← Quay lại trang sách

Chương I

T rời chợt bắt đầu trở gió may lành lạnh. Lá vàng rơi bay lả tả còn lăn theo chiều gió từng đợtmấy vòng, rồi mới chịu nằm ép gí bên vệ đường. Không khí khô ráo và trong sáng. Cảnh vật tuy đã chớm sang đông, vẫn đột nhiên có những lúc đẹp lạ lùng với bầu trời heo may khô nhẹ như thế này, có nắng hanh vàng, có đàn chim bay liệng, nó dễ gợi mối cảm hoài cho những ai đang nặng một niềm tư lự. Ánh mặt trời xế chiều soi ngả bóng ba người từ trong chùa Liên Trì đi ra thành ba cái vệt dài in lên trên nền chùa xây nhiều cấp leo qua cái cầu cuốn trước cửa chùa, và cứ loang loáng rút dần, rút dần ra đến cửa tam quan, rồi vút một cái, ba vệt bóng ngả bắt ngang ngay sang chân ngọn tháp phía bắc, vun vút chéo qua đường, lướt lên trên một tấm mạ sớm xanh rờn óng mượt. Cho mãi đến khi ba người qua khỏi cổng ngoài, ba vệt bóng tự nhiên chập ngay lại làm một, thành một vệt đậm, ngả trên tấm ruộng theo phía tây nam: ba người cùng đứng lại nhìn ngắm ngọn tháp Hòa Phong đang tắm ánh vàng rực rỡ, ngọn tháp vuông vắn, chồng lên nhau hai tầng, sừng sững đứng ngang bên đường Thập Lý 1 , chạy sát ven hồ, đầy cỏ xanh bò lăn ra vờn mặt nước lăn tăn, lóng lánh. Trông tháp nhìn hồ, một người trẻ nhất trong bọn vui vẻ chỉ tay về phía trước, nói:

- Lúc này ngắm cảnh Hồ Gươm thật là đẹp. Lại may mắn được gặp lão huynh đây chỉ dẫn thêm cho ít nhiều điều lạ về nơi thắng cảnh Long Thành này thì tuyệt…

Cái ông trung niên, khăn lượt chữ nhân quấn trùm kín búi tóc, áo vải giãi hạt cau dài quá giữa ống chân để hở múi thắt lưng điều buông thõng xuống đung đưa, giơ tay chỉ vào cái quán bên đường, nói:

- Xin mời chư huynh vào ngồi chơi ở cái quán góc hồ kia mà thưởng thức thì vừa được tùy thích cả.

Ông ta ngước mắt hỏi người nhiều tuổi, tóc đã điểm bạc:

1. Con đường từ Hàng Đào qua Cầu Gỗ vòng phía đông bờ hồ xuống đến Bạch Mai rồi chặp vào đường Thiên Lý.

- Thưa lão huynh có được chăng?

Ông già cười đáp:

- Xin vui theo mệnh các hiền hữu.

Ba người liền bước ra đường cái, luồn qua tháp Hòa Phong, rẽ về ngã tư Hàng Khay. Ở đây, bên này đường, có một cái quán duyên dáng một mặt trông ra hồ, một đầu quay sang phía chùa Quan Thượng. Quán lợp gianh cột gỗ, vách trát đất nề vôi trắng, mỗi cột đều có dán câu đối đỏ, trông có vẻ khang trang, mát mẻ. Khách vừa vào đến cửa, chủ quán đã đon đả ra chào mời vào và lăng xăng chạy đi thu dọn một chỗ lịch sự nhất để mời riêng ba người, ngồi ở đấy vừa tránh được chiều gió lộng, vừa trông thẳng được ra mặt hồ. Ông già ngồi lên tấm phản quang dầu, nhìn quanh gian quán và ngắm nghía chủ quán. Bác chủ người tầm thước, mặc áo nái nhuộm nâu năm thân cài khuy vải ở bên ngực và dưới nách, quần nái mộc giặt trắng, khăn lưng lụa xanh buông thõng bốn múi, đi đứng hoạt bát, nói năng lễ phép, ra vẻ khéo chiều khách mà không có gì xun xoe, bợ đỡ. Ông già ra chiều ưng ý, hỏi như nửa đùa nửa thật:

- Trông bác quán đây ra vẻ hào hoa phong nhã lại có lắm thơ và câu đối thế này, tất là một tay danh sỹ?

Chủ quán đứng chắp tay “dạ” một tiếng, rồi kính cẩn đáp:

- Bẩm lão tiên sinh, có cậu ấm 1 Ba con đây biết, hạ dân chúng con là người ở tổng dưới đây, trước có đi lại hầu hạ cụ lớn nhà, ăn mày được dăm ba chữ võ vẽ thôi ạ. Còn từ khi mở quán bán hàng ở chỗ này, hễ gặp các bậc danh sỹ tài ba là con xin các ngài đề tức cảnh cho cửa hàng con thêm duyên… Bẩm tiên sinh, đều là chữ của thiên hạ cả.

1 . Con quan gọi là cậu ấm.

Người trẻ tuổi, tức cậu ấm Ba mà bác chủ quán vừa nhắc đến, nói xen vào:

- Thưa lão huynh, bác Phúc đây người ở dưới thôn Phúc Lâm, ra mở cái quán này đã được hơn mười năm rồi. Hồi sinh thời, thỉnh thoảng thầy tôi cũng thường rủ mấy ông bạn ra đây chơi.

Ông già cười:

- Thế ra cũng là bạn đồng môn nhà ta cả. Cùng anh em cả.

Cậu ấm Ba quay lại giới thiệu luôn với bác chủ:

- Lão huynh tôi đây là một bậc kỳ sỹ, người Tam Sơn bên Đông Ngàn tỉnh Bắc, học rộng đỗ rất sớm, nhưng không màng danh lợi… Có lẽ đến hơn chục năm nay ngài mới trở lại đất Long Thành này, nên hôm nay mới có dịp ra thăm quán bác đây. Còn ông bạn làng Vẽ này và tôi thì quen mặt quá ở đây rồi.

Chủ quán chăm chú lắng ghe rồi để ý nhìn kỹ ông già. Khuôn mặt quắc thước với bộ râu ba chòm lưa thưa khiến cho cái miệng lúc nào cũng tươi cười, đôi con mắt sáng lanh lợi chớp chớp dưới vành khăn tam giang vấn rối trên trán càng làm cho người ta cảm thấy tỏa ra cái nhìn hiền từ và sâu xa; ông mặc cái áo dài vải đồng lầm đã sẫm màu, cái quần nái nhuộm đỏ chướt nâu, đi đôi giầy Tàu vải đen; tất cả phong độ bề ngoài có vẻ thanh thản, tiên phong đạo cốt, dễ gