← Quay lại trang sách

Chương 16

Một buổi sáng mùa thu có gió lạnh thổi về nhiều, trời bàng bạc và thâm thấp, có một người đàn ông mặc áo gấm chữ thọ, đội nón dứa, chống gậy tìm đến quán bánh nghệ ở xóm Cây Me Mát hỏi thăm nhà Mệ Hoát. Phương Thảo, chắp tay nói:

- Thưa bác, đó là dì cháu, ở cách đây một quãng. Cứ đi thẳng con đường này vào rồi quẹo sang bên trái, đến dãy nhà ba gian có lầu thì đúng đó. Mà chẵng hay bác có chuyện chi dạy bảo?

Người đàn ông đó là ông Ba Sạng. Ông lắc đầu cười đáp:

- Không có chi đâu, cháu à. Chỉ là vì nghe thấy nói mệ có nhiều đồ xưa quý giá lắm thì tôi tới đó thăm thôi.

Ông ba gõ cửa vào thì thấy bà đương gội đầu ở sân. Ngồi xuống ghế kê gần đó, ông đợi một lúc cho bà gọi xong xuôi, đứng dậy trình bầy:

- Tôi là người khách lạ, tìm được đến đây là nhờ có cô cháu ở ngoài quán chỉ dùm.

Thấy ông ba là người lạ, đường đột tới nhà để xin xem cổ ngoạn, Mệ Hoát có ý không sốt sắng, nhưng vì lịch sự cũng mời ngồi sơi nước rồi bảo một con nhỏ đưa xuống dưới nhà dưới coi.

Mệ ngồi ăn trầu trên sạp không muốn phiền vì cho rằng bất quá đây chỉ là người hiếu kỳ chớ cũng chẳng hiểu biết gì nhiều cho lắm. Ba Sạng đi theo con nhỏ qua cái sân vào trong nhà trong thì thấy hoa cả mắt lên vì chóe lớn, chóe con, lọ bất giác, lọ lục lăng, cái thì men chàm, cái thì giang tây, thúy hồng, thúy lục vô số kể, bầy la liệt trên những cái giá bằng trắc đánh bóng như sừng, bên cạnh những cái sập khảm đá nhìn kỹ thì rõ là xuân hạ thu đông, cầm kỳ thi họa hay lan, mai, cúc, trúc.

Ba Sạng ngắm đi ngắm lại từng thứ một rồi phê bình từng nét chấm, từng nét chạm… một mình.

Không ngờ những lời phê bình ấy lọt vài tai Mệ Hoát. Cho rằng đó cũng là một thứ người sành cổ ngoạn mà phê bình cũng xác đáng phần nào, Mệ Hoát bèn đứng dậy, mời khách ra sơi nước. Bộ đồ trà này vẽ Mai Hạc, đề hai câu thơ nôm:

“Nghêu ngao vui thú yên hà

Mai là bạn cũ, hạc là người quen”.

Ba Sạng vừa nhắp trà vừa nói:

- Thưa Mệ, đồ sứ Mai Hạc này, mệ có nhiều không?

- Sao ông hỏi vậy? Hay là ông nghĩ rằng đây là Mai Hạc giả chăng?

- Ðâu có. Tôi không thong thạo về cổ ngoạn, nhưng nhìn một lát cũng biết đây là loại Mai Hạc gì…

- Vậy ra Mai Hạc lại có nhiều kiểu khác nhau sao?

- Tôi không dám múa rìu qua mắt thợ, nhưng đại khái cũng biết rằng cái kiểu Mai Hạc đầu tiên, được coi là quý nhất, đã được những tay thợ khéo nước Trung Hoa chế tạo trước mắt cụ Nguyễn Du, khi cụ làm chánh sứ, sang Tầu vào năm Gia Long thứ mười ba, tức là năm Quý Dậu. Lò chế tạo ấy là lò Canh Ðức Trấn tại Giang Tây, nổi tiếng vì chuyên làm đồ sứ ngự dụng cho các vua Mãn Thanh.

Sau này, thấy đồ trà Mai Hạc đẹp, các sứ thần của ta qua Trung Hoa cũng đặt làm để cho các quan viên và Nội Phủ dùng, nhưng lò chế tạo không phải là “Cảnh Ðức Trấn” nữa nên cái mặt nó dại, tuy là bắt chước theo đúng kiểu vở của lò “Cảnh Ðất Trấn” nữa nên cái mặt nó dại, tuy là bắt chước theo đúng kiểu vở của lò ”Cảnh Ðức Trấn”. Nhưng nào đã hết đâu: ngoài kiểu Mai Hạc thứ nhì này, lại còn kiểu Mai Hạc thứ ba, nhưng chế riêng cho người Trung Quốc dùng, cũng vẽ cây mai, con hạc nhưng thay vì hai câu thơ nôm nói trên kia thì là hai câu chữa:

“Hàn mai xuân tin tảo

Tiên hạc tháo vi đầu”.

Có nghĩa là:

“Mai hạc sớm báo tin xuân

Hạc kêu trước tiếng chim khác”.

Tất cả các đồ trá kiểu Mai Hạc đều ký ở dưới đấy hai chữ hiệu “ngoạn ngọc”, nhưng đối với mệ là người sành sỏi, nhất định không thể nào lầm được. Ngay tôi đây là kẻ phàm phu mắt giấy, cũng đại khái biết rằng bộ đồ này là kiểu chế lần đầu, thuộc loại “đồ sứ Mai Hạc chánh hiệu” chế vào khoảng cụ Nguyễn Du đi sứ Tàu.

Mệ Hoát nghe Ba Sạng nói, gật đầu, không trả lời. Mệ đứng dậy đưa chum chìa khóa cho con nhỏ, bảo mở cửa dẫy nhà ngang để mời ông coi. Ðến lúc ấy, Ba Sạng mới biết rằng cái gian nhà đồ cổ mà ông vừa vào coi khi nãy chỉ mới là gian nhà bếp của Mệ Hoát.

Thấy Ba Sạng nói về đồ Mai Hạc tỏ ra là người hiểu biết, mệ mới đưa chìa khóa cho con nhỏ mở gian trên, mời Ba Sạng vào coi.

Gian này cón quý bằng cả trăm gian trước: có những cặp sừng tê lớn có phần hơn cả những đứa trẻ lên năm, có những bức trạm khẩn ngọc trăm màu ngàn sắc, những cây chóe da lươn bé bằng nắm tay, viết nguyên một bài “Chính Khí Ca”, những cây đèn bằng đồng đen cao bằng đầu người lớn, những cái lọ lục lăng toàn bích trắng toát màu trứng diệc, và bao nhiêu bộ đồ trà khác nhau, cái thì vẽ sơn thủy đề thơ:

“Nhứt ẩm thanh khí vị

Vật đắc thiểu nhân tri”

(Một hớp đủ thấm giọng, vật lý người biết giá (Vương Hồng Sển dịch))

Cái thì vẽ bông mai và nhành mẫu đơn một bên, còn một bên thì vẽ hai con chim hai đầu bốn cánh riêng biệt nhưng than thể dính chung làm một, kèm câu thơ”

“Tại thiên ty dực điểu

Tại địa liên lí chi”

(Trên trời làm chim liền cánh, dưới đất làm cây liền cành (VHS dịch)

Cái thì vẽ một rừng trúc không có người nào cả, mà trên sông có một con thuyền vắng lạnh cũng không có người nào lái cả, kèm một câu thơ:

Thu giang điếu nguyệt nhạn hoành phi.

(Trên sông ngắm trăng, có con nhạn bay)

Ba Sạng tưởng tượng mình đang đứng ở trong một động tiên của một thời đại xa xưa cũng chỉ quý đến thế là cùng thì Mệ Hoát đã lên tiếng mời sang coi gian cạnh đó.

Té ra Ba Sạng lại lầm! Cái gian ông vừa mới coi đây lại không có nghĩa lí gì so với gian này. Chính Mệ Hoát dẫn ông Ba đi thưởng thức các đồ mà mệ kêu là “đồ sưu tập chánh thức”.

Thôi thì đủ các loại cổ ngoạn, mắt ông hoa lên không còn biết coi thứ nào trước thứ nào sau. Từ trên xuống đến đất cao ngất những cái bực bằng gỗ mun, gỗ trầm, trên xếp thứ tự và rất sạch sẽ không thiếu mất loại mất loại cổ ngoạn nào: đây là tượng sứ Ðế Thích đánh cờ, Mạnh Mẫu gánh sách đưa con đi học, Lý Bạch say rượu giơ tay lên bắt mặt trăng trên đầu, kia là các kiểu chóe, nậm, be, bầu, ngỗng, hũ, nhạo, vò chum, lục bình, cái thì vẽ tích Nghiêm Tử Lăng đề ba chữ “Ðiếu đái đồ”, cái thì vẽ Cao Biền dậy non, cái thì trắng toát trứng điệc vẽ Bá Nha, Tử Kì đề câu thơ chữ Hán:

“Cao Sơn lưu thủy trường

Nhứt khúc ngộ tri âm”

(Cây đàn gảy Cao Sơn, Lưu Thủy, một khúc nay gặp bạn tri âm.)

Trên một cái xích đông gần đó, xếp toàn những đồ men lam của Thanh Triều, Nguyễn Triều, Mạt Minh.

Một cái tủ kiếng khác bày toàn xu hào: có đồng xu đời Mãn Thanh đem qua đây dùng, xu khác hình rồng bay (Long Phi) từ triều Mãn Thanh, đời vua Quang Tự và đời bà Tây Thái Hậu, có đồng xu Ăng-lê dầy cạnh, xu khắc hình con ó Hoa Kỳ do binh sĩ Pháp và bọn đánh giặc mướn đem qua nước ta trong trận đánh với vua Tự Ðức chầu xưa, lại có đồng xu lá bài, mặt liền, không khoét lỗ tròn ở giữa, đồng xu in hình Tôn Dật Tiên phát hành năm Tân Hợi, xu ”Onxonchem” buộc người ta nhớ lại lúc Pháp đến cướp miền Nam giết dân như giết ngóe. Ôi thôi, kể cho đến mấy đi nữa, thì cũng chẳng có cách gì hết được các quý vật ở trong gian nhà này.

Ông Ba Sạng nhức đầu vì ngó vì nhìn, chắp tay lại cáo từ Mệ Hoát sau khi đã xem hết gian này, nhưng mệ giữ lại và nói:

- Thôi, đã có công coi thì coi luôn một thể. Rất có thể lần sau ông tới, tôi không có nhà. Ông đi theo tôi lên lầu, coi chơi mấy cái đặc phẩm mà tôi cho là “khá”.

- Bẩm mệ, tôi phải nói thực là cứ ăn xong rồi đi coi thế này, tôi dám đi hết năm này sang năm khác. Nhưng tôi sợ làm mất thì giờ quý báu của mệ nên không dám lợi dụng quá mức.

- Không có sao đâu. Ông đã biết đồ cổ, tất rành tâm lý của người chơi đồ cổ như thế nào. Người chơi đồ cổ gặp kẻ nào thô lậu, không biết gì, không buồn nói không buồn trò chuyện, không buồn đưa ra cho xem món quý vật này hay vật bảo kia; nhưng nếu gặp tri âm biết thưởng thức cổ ngoạn biết chuyện xưa tích cũ, biết lịch sử của từng thứ, giá trị của từng thứ dù là công việc cấp bách đến đâu cũng cho là thường, miễn là đưa cho người bạn của mình xem hết các báu vật mà mình sưu tầm được, nói lên cái đẹp, cái quí của từng thứ và cùng thảo luận để cùng tìm thực, giả, tìm sự tích, tìm nguồn gốc xem cổ ngoạn đó là đồ quan diêu, quân diêu hay là dân diêu.

Lãnh ý của mệ, Ba Sạng bước theo mệ lên trên lầu.

Ôi chao, đến nơi đây thì quả là một thế giới cổ ngoạn mà ta có thể nói là mắt người thường chưa được thấy bao giờ.

