← Quay lại trang sách

Chương 28

Tôi đồng ý với ông Ba Sạng. "Ta cũng chẳng nên tự phụ đi sâu hơn làm gì". Đành thế rồi, đành là huyền bí thì không thể nào lý giải được, ta chỉ biết ghi nhận mà không cần vặn hỏi lôi thôi vô ích, nhưng tôi không phải vì thế mà không được suy nghĩ về cái chết của con người một chút.

- Hai ông bạn à, tôi thú thật là có phen tôi đã ngồi suy nghĩ về lẽ sống chết của con người nhưng thật quả chưa bao giờ tôi thấy buồn rầu và chán nản những ngày hôm qua. Người chết ở chi nhánh đường Lê Văn Duyệt chết đi tan ra tro bụi hết trừ phi mấy đồ vật mang theo còn lưu lại được đến bây giờ thì ông Tôkubê ngẫm ra cũng chẳng hơn gì: cả một cuộc đời vào nguy ra hiểm tưởng chừng như có thể làm đảo lộn được cục diện thế giới... vậy mà rút lại còn gì sau khi chết? Một nắm tro tàn không đầy lòng bàn tay đứa trẻ con, một ít than dơ bẩn có thể làm hôi tanh hơi gió thổi...

- Ai cũng biết như thế, có phải không hở hai ông? Ấy thế mà thế hệ này qua thế hệ kia, từ bán cầu này sang bán cầu nọ, lúc nào cũng đầy rẫy những người quên hẳn rằng mình đương sống đây mà chưa biết lúc nào lăn ra chết, mà chết đi thì bất quá chỉ là một nắm tro hôi hám. Ấy là nói đến thời bình. Chứ ở vào thời buổi chiến tranh, cái mạng con người chắc gì đã được như thế? Hay là không còn lại gì hết, thịt xương tan ra từng mảnh tung cả ra bốn phương trời, ghê tởm đến nỗi chó chẳng buồn ăn, mà chuột cũng không muốn ngửi.

- Tất cả, tất cả mọi người đều tưởng rằng mình sẽ sống mãi, không bao giờ chết và tiền bạc và chức tước mà thường thì họ quỳ mọp xuống dưới chân người khác để kiếm ra sẽ cũng trường tồn mãi mãi không bao giờ mất.

Ông Ômya tự nhiên xịu mặt xuống, buồn muốn khóc. Ông nói:

- Chán không để đâu cho hết. Tôi chẳng biết nói thế nào với mẹ và vợ ông Tôkubê. Nói tất cả sự thật lúc bốc mộ thì họ buồn, mà không nói không được vì họ đặt tin tưởng nơi mình.

Tôi nói:

- Có lẽ không nói gì thì hơn hết. Mà nếu tôi ở địa vị ông, tôi cũng sẽ không nói chi tiết cái chết của Tôkubê làm gì vì mẹ và vợ Tôkubê biết rõ thì họ chỉ càng buồn rầu, đau khổ thêm thôi.

Chúng tôi lại uống. Buồn quá, mà uống rượu, có nhiều khi uống không biết thế nào là say. Ômya tưởng tượng đến cảnh gia đình Tôkubê ở Kyotô lúc này thảm đạm không biết chừng nào; có lẽ mẹ anh nhớ con mà chết rồi cũng không chừng! Còn vợ anh ta thì chẳng biết bây giờ đắp đổi lần hồi ra sao để nuôi hai đứa con thơ ấu?

Ông Ba Sạng hỏi đi hỏi lại về ngày, giờ chết của Tôkubê và phàn nàn mãi tại sao lúc khâm liệm không nhớ cho một miếng vàng vào miệng người quá cố "vì việc đó hệ trọng lắm."

Riêng tôi, không nghĩ gì đến Tôkubê nữa vì những gì tôi thấy hồi sáng ghê rợn quá, đến lúc ấy còn làm cho tôi muốn ói.

Giờ đây tôi cứ ngồi uống và chỉ biết uống thôi. Tôi là tay rượu, nhưng chưa có bao giờ lại uống dữ đến như thế uống đến độ mà hai ông bạn ra về hồi nào tôi cũng không hay.

Nửa khuya, tôi chợt thức dậy vì cánh cửa sổ đập ầm ầm. Lá cây y lăng kêu rào rào, thỉnh thoảng lại có mấy cành khô gãy kêu răng rắc và rơi lộp bộp xuống cái sân sau nhà.

Tôi nằm im không động đậy để nghe.

Ở ngoài kia, trời tối om om, tối mịt mù, thỉnh thoảng lại có một lằn chớp xanh lè lóe lên và chạy ngoằn nghèo như những con rắn ở trên nền trời thấp lè tè, sũng nước,

"Quái, sao lại thế này? Bay giờ là cuối tháng chạp sắp Tết, khí hậu phải hanh hao mới đúng, sao khi không lại nổi dông gió và như muốn mưa to thế này?"

