Mối tình đầu Tác giả: RÔ-DƠ NI-LAN (ĐỨC)
Đã qua rồi, đã xa rồi... song nào có quên được... Ấy vậy mà đây chỉ là một sự việc nhỏ nhặt, không đáng kể đến nỗi ta có thể quên đi mà chẳng hại gì. Có ích chi, khi nó cứ sống mãi trong ta? Trong một giây phút yên tĩnh nào đó, nó lại hiện về, nổi lên trên hàng ngàn ý nghĩ, hàng ngàn hành động khác quan trọng hơn. Có thể vì nó chưa được hoàn tất, còn dở dang, mà mỗi cố gắng nhằm kết thúc câu chuyện đều vô ích. Hoàn tất mọi việc, hầu như đó là đặc tính của con người. Người ta không muốn bỏ lửng bất cứ chuyện gì, mà bao giờ cũng muốn làm cho đến đầu đến đuôi, có như thế mới mãn ý.
Chúng ta đã viết nhiều về năm 1916, và trong tất cả những cái tôi còn nhớ rõ về quãng thời gian ấy, đây là câu chuyện ít quan trọng hơn cả, nhưng hiện nó đang trở về trong tôi và tôi muốn kể cùng các bạn. Âu cũng là một cách để kết thúc cái chưa được kết thúc.
Thành phố quê hương tôi bị bom phá trụi. Bạn phải tận mắt nhìn, phải tự nếm trải mới có thể hiểu được hết thực tế đó. Những phố xá trước kia sáng ánh đèn, náo nhiệt và tràn ngập người, giờ đây chỉ còn là một bãi đổ nát xám xỉn. Có ai còn biết nổi phố xá đã từng chạy theo ngả nào? Đã từng có người sinh sống nơi đây chăng? Người ta đã cưới xin, đã ăn uống, đã đọc sách ở chốn này ư? Trên cao kia, bên bức tường thủng vỡ, lủng lẳng một tấm thảm màu xám với mẫu hoa đỏ. Một cầu thang ngóc lên, chơi vơi giữa khoảng không.
Nhưng tình trạng bất lực đã bị phá vỡ, người ta thu dọn các phố xá đổ nát và xây dựng thành phố mới, việc này rất khó khăn, song cũng đã làm được. Và đêm đêm, chúng tôi lại được ngủ yên trong những căn buồng dựng tạm; chúng tôi ngủ, không còn bị những tiếng gào khóc giật dậy. Buổi sáng đến với chúng tôi là bình minh, là mở đầu của một ngày mà trong ngày đó người ta có thể bắt tay làm một việc gì đấy, một việc đầy ý nghĩ, và thành quả của nó sẽ không bị bom phá hủy ngay đêm sau, mà sẽ đứng vững.
Khi ấy tôi mười bảy tuổi.
Và tôi nóng lòng muốn làm một cái gì. Trong những năm chiến tranh, ý muốn làm việc của tôi đã rụi tắt. Làm sao tôi có thể yêu thế gian và cuộc đời, làm sao tôi có thể cống hiến cho tất cả những thứ ấy, và qua đó tự đo mình, khi hết đêm này qua đêm khác chỉ là tàn phá, khi ý nghĩ duy nhất của tôi chỉ còn hướng về tôi và những người thân, quanh quẩn trong cái vòng chật hẹp dường ấy, rồi cuối cùng chỉ còn mong sao sống được; một ý nghĩ xa lạ, trái tự nhiên, khi người ta mới mười sáu tuổi... và là một con người.
Bỗng chốc có sự đổi thay, và hết thảy mọi người quen dần với cái mới. Giờ đây tôi chợt nhận ra một điều tôi chưa từng đọc thấy ở đâu, nhưng lại quan trọng đối với tôi: phải chăng có một sự khác biệt rất lớn giữa một kẻ luôn luôn chỉ sống thấp thỏm từng ngày từng khắc với một người dự tính sẽ sống bảy mươi năm?
Tôi còn có thể nhớ rất rõ một sự kiện hoàn toàn không phải là không quan trọng. Trong giai đoạn mà mọi cái trở nên đầy ý nghĩ ấy - tuy có chậm, nhưng tôi phải thừa nhận. - tôi đã phát hiện ra việc đọc sách. Tôi đã phát hiện ra nó chẳng khác nào một nhà nghiên cứu phát hiện một nguyên lý vĩ đại, hay một nhà thám hiểm phát hiện một phần mới mẻ của trái đất.
Thành phố bị tàn phá và đang được bắt đầu xây dựng lại của chúng tôi có một thư viện, vâng, chúng tôi đã có một thư viện. Nó quan trọng không kém
những ống dẫn nước mới được đặt, những cống rãnh mới được tu sửa quan trọng như điện và thuốc men. Vấn đề ở đây là xóa nạn đói, trừ dịch, chữa bệnh và đem lại ánh sáng cho đầu óc con người.
Tôi đọc, đọc tất cả những gì rơi vào tay, sách quan trọng có, tầm phào có, rồi Puskin và một ông Xinit nào đó, rồi Nêxô, Goócki và Maiơ. Maiơ nào nhỉ? Tôi cũng chẳng biết nữa, ông ta có thể có tên gọi là Hanxen hoặc Milơ. Không có giới hạn nào cho tất cả những cái mà tôi buộc phải đọc, cũng như những cái tôi đọc hối hả để bù lại; và mãi tới lúc này, tôi mới mường tượng nhận ra rằng thế giới thật rộng lớn biết bao và thế giới có thể trở nên đẹp đẽ biết bao. Cứ như thế, tôi đọc lẫn lộn mọi loại sách lịch sử, tâm lý, y học và văn học. Trời đất, không dạ dày nào có thể chịu nổi một sự xáo trộn hổ lốn như vậy, nhưng cái đầu lại chứa được rất tài tình.
Thời gian đầu, tôi không chú ý cặp mắt nhìn chăm chú của người giữ thư viện. Tôi chỉ nhìn đôi tay anh lấy những cuốn sách, đóng một cái dấu và viết gì đó vào phiếu mượn sách. Cho đến một ngày đôi tay ấy ngập ngừng, đẩy một trong những cuốn sách tôi đã chọn sang bên, tìm một cuốn khác, thấy nó, đặt nó trước tôi và... và tôi ngước nhìn anh. Gương mặt anh thon gầy, chắc chắn còn trẻ, mặc dù trán đã có nếp nhăn. Nếu như tôi bảo đó là một gương mặt đẹp, thì tôi đã nói dối. Tuy vậy, vì gương mặt anh thông minh, nên cũng đẹp. Anh có đôi mắt sáng, có lẽ màu nâu,
đôi mắt trong trẻo mỉm cười, dò hỏi, dường như anh muốn xin lỗi.
- Cô hãy cầm lấy cuốn này, hay hơn. - Anh nói nhỏ.
Tôi nhận và cảm ơn, mặc dầu cảm thấy đôi chút ngượng ngùng... Tôi biết chứ, tôi biết rằng anh đã phát hiện ra tôi đọc lung tung. Anh đưa sách cho tôi, không nói gì thêm, chỉ mỉm cười, rồi quay sang một người đọc khác. Mỉm cười thường làm cho ai đó trở nên thân thiết với ta một cách kỳ lạ. Đã từ lâu tôi ngạc nhiên không thấy có phương ngôn nào về tình bạn nói rằng: “Chúng tôi mỉm cười với nhau” như người ta hay nói: “Chúng tôi chia cơm sẻ áo cho nhau”.
Cuốn sách anh đưa cho tôi là một tập thơ. Thơ của Henrích Hainơ.
Lần sau tôi đến, giữa chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện nhỏ nhẹ và khác thường. Khác thường riêng đối với hai đứa, vì nếu ai đó đi ngang qua sẽ chỉ nghe thấy chúng tôi nói về sách, và đó là đề tài mà người ta thường nhắc đến trong các thư viện.
Nhưng trong khi bàn chuyện văn học, chúng tôi đã nói được nhiều điều hơn người ta tưởng.
Và mỗi lần tôi ra về, câu chuyện dường như bị bỏ lửng giữa câu với ba dấu chấm. Phải, cả hai chúng tôi luôn luôn cố ý để dở dang lời nói cuối với những dấu chấm lửng. Như thế chúng tôi mới dễ dàng nối lại cuộc chuyện trò hôm trước phải tạm dừng: “Về vấn đề bữa trước cô - hay anh - nói về Tônxtôi ấy mà.”.
Ôi chao, chúng tôi đã bàn luận đủ thứ về Tônxtôi, về Hainơ, về Đôxtôiépxki và về... ồ vâng... về những gì chúng tôi vừa đọc. Ngoài ra, dạo đó tôi đang bị cơn sốt Đôxtôiépxki choàng lấy, tôi không thể diễn tả bằng từ khác được, quả đúng như một cơn sốt, có thể bạn cũng từng biết đấy. Tôi đã say mê nhà văn đó đến mức ít nhiều mê mẩn cả người, ông làm tôi rung động tận đáy lòng, ông theo tôi mọi ngả với nỗi cuồng nhiệt đắng cay của ông, xua tan trong tôi những niềm vui bình dị; ấy vậy mà tôi chẳng thể rời bỏ ông.
Lần đó anh đã không để cho tôi mang về một cuốn sách nào của Đôxtôiépxki. Anh làm ra vẻ như một bác sĩ uyên thâm, và vừa ấn vào tay tôi một tác phẩm của Đíchkenx, vừa giải thích:
- Rất lành mạnh. Cô đọc Đôxtôiépxki như thế là đủ rồi. Để bù lại, cô nên đọc Đíchkenx, tốt hơn.
- Anh đã quá quan tâm đến sức khỏe của tôi. - Tôi nói đùa.
- Vâng, - anh trả lời, hoàn toàn nghiêm trang, thái độ ấy làm tôi lúng túng, - đối lại với Đôxtôiépxki, đọc một số nhà văn khác rất có lợi. Thí dụ Mác Tuên. Có điều Mác Tuên lại không có đây.
- Vậy ông ta ở đâu?
- Ông đi xa.
- Xa lắm ư?
- Vâng, rất xa. Như mọi người đều biết.
Tất cả những con người này đã chết rồi sao? Điều đó không đúng, họ đang sống và làm những chuyến đi xa, như Mác Tuên. Và chúng tôi chờ đợi họ trở về, và chúng tôi hỏi họ tất cả những điều muốn hỏi, và chúng tôi chìm đắm trong tình yêu. Chúng tôi yêu nhau, chúng tôi yêu họ.
Phải, chúng tôi yêu nhau, nhưng đây là một chuyện tình hiếm thấy nhất, thoảng nhẹ nhất mà tôi từng biết. Tôi cũng có những đứa bạn gái, tất cả chúng nó đều đang yêu và được yêu. Yêu đương với lứa tuổi này chẳng qua là một cái gì không thể thiếu. Và chúng nó kể mới hay làm sao: “Thế rồi anh ấy bảo tớ có đôi mắt đẹp nhất thế gian”. Tôi biết kể gì được?. “Thế rồi anh ấy nói Puskin có một bài thơ mà chắc chắn tớ sẽ rất thích”. Tôi ngại trả lời, vì thế nào cả lũ cũng rộ lên cười, bởi thế tôi im lặng. Nhưng tất cả những điều đó... tuy không phải dễ mà có, song giả sử anh đã tán tụng rằng tôi có cặp mắt tuyệt nhất trần đời, thì nó sẽ mãnh liệt hơn, minh bạch hơn.
Tôi nhận thấy anh nóng lòng đợi chờ tôi đến. Mỗi khi tôi đẩy cửa bước vào, anh đón tôi với ánh mắt mong mỏi và vui sướng. Tôi cũng không biết nữa, những lời nói quả là quá nghèo nàn không thể diễn tả nổi một cái gì hết sức thầm kín, không thể thốt ra lời như vậy. Tôi diện chiếc váy đẹp nhất của mình mỗi khi đến thư viện, vâng, tôi bắt đầu đến đó vào một điểm thời gian hoàn toàn cố định, quãng từ 5 đến 6 giờ chiều thứ tư. Thứ tư mọi tuần. Và thứ tư nào, anh cũng có mặt.
