Chương 26
Vào một buổi sáng tinh mơ vào cuối mùa đông năm 1957, có một bọn ba người cúi đầu đi lủi thủi vào nghĩa trang Gò Vấp.
Lúc ấy, bóng tối chưa tan hẳn. Ngọn cỏ làm ướt các gấu quần. Cây ở hai bên đường đen như những cái bóng ma vĩ đại sù đầu đứng im lìm, thỉnh thoảng lại nhỏ xuống những hòn đá lăn lóc ở lối đi những tiếng kêu than nhỏ bé. Đó là sương rơi. Xa xa có một vài đóm lửa hắc từ những cái lều ở bên kia đường ra như những con mắt chột. Vài con chó bới những đống rác rến ở cổng nghĩa trang để kiếm thức ăn và sủa ran lên khi thấy bóng ba người đi tới.
Ba người đó là Ba Sạng, Ômya và tôi.
Sau khi nhận được bức thư chót của bà Tôkubê ở Ôtôyô gửi về nhờ cất mả chồng, ông Ômya và tôi đã đi vận động khắp các cơ quan hữu quyền thời đó, để làm vừa ý người quả phụ. Trong đơn chúng tôi cũng trình bày sự thật, hoàn toàn thật: người quá cố là Trần Hữu Lăng nhưng có hai quốc tịch Việt Nam và Nhật Bản.
Bây giờ vợ Tôkubê (tên Nhật của Trần Hữu Lăng) được tin chồng mất đã gửi đơn xin chính phủ Việt Nam cho phép cải táng Tôkubê và lấy xương cốt còn lại hỏa táng ở Phú Thọ, cho vào cái bình đem về Nhật để thờ. Tất cả mọi công việc, bà Tôkubê ủy quyền cho ông Ômya lo liệu và gửi kèm thư ủy nhiệm với đơn xin cải táng.
Công việc đó, thực ra không có gì khó khăn, nhưng bộ trưởng xã hội thời đó lại không nghĩ như thế, một là vì ông sợ trách nhiệm về sau này, mà hai là vì ông theo đạo Hồi.
Về trách nhiệm, ông sợ rằng cho phép mang tro than của một người Nhật về nước - vì lúc ấy Nhật vẫn còn bị coi là một nước đi với nước Đức, Ý Phát xít chống lại đồng minh Anh, Mỹ có khi phạm đến vấn đề chính trị mà chức bộ trưởng của ông sẽ không cánh mà bay - đó là điều tối kỵ.
Còn về đạo đức thì ông yên trí rằng đối với người chết, đạo nào cũng phải theo đúng như đạo Hồi của giáo chủ Mohamed, nghĩa là ai chết ở đâu thì phải chôn ngay tại đó - cùng lắm là trong một chu vi không quá mười cây số chỗ người ấy chết, chớ không được xa hơn - mà nhất là đã chôn ở đâu thì cứ để nguyên tại chỗ đó mãi mãi, chứ không được cải táng để đem đi chỗ khác.
Vì gặp nhiều cản trở không đâu như thế, công việc xin phép bốc mả Tôkubê đòi hỏi rất lâu thì giờ. Đơn xin phép gửi đi từ cuối tháng mười mà đến tận cuối tháng chạp âm lịch tức là tháng 2 năm 1957 mới được phép chính thức.
Hôm ấy chúng tôi đi vào nghĩa trang Gò Vấp chính là để bốc mộ Tôkubê.
Đáng lý ra chúng tôi chỉ có hai người là Ômya và tôi, thêm ba bốn người phụ giúp việc, nhưng may làm sao là trước hôm dự định bốc mộ Tôkubê hai ngày, ông Ba Sạng ở Ban Mê Thuộc về ký giấy sang tên một cái đồn điền cà phê cho cháu nội nên chúng tôi mời ông cùng đi nhân thể vì lẽ ông Ba Sạng có biết ít nhiều về Mệ Hoát là người có liên hẹ tới Tôkubê mà cũng vì ông Ba lại còn là một nhà địa lý thường để mồ mả cho những người biết. Tôi nói:
- Bây giờ công việc giấy má đã xong rồi, ông ở nhà cũng buồn, sao không cùng đi với chúng tôi vừa để chỉ bảo cho người ta đào sới cùng với cách thức lượm cốt và rửa ráy mà cũng là vừa để tiễn biệt một lần chót một người bạn tốt của chúng ta chẳng may đã chết một cách không bình thường?
- Công việc tôi xong xuôi rồi, ở nhà cũng chẳng làm gì, ừ thì đi.
Sự có mặt của ông Ba Sạng không ngờ lại giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Công việc bốc mộ đòi hỏi những cách thức không theo đúng không thể được. Ông Ba nói:
- Bây giờ có lẽ năm giờ rưỡi rồi. Chúng ta nên bắt đầu ngay thì hơn bở vì để cho có ánh sáng mặt trời hé lên, không tốt.
Dưới ánh sáng chiếc đèn măng sông, bốn người phu lặng lẽ cuốc đất ở trên cái mả hình bầu dục lưa thưa một ít cỏ đã vàng.
Trong khi đó, ông Ba Sạng rút ở trong túi áo ra một lá bùa, đặt lên một cái đĩa nhỏ, lấy ba trái cau, ba lá trầu chặn lên trên rồi trịnh trọng đặt lên mô đất, nơi phía đầu cái mả, và lấy cả một thể nhang đốt hết cắm ở chung quanh cái đĩa. Ông chắp tay lạy bốn phương trời. Xong đâu đó, ông quay về phía mả, lễ một hồi lâu rồi bắt quyết, miệng không ngớt đọc những câu chú chúng tôi không hiểu mà chính vì không hiểu, chúng tôi thấy trang nghiêm và rùng rợn lạ lùng.
Bốn người phu lúc ấy cũng vừa đào tới áo quan. Tiếng cuốc, xẻng chạm vào gỗ kêu lộp bộp. Nắp quan tài bật ra. Ông ba đốt thêm một tuần nhang nữa, đưa đi đưa lại trên quan tài. Rồi hét lên một tiếng to.
Ánh đèn măng sông chiếu xuống cái lỗ tối đen sâu hoắm. Cả bốn người phu cùng kêu lên một lượt:
- Ủa! Sao không thấy xương cốt gì hết vậy?
Cả ông Ômya và tôi cùng thò đầu vào xem có gì lạ xảy ra. Không có gì hết. Tôi đưa mắt nhìn ông Ba. Ông Ba có vẻ ngạc nhiên một chút, bảo bốn người phu:
- Cứ đào sâu xuống một chút nữa coi!
Bốn người phu lại hì hục đào chừng hai mươi phút đồng hồ nữa, nhưng vẫn không thấy có gì thay đổi hết, cái áo quan của Tôkubê trống rỗng, bốn người phu trèo xuống, đứng ở trong chiếu đèn nhìn vào thật kỹ chỉ thấy một thứ nước đục như nước bùn, thỉnh thoảng lại nổi lên vài cái bọt như tăm cá.
- Thế là nghĩa làm sao? Không ai hiểu cả.
Thường thường, trong những vụ bốc mộ như thế này, người ta lượm nguyên vẹn bộ xương, trừ quần áo mặc cho người chết và những tập giấy moi chèn ở chung quanh để cho cái xác chết trong quan tài khỏi lắc lư xiêu vẹo khi khiêng từ trong nhà ra mai táng.
Đàng này trái ngược hẳn: bộ xương của Tôkubê tiêu hết, mò mãi chỉ còn cặp xương hông, và mấy đốt ngón tay chìm sâu dưới đáy hòm, nhưng trái lại tấm vải khâm niệm, quần áo và cả đôi giầy nữa vẫn còn, mặc dù sũng nước. Thế là nghĩa làm sao?
Bóng tối đã bắt đầu mờ dần ở đàng đông. Đây không phải là lúc đặt những câu hỏi vẩn vơ như thế. Ông Ba thúc giục bốn người phu lấy rượu rửa mấy cái xương còn lại, cho vào một cái quách bằng sành.
Ngồi sổm trên bờ huyệt tôi lấy một cành tre quậy tấm vải liệm lên thì thấy bây giờ đã ngả màu nâu, nhưng có vẻ vẫn như còn chắc lắm không mủn ra như tôi đã tưởng.
- Ông Ba, máy cái này có lấy lên cho vào quách không, ông?
Ông Ba Sạng lắc đầu:
- Không thể làm như thế. Một người vừa chết mà đem hỏa thêu ngay, thì có quyền thiêu hết cả quan tài nghĩa là cả quần áo vải liệm và những đồ vật chôn theo người chết, nhưng một cái xác cải táng mà lấy đem hỏa thêu thì chỉ được thiêu nguyên xương của người quá cố mà thôi, ngoài ra không được trộn lộn bất cứ một thứ đồ gì khác.
Chuyến về hết sức tẻ lạnh. Chúng tôi đặt cái quách sành lên xe ra về, không ai nói với ai một lời, bởi vì mỗi người đều có những thắc mắc riêng, những câu hỏi tự đặt cho mình mà không thể trả lời được với bao nhiêu ngao ngán mà nói ra sợ làm tủi vong linh người chết.
Ờ, tại làm sao xương thịt người ta là những thứ mà ai cũng cho là rắn nhất, bền nhất thì lại tiêu tan hết cả trong khi những cái mà ai cũng biết là mau mục nhất như vải liệm, quần áo, và giày mang ở chân lại gần như nguyên vẹn? Thế là tại làm sao? Mà tại làm sao cả thân hình to lớn như Tôkubê lại tiêu mất hết cả xương, trong khi những người khác chôn bảy tám năm, mươi mười lăm năm, có khi cả trăm năm, đào lên hãy còn đầy đủ cả xương, kể cả những khúc xương đốt ngón tay nhỏ xíu?
Ờ, tại làm sao?