Tôi lắng nghe một chút nữa thì trời chuyển ầm ầm rồi mưa xuống như trút nước. Những lằm chớp xanh lè lóe lên nhiều hơn. Tôi lười biếng ngồi dậy đóng cửa sổ lại thì vừa lúc ấy, Mệ Hoát bước vào với o Phương Thảo. Họ chào tôi. Tôi hỏi:

- Ủa, Mệ đi đâu mà khuya khoắt thế này?

- Chúng tôi đi lễ Phật vì hẳn thầy Tư đã rõ là chỉ còn vài ngày nữa thì đến Tết. Chúng tôi đi các chùa để nghe kinh. Lần trước, lúc giã biệt thầy tôi còn nói "còn lâu lắm mới trở về". Nhưng hôm nay, qua đây, gặp trời mưa chúng tôi và tạm lánh ở đây và cũng nhân dịp chúc mừng thầy một năm mới tốt lành.

Lần thứ nhất, tôi mới gặp hai cái bóng nhếch miệng cười. Tự nhiên tôi thấy vững dạ hơn một chút.

Hệ Hoát nói:

- Thầy Tư dạo này có mạnh không?

- Cảm ơn mệ. Tôi bình thường. Nhưng riêng hôm nay tôi cảm thấy buồn quá vì chúng tôi vừa nói chuyện với nhau về cái lẽ sống và chết ở đời.

- Những người hay suy nghĩ bao giờ cũng buồn, chớ chẳng phải riêng những lúc bàn luận về cái sống và chết. Tôi nhớ hình như có một lúc thấy thầy Tư nói rằng sống mới khó chứ chết thì dễ lắm. Tôi ngờ rằng chưa hẳn thế đâu, thầy ạ. Chết cũng khó như sống vậy. Khoan nói rằng có nhiều người sống muốn chết mà vẫn tiếc nuối; chỉ nói về những người chết thật mà thôi thầy Tư có thấy bao nhiêu người chết thật rồi mà vẫn làm khổ cho người sống không? Đó là những người chết mà còn mang cái oán ngày trước đi theo mình xuống suối vàng chờ đợi một dịp nào đó trả lại cái oán ngày trước mới được siêu sinh, chứ không vẫn cứ còn bận tâm, thắc mắc mãi, không thể nào yên.

Tôi chợt nhớ đến vụ Tôkubê bị roi quất vào mặt, ngã lăn trên mặt đất chết tươi và tôi lại nhớ đến đám bốc mộ hôm nay, quan tài Tôkubê đầy nước bùn, chỉ còn lại mấy cái xương đem về Phú Thọ hỏa thiêu.

- Mệ vừa nói... tôi nghe ra rồi... thế thì tôi có thể nghĩ rằng cái quan tài của Tôkubê đầy nước... không còn gì hết... có phải là...

- Tôi hiểu ý thầy Tư nói gì rồi. Lạy Trời Phật... tôi xin trả lời đây: Tôi là người không bao giờ lại nuôi cái oán hận sâu độc đến thế, không bao giờ lại có tâm đại xấu xa đến thế. Từ trước, tôi không muốn nói chuyện này ra sợ làm phiền lòng thầy Tư. Nhưng bởi vì bây giờ thầy Tư đã biết câu chuyện rồi, tôi thiết nghĩ cũng nên nói ra để cho thầy Tư khỏi ngộ nhận tôi là một người xấu, không xứng đáng nhận một cảm tình của thầy Tư đã giử cho tôi.

"Tôi nhận mình không có một tấm lòng cao cả của các bận giáo chủ yêu thương nhân loại hơn cả yêu thương mình, chủ trương lấy ân trả oán, ai tát má bên phải thì đưa má bên trái cho người ta tát. Không, tôi là người thấp kém. Ai làm nhục tôi thì tôi né, ai đánh tôi thì tôi đỡ, nhưng nếu đã né hay đã đỡ mà cứ nhục mà tôi, cứ đánh tôi thì tôi đối phó và tôi sẽ đánh lại!"

"Chắc thầy Tư đã biết tôi đã đem phương pháp sống đó ra thực hành với Tôkubê như thế nào rồi. Tôi không nế, nhưng tôi van xin, tôi không đánh nhưng tôi chạy. Vậy mà Tôkubê không biết thương tôi lại chửi rủa, khinh miệt và đuổi theo tôi, định đánh chết người đã chết. Dẫu hèn đến chừng nào đi nữ, tôi cũng phải căm thù. Chính vì lòng căm thù đó đã tạo cho tôi một sức mạnh mà chính tôi cũng không ngờ."

"Hôm Tôkubê ở nhà thầy Tư ăn lễ tân gia ra về, tôi không ngờ cái sức mạnh của thù hận, của căm hờn lại ghê gớm đến thế. Thực tình tôi quất vào đầu, vào mặt của ông ta chỉ là để cảnh cáo mà thôi. Tôi giận nhưng mà thương ông ta, tôi oán nhưng mà không quên ông ta có vợ trẻ và hai đứa con nhỏ. Phải, tôi chỉ muốn cảnh cáo thôi. Không ngờ... thực không ngờ... Tôi tự hỏi không biết có phải là định mệnh đã sắp như thế không, có phải cái phần số mệnh của ông đến ngày ấy, tháng ấy, là hết không, chớ thật tình tới tận bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mấy cái roi cảnh cáo đó lại có thể làm cho ông ta chết bất đắc kỳ tử như thế được.

"Dầu sao, tôi cũng thấy rằng bao nhiêu tội lỗi về phần tôi cả và nếu có là ngộ sát chăn nữa thì tôi cũng phải nhận lấy trách nhiệm đã sơ xuất trong hành động, thiếu bình tĩnh trong khi đối phó. Không biết bao giờ tôi mới trả được cái nợ này. Hẳn là bây giờ thầy Tư đã biết tại sao tôi và cháu Phương Thảo chỉ tìm đến các chùa chiền để nghe kinh và đem hết tâm thành ra sám hối...

"Người chết không bao giờ nói dối. Thầy Tư có thể tin tưởng tôi. Chúng tôi thành tâm sám hối việc đã chót làm, thế thì nhất định không bao giờ lại có thể theo dõi Tôkubê mà hại cả ở trong quan tài... như thầy Tư đã nghĩ. Không, không thể như thế được. Một người hèn đến chừng nào đi nữa cũng không thể làm như thế. Chúng ta là con người khi thấy kẻ thù ngã xuống thì đều quay lại xót thưong. Bao nhiêu thù hận đều xóa hết, cả người sống lẫn người chết đều là anh em, không còn phân biệt, đâu là thù đâu là bạn...".

Mưa ở ngoài mỗi lúc một to hơn.

Tôi say quá, gục đầu xuống bàn giấy ngủ lúc nào không biết.

Đến sáng, mở mắt dậy thì hai cái bóng mệ Hoát và o Phương Thảo đã biến đi từ lúc nào rồi.

Xa xa, có tiếng gà gáy te te. Ở ngôi chùa gần đấy, tiếng nhà sư tụng kinh lúc trầm lúc bỗng. Mưa đã ngớt hạt nhưng vẫn rơi đều đều. Trời buồn quá thể là buồn. Lòng tôi buồn quá đến là buồn. Tôi vấn một điếu thuốc lào và ngâm khe khẻ mấy câu thơ cũ của Bạch Lạc Thiên:

Bôn lưu phó hải vô đồi ba,

Hiền ngu quí tiện đồng quí tận.

Bắc Mang trủng mộ cao ta nga

Cổ lai như thử phi độc ngã,

Vị tử hữu tửu thảo cao ca

Nhan Hồi đoản mệnh, Bá Di ngã,

Ngã kim sở đắc diệc dĩ ta...

Rồi lấy giấy bút chép mấy câu tạm dịch ra lời Việt:

Nước trôi ra biển có về được đau!

Ngàn xưa quý tiện, nghèo giầu,

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.

Bắc - Mang ai đó đi về,

Thấy chăng mả nọ mồ kia ngút ngàn?

Huyền vi cái lẽ tuần hoàn,

Phải dân tua chịu riêng oan một mình.

Rượu ngon hãy uống cạn bình

Hát vang quên khuấy cái hình phù du.

Nhan Hồi chết yểu nhớ chưa?

Bá Di chết đói đến giờ còn ghi.

Ngẫm mình dám oán hận chi

Được như thế ấy, có khi đã nhiều...

Bỗng nhiên tôi cảm thấy lành lạnh ở lưng. Ngồi thật yên lặng để nghe thì hình như có người đứng ở đâu gần đó. "Ủa, thế ra Mệ Hoát và o Phương Thảo chưa đi à?".

Tôi quay lại, yên chí rằng hai cái bóng ma đứng ở cạnh tôi đang đọc hai câu thơ tôi vừa viết lên mặt giấy. Hóa ra lầm. Đó chỉ là tiếng gió thở dài. Mà tiếng thánh thót như gần như xa không phải là nước mắt tuôn rơi, mà là những giọt mưa đọng trên những tờ lá y lăng rách mướt nhểu từng giọt, nhểu từng giọt xuống mảnh sân rêu ướt đầy những xác hoa vàng ố.

Viết xong vào mùa mưa, 3 giờ sáng ngày 30 - 4 Quý Sửu 1973

.