Bạn cho rằng một người chẳng tài nào đọc quá nhiều sách phải không? Đúng thế, tôi đâu có đọc tất cả. Nhưng tôi đọc tất cả những cuốn sách mà anh đưa thêm cho tôi. Và có điều gì mà ta không thể biểu lộ được qua sách? Ta không nhất thiết cần phải nói, bởi thật ra đã có người khác bày tỏ hộ tất cả, đó là các nhà văn, nhà thơ. Một anh chàng coi thư viện biết làm thế nào, nếu Puskin đã tâm sự:
Thay từ ông thông thường trống rỗng,
Nàng vô tình thân thiết gọi anh.
Khơi lên bao ưốc mơ sống động.
Trong trái tim say đắm nhiệt thành Trước nàng, tôi đâm chiêu đứng lặng.
Ảnh mắt không rời nổi vẻ yêu kiều Tôi thốt lên: “Chao, cô đẹp lắm!”.
Nghe tận đáy lòng: “Yêu em biết bao nhiêu”.
Và mảnh bìa đánh dấu nằm ngay trên trang thơ, người giữ thư viện biết làm gì hơn được. Vả chăng cũng là ngẫu nhiên nốt, khi kẻ vừa đọc những vần thơ trên lại đặt mảnh bìa vào một chỗ khác, nơi nhà thơ thủ thỉ: “Trái tim em cất tiếng chào anh nồng nhiệt dịu dàng”.
Mặc dầu tôi đã đọc cuốn sách, lần sau tôi vẫn lại nhận được nó. Có thể là do quên lắm chứ? Ồ, không, đâu phải chuyện quên. Không làm gì có một lời tỏ tình yêu đương nào được thốt ra lại rõ ràng đến thế, làm gì có! Rồi một lần chúng tôi đã chạm trán nhau ngoài phố, chúng tôi gật đầu chào nhau. Có điều tôi không đi một mình, tôi đi xem phim với một chàng trai cùng xóm. Thật ra tôi hoàn toàn dửng dưng với tất cả những thứ đó, cả anh thanh niên với bộ phim, có cái gì chán ngắt và tầm thường thế nào ấy. Nhưng lũ bạn gái đã làm tôi bực mình với những chuyện yêu đương vớ vẩn của chúng, và tôi đã nhận lời mời đi xem. Giá như tối đó lại không chính là tối thứ bảy, thì tôi đã đến thư viện chưa biết chừng.
Thế là tôi lại nhận được tập thơ Puskin và đọc. Mảnh bìa đánh dấu vẫn nằm nguyên nơi tôi đã đọc nó lần trước, và dòng dưới những lời chào từ trái tim!
“Em có tha thứ cho anh những ưốc mơ ghen tuông Và tình yêu của anh điên rồ, xúc động?
Em chung thủy vối anh, vì sao em luôn thích Khiến trái tim anh hoảng sợ, hỡi em?”.
Tôi bật cười và vui vẻ, tôi thấy hân hoan và nhẹ nhõm biết bao. Tôi đặt mảnh bìa lại chỗ cũ... bây giờ, với tôi thế nào cũng được.
Câu chuyện có sức hấp dẫn đặc biệt. Chúng tôi mỗi ngày thêm thân thiết nhau hơn, nhưng chưa một lần nào đá động đến cái gì khác ngoài những cuốn sách. Thậm chí một lần trong lúc trò chuyện anh đã quàng tay lên vai tôi, rồi vừa cười vừa lay khẽ người tôi, nhưng bỗng nhiên anh hốt hoảng. Có phải anh sợ rằng anh đã đi quá xa? Và anh xin lỗi tôi. Tôi xúc động, buồn vui khác thường. Và mỗi lần đến thư viện, tôi đều đọc thấy vẻ xúc động tương tự trong cặp mắt anh, nó lộ rõ trên đôi tay luống cuống của anh, và chúng tôi dần dần trở nên ít nói. Có thấy gì đó đã đến lúc phải xảy ra, có cái gì đó phải thay đổi. Dạo ấy là mùa hè... Chúng tôi đứng trước những giá sách và không biết phải làm gì. Có thể nguyên do là ở chỗ tôi ít tuổi hơn anh khá nhiều. Đôi lúc anh gọi tôi là “bé con thân mến của tôi”, nhưng nếu vậy thì lẽ ra anh đã không được phép đưa thơ Puskin cho tôi mới phải. Cũng có thể chúng tôi đã quá mê mải thơ ca, để giờ đây chúng tôi thiếu ngay một câu văn xuôi đơn giản như thế này: “Em có muốn đi chơi với anh vào thứ bảy không?”.
Chao, đó chính là lời văn chúng tôi đang cần hơn lúc nào hết, và không có nhà thơ nào lại đi viết cụ thể như thế.
Tôi nghĩ nát óc, tự hỏi vì sao mọi sự cứ đứng yên tại chỗ, và dần dần mất hết kiên nhẫn. Tôi buồn.
Phải, tôi tự nhủ thầm, chính anh ấy không muốn đó thôi; và rồi, do ít nhiều rối trí dưới ảnh hưởng của mọi thứ thơ văn, không hề suy nghĩ nghiêm túc, tôi đã toan rời xa thành phố này mãi mãi. Nhưng cả ý đồ ấy cũng chẳng giúp được gì, ngay thứ tư sau đó tôi đã lại mong ngóng, hy vọng, tôi khẩn khoản trong thâm tâm: “Anh hãy nói gì đi chứ, cuối cùng thì anh cũng phải nói gì đi chứ!”.
Và sau đó tôi đã, vâng, xin thú thực với các bạn, tôi dã đánh cắp một cuốn sách. Không, thực ra tôi đã không đánh cắp nó theo đúng nghĩa của từ ấy, tôi chỉ
không đem trả lại, không trả ngay, mà mãi về sau khi ấy thì...
Nhưng đầu đuôi thế này. Sau hết tôi đã đi đến một quyết định mà theo tôi có thể thực hiện được. Tôi định bụng sẽ tìm cách làm cho anh ấy hiểu rằng đã đến lúc anh phải hành động, bởi rốt cuộc thì chỉ riêng văn học thôi không đủ, dẫu ta có ngưỡng mộ Puskin đến mấy. Và tôi phải làm ngay hôm nay. Phải bắt đầu ngay thôi. Tôi vận chiếc áo màu xanh da trời có cái cổ trắng rộng bản, bôi chút xíu sáp môi, rồi đi. Chắc hẳn tiết trời đã sang thu, song tôi còn đâu tâm trí mà để ý. Con đường dẫn đến thư viện tưởng chừng dài vô tận, ấy vậy mà vẫn quá ngắn. Tôi tới nơi, tim đập dữ dội, đôi môi khô lại vì xúc động.
- Hôm nay, - tôi nói quả quyết, tôi vẫn cho rằng giọng nói của tôi lúc bấy giờ hoàn toàn cứng cỏi, - hôm nay tôi không muốn mượn cuốn sách nào nữa.
- Không à? - Có cái gì kinh ngạc và thất vọng vang trong tiếng anh hỏi. Tôi chỉ cảm thấy có thế.
- Không.
Rồi sao nữa? Thật ra tôi đã muốn nói điều gì với anh nhỉ? Trước đó tôi còn biết rõ lắm, nhưng giờ thì tôi đứng đó, ngay trước mặt anh và chịu chết. Anh chỉ chăm chú nhìn tôi, nhưng ánh mắt ấm áp của anh phỏng giúp được gì cho tôi? Tôi thấy nghẹn ở cổ.
- Rốt cuộc thì người ta không thể cứ đọc mãi mọi thứ linh tinh, phải không anh?
- Đúng thế. - Anh cười. Có cái gì đáng cười ở đây? Cười tôi ư? Đôi mắt anh ánh lên vui nhộn. À thì ra thế? Một trò đùa? Chứ cái gì khác nữa? Anh không nói gì thêm. Anh đặt một cuốn sách trước mặt tôi. Một cuốn sách!
Tôi không nhớ mình đã trở về nhà như thế nào. Chỉ nhớ rằng lần đó tôi đã đón nhận vào lòng mình cả mùa thu đang về, mùa thu phảng phất mùi lá cây úa, hừng hực sắc màu, mùa thu với những làn gió thoảng, thơm dịu đúng ra có thể làm ta phấn chấn; ấy vậy mà với tôi, mọi vật đều chan chứa buồn.
Tôi có cảm giác trong lứa tuổi này tâm trạng con người thực dễ thay đổi, với tôi cũng vậy. Trong phút này đây tôi thấy xấu hổ, phút sau tôi lại đã nổi giận, rồi tiếp đó là một nỗi buồn man mác bao trùm lên tôi, tất cả đều khoác màu tuyệt vọng, và tất cả những điều đó tôi vừa đọc bỗng len vào toàn bộ ý nghĩ của tôi. Tôi trở nên suy tư.
Tôi không mó đến cuốn sách. Tôi quẳng nó vào một góc và mặc nó nằm đấy. Ít hôm sau tôi cất cuốn sách đi, bởi hễ nhìn thấy nó là tôi lại buồn bã, nó cứ nhắc tôi nhớ đến anh.
Thời gian trôi qua. Đó là quãng thời gian tôi dùng để nghỉ ngơi sau khi đã đọc có lẽ là quá nhiều, bằng cách ngẫm nghĩ về những cuốn sách và đưa chúng vào mối quan hệ nhất định với cuộc sống. Khi rảnh rỗi, tôi dạo qua các công viên trong thành phố, dừng chân đây đó và suy nghĩ, suy nghĩ nhiều, suy nghĩ rất lung.
Tôi không trở lại thư viện nữa. Tôi bắt đầu mua sách cho mình. Đó là những cuốn sách còn thơm mùi giấy mới, chưa từng qua tay anh. Với tuổi 17 con người ta lạ lùng thế đấy. Mặc dầu vậy, trong suốt một thời gian dài, mỗi khi cầm một cuốn sách trên tay, tôi vẫn cứ nghĩ đến anh. Điều đáng ngạc nhiên là không vì thế mà tôi mất đi cái thú đọc sách, nó chỉ đem lại cho tôi một chút thoáng buồn riêng tư.
Có lẽ đối với tất cả những người đứng tuổi, điều tôi kể thực đáng buồn cười. Họ quên đấy thôi. Bởi có ai trong bọn họ đã chẳng một lần như thế. Và giờ đây họ buồn cười, âu là vì họ đã quên đi.
Tôi vẫn đọc, hay nói đúng hơn, tôi lại đọc nhiều. Duy có cuốn sách anh đã trao cho tôi thì vẫn còn nằm đó, tôi không đụng đến. Cuốn sách không thuộc quyền sở hữu của tôi, và lương tâm tôi cắn rứt, nhưng tôi không đủ sức trở lại con đường dẫn đến thư viện. Tôi hiểu rằng khi đưa trả cuốn sách chính là lúc rứt đứt sợi dây cuối cùng. Nhưng đồng thời dường như tôi không thể chịu đựng nổi, tôi tin như vậy, việc gặp lại anh và lại nhận sách từ tay anh một lần nữa, rồi một lần nữa, cho đến mãi mãi.
Tôi chỉ hơi lạ vì chưa thấy giấy báo đòi sách. Nhưng rồi cũng chẳng có cái giấy nào cả. Vậy là cuốn sách không được đọc cứ nằm đó, nằm rất lâu, mặc dầu tôi rất áy náy.
Biết bao nhiêu sự việc đã diễn ra trong thời gian ấy. Chúng tôi dọn những ngôi nhà đổ, xây vào đó những ngôi nhà mới. Cuộc sống trở nên hồ hởi hơn, và có biết bao việc phải làm, bao điều phải học. Người ta phải phân chia thời gian đâu ra đấy. Chiếc váy xanh chấm trắng của tôi đã được thay bằng một chiếc khác đẹp hơn. Không, tôi chẳng quên đâu, nhưng tôi không muốn cứ buồn mãi về chuyện cũ đã qua. Có nhiều cái mới mẻ kia mà.
Chúng tôi chuyển nhà. Trong lúc dọn dẹp và gói ghém đồ đạc, tôi lấy lại cuốn sách. Nó vẫn còn đem đến cho tôi đôi chút buồn rầu. Nhưng câu chuyện xảy ra đã lâu lắm, vả lại thời gian trôi qua, nó đã được quyết định dứt khoát. Thế là tôi cương quyết đem trả cuốn sách. Ra tiếp tôi là một người giữ thư viện già. Tôi đã thất vọng chăng? Tôi trình bày với ông, không hoàn toàn đúng với sự thật, rằng cuốn sách đã từng biến mất, rằng tôi đã quên nó... ai nhớ là tôi còn nói những gì.
Ông lão lục lọi trong thư mục hồi lâu, và quay trở ra, vẻ mặt ngạc nhiên. “Cuốn sách này, - ông nói với tôi, - đã được ai đó trả tiền lâu lắm rồi, bởi nó đã rách hỏng hoàn toàn và vì thế cũng đã được xóa khỏi thư mục”.
- Nhưng nó còn đây kia mà. - Tôi bảo ông.
- Nhưng không phải của chúng tôi. - Ông lão đáp - Nó đã được trả tiền và gạch đi rồi.
- Ai trả ạ?
- Nào tôi biết. Nó không phải là sách của chúng tôi.
- Nhưng cũng không phải của tôi.
- Tôi rất tiếc, - ông lão nói, - nhưng đó đâu có phải là việc của chúng tôi. Cuốn sách không có tên trong thư mục.
- Vậy ông không thể giữ nó được ư? - Tôi thử nài.
- Chúng tôi không nhận sách tặng như thế này đâu. - Ông lão trịnh trọng trả lời - Có lẽ tôi phải trình bày với ban giám đốc.
- Không. - Tôi vội nói - Không, nếu vậy tôi xin lấy lại.
Bởi vì, với tôi chỉ còn thiếu có nước ấy nữa thôi! Tôi nhét cuốn sách vào túi. Không có gì đã được dứt khoát. Vậy là anh đã trả tiền cuốn sách. Vậy là anh đã tặng tôi.
Tôi ngồi trên một chiếc ghế dài dưới ánh nắng mặt trời và lôi cuốn sách ra. Tôi muốn biết cuốn sách mà mình đã được sở hữu một cách bất ngờ là cuốn sách gì, và tôi mở nó ra. Một mảnh giấy kẹp trong đó. Một mảnh giấy gấp tư.
Tôi ngồi lặng hồi lâu. Rồi tôi giở mảnh giấy nhỏ:
“Thứ bảy, - trên giấy viết, - “lúc 18h30. Trước thư viện. Nếu cô vui lòng”. Và ở phía dưới, dường như sau đó anh đã ghi thêm, xúc động và vội vã: “Mong em nhận lời!”.
Có thể các bạn sẽ cho tôi là điên rồ, song vào thứ bảy sau đó, tôi đã đến chỗ hẹn. Tôi chờ anh suốt một tiếng đồng hồ, như anh có lẽ đã ngóng trông tôi. Dĩ nhiên chẳng có ai đến. Ai là người có thể chờ đợi ròng rã hết năm này sang năm khác vào mỗi thứ bảy, lúc 18h30, trước một thư viện cơ chứ.
Tôi mỉm cười trên đường về nhà, và có cảm giác dường như hết thảy những người tôi gặp đều mỉm cười. Mà sao lại không nhỉ?
Thành phố bị bom tàn phá đã được chúng tôi xây lại hoàn toàn mới. Thành phố lại mở ra với những phố xá rộng rãi nhộn nhịp, sôi nổi và ngập tràn ánh sáng, có điều nó đẹp lên, đẹp lên rất nhiều.
Vũ Hương Giang dịch
HẾT