Không. Người được thưởng thức không thể nói mình “may mắn được coi” nhưng phải nói là mình tốt phước cả một đời chỉ có một lần được hưởng cái phước đó mà thôi chớ không thể gặp hai lần được.

Bất cứ ai củng phải hoa mắt choáng đầu khi bước vào ba căn phòng ăn thông liền với nhau chứa không biết bao nhiêu bảo vật trông y như một cái động tiên. Ở bốn góc tường, có hai cặp lộc bình một người lớn ôm không giáp, cao muốn đụng trần nhà, men lam chấm ngư, tiều, canh, mục, toàn bích, toàn hảo, không có một tì ố chứ đừng nói là khờn hay mẻ.

Cứ thế thôi, người chơi biết đồ cổ một chút cũng đủ choáng hồn rồi, vậy mà chưa thấm vào đâu với những tủ kiếng có khóa đồng trạm tay to bằng cổ tay, kê dựa vào cột cái, bên trong bày không biết bao nhiêu ngọc ngà, châu báu…

Ðây là chuỗi ngọc, sắc vàng ong óng mầu mật ong, mỗi hạt to bằng đầu ngón tay cái; kia là ba viên hổ phách lớn bằng trái nhãn lồng nạm vào trong một cái vỏ bằng đồng bạch; nọ, một xâu chuỗi bồ để tiện bằng ngọc mã não bên ngoài trạm trỗ rất tinh vi. Lại còn đây nữa, còn bao nhiêu là vật lạ mà ngọn bút của ta làm cách gì tả nổi được những cái khéo, cái lạ, cái đẹp dễ khiến cho người ta phát sợ?

Thật không ai có thể ngờ được cái bàn tay con người lại có thể khéo léo một cách ghê gớm đến như vậy mà cũng không thể nào tưởng tượng rằng trước khi có nền văn minh tân tiến như ngày nay, ở thế gian này lại có nền văn minh, văn hóa siêu một cách lạ kì đến thế.

Tượng Ðông Phương Sóc ngậm một cành đào có ba trái bằng ngọc lưu li vừa đánh cắp ở vườn bà Tây Vương Mẫu. Cây “lâm vồ” thân bằng sừng u-tây, lá bằng cẩm thạch màu xanh lục có đức Phật ngồi bên dưới. Hàng chục cái bể con hình dáng khác nhau đựng những ngọn đồi bằng trầm hương. Không biết bao nhiêu ngọc bội, ngọc khánh, ngọc lien ôi không biết bao nhiêu bảo vật, không biết bao nhiêu bằng chứng cổ thời, đừng nói động đến sợ bể làm chi, chỉ riêng đứng cạnh mà nhìn cũng đã rờn rợn cả người vì cảm thấy như mình không xứng đáng được đứng cạnh các đồ vật đó.

Bao trùm tất cả, có hai cái cửa võng ngăn ba gian gác thông nhau. Ðay mới thức là đồ quý nhất và có lẽ cũng xưa nhất nữa. Khung bằng trắc “hồ bì”, vân mun từng đám y như mây mùa thu, tròng long khảm ngọc thạch nguyên miếng, mà những hạt cầm thạch to bằng những trái mù u chưa lột vỏ. Cả hai cùng trạm trỗ cả hai mặt rất khéo: Lý Nguyên Bá tung trùy, Bát Tí Na Tra bị phật bà Quan âm úm phép. Tây Thi Phạm Lãi du ngũ hồ, Quan Vân Trường đốt nến đọc sách cho Hoa Ðà lóc thịt…

Còn ở trên tường thì la liệt không biết bao nhiêu tranh cổ, vô số kể những miểng sành miểng sứ lằn lên những cách văn khác thường lồng trong những cái khung vàng bạch rất nhiều những đấu rượu làm bằng ngỗng, hũ, chai, nậm, vò có cái vẽ “kì sơn dị thảo” nhưng cũng có những cái trắng tinh chỉ khắc vẻn vẹn một bài thơ ngự chế của vua Càn Long hay di bút của vua Gia Khánh….