢNG NỔI rằng nhiều năm sau này bà sẽ gặp lại Ricardo (giờ đã là một người đàn ông trưởng thành, đứng đầu một đế chế gia đình, và cha của hai đứa con), và ông ta quay lại để gặp đứa con trai ông đã muốn phá bỏ với năm trăm peso.

“Có lẽ vì anh đang già đi,” ông ta giải thích, “nhưng anh muốn biết đứa bé này và cho nó những cơ hội trong đời mà đứa con mang dòng máu anh xứng đáng được hưởng. Suốt những năm qua anh không mảy may nghĩ đến nó, thế mà giờ đây, thật lạ lùng, anh lại không thể nghĩ đến điều gì khác.”

Ricardo Aldaya đã quả quyết rằng không thể tìm thấy bản thân mình trong đứa con đầu lòng, Jorge. Thằng bé thật yếu đuối, dè dặt, và thiếu tính kiên định của cha nó. Nó thiếu mọi thứ, ngoại trừ cái họ. Một ngày kia, Don Ricardo thức dậy trên giường một cô hầu mà cảm thấy rằng cơ thể mình đang già đi, rằng Chúa đã lấy đi sự ban phước của Người. Kinh hoảng, ông ta chạy đến nhìn mình trần truồng trong gương, và tưởng như tấm gương đang lừa dối. Người đàn ông kia không phải Ricardo Aldaya.

Giờ ông ta muốn tìm lại con người đã bị đánh cắp trong mình. Nhiều năm qua, ông ta đã nghe nói đến con trai người bán mũ. Ông ta không quên Sophie, theo cách của ông ta. Don Ricardo Aldaya không bao giờ quên điều gì. Đã đến lúc phải gặp thằng bé. Lần đầu tiên trong mười lăm năm, ông ta mới gặp một người không sợ ông ta, một người dám thách thức và thậm chí cười nhạo ông. Ông ta nhận thấy lòng can đảm ở đứa bé, một khát vọng thầm lặng mà những kẻ khờ khạo không thể nhìn thấy, nhưng nó tồn tại ở đó ngay từ đầu. Chúa đã mang lại tuổi xuân cho ông ta. Sophie, nay chỉ còn là bóng mờ của người đàn bà ông còn nhớ, thậm chí còn không đủ sức mạnh xen vào giữa họ. Ông bán mũ chỉ là một tên hề, một kẻ quê mùa cục mịch, đầy nanh ác và hằn học, mà Aldaya có thể dùng tiền mua chuộc lấy sự đồng lõa. Ông ta quyết định lôi Julián ra khỏi cái thế giới ngột ngạt tầm thường và nghèo đói ấy và mở cánh cửa dẫn đến thiên đường tài chính cho anh. Anh sẽ được học ở trường San Gabriel, sẽ hưởng mọi đặc quyền như chúng bạn, và sẽ được khơi gợi hướng theo sự nghiệp mà cha anh đã chọn. Don Ricardo muốn một người kế nhiệm xứng đáng. Jorge rồi sẽ mãi rúc trong cái bóng sự giàu sang, che giấu sự tầm thường của mình đằng sau những tiện nghi vật chất. Penélope, Penélope xinh đẹp, chỉ là một phụ nữ, và do đó là một kho báu, không phải người giữ kho báu. Julián, có một tâm hồn thi sĩ, vì vậy là linh hồn của một sát thủ, đáp ứng được mọi yêu cầu. Chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Don Ricardo ước tính chừng mười năm nữa ông ta sẽ ghi dấu ấn hình ảnh của mình lên đứa con. Trong suốt thời gian Julián ở nhà Aldaya như một người trong gia đình (thậm chí như một người được chọn), không bao giờ Don Ricardo lại ngờ rằng điều duy nhất Julián muốn từ ông ta là Penélope. Không một giây phút nào ông ta ngờ rằng Julián len lén khinh thường ông, và lòng cảm mến của anh chỉ là vờ vịt, chỉ là cái cớ để được gần Penélope mà thôi. Để chiếm đoạt được cô ấy tuyệt đối, trọn vẹn. Họ giống nhau ở khía cạnh này.

Khi vợ ông ta bảo rằng bà phát hiện Julián và Penélope trần truồng, thế giới của ông ta tan theo khói lửa. Nỗi kinh hoàng trước sự phản bội này, cơn cuồng nộ khi biết mình bị sỉ nhục mà không thể nói ra, bị chơi khăm trong chính trò chơi của mình, bị bẽ mặt và đâm lén sau lưng bởi chính người ông ta dần yêu quý như là hình ảnh của chính mình - tất cả những cảm xúc này dồn dập tấn công ông ta dữ dội đến nỗi không ai có thể hiểu hết tầm vóc nỗi đau của ông ta. Khi bác sĩ đến khám cho Penélope xác nhận rằng cô gái đã không còn trinh trắng, và có thể đã mang thai, linh hồn Don Ricardo tan thành thứ chất sánh đặc của lòng căm hận mù quáng. Ông ta thấy bàn tay của mình trong bàn tay của Julián, bàn tay đã đâm con dao cắm sâu vào tim ông. Ông ta còn chưa biết, nhưng cái ngày ông ta hạ lệnh nhốt Penélope vào phòng trên tầng ba cũng là ngày ông ta bắt đầu chết. Mọi thứ ông ta làm kể từ lúc ấy chỉ là cơn giãy giụa của quá trình tự hủy hoại.

Với sự câu kết của ông bán mũ, người ông ta vô cùng căm ghét, ông ta đã sắp xếp để tống khứ Julián khỏi Barcelona và đưa anh vào quân đội, nơi Aldaya đã ban lệnh rằng anh sẽ chết “do tai nạn”. Ông ta cấm bất kỳ ai - bác sĩ, người hầu, thậm chí người trong nhà, ngoại trừ ông và bà vợ - được gặp Penélope trong suốt những tháng cô gái bị cầm tù trong căn phòng sặc mùi chết chóc và bệnh tật kia. Lúc ấy, các đối tác của Aldaya đang lén lút bỏ rơi ông ta, đang thao túng sau lưng ông ta ngõ hầu thâu tóm quyền lực, sử dụng chính cái vận may ông ta đang bày ra cho họ. Lúc này, đế chế Aldaya đang lặng lẽ suy tàn, tại những cuộc họp bí mật ở Madrid, trong những hành lang kín bưng, trong các ngân hàng Geneva. Julián, như Aldaya nghi ngờ, đã chạy trốn. Trong sâu thẳm, ông ta thầm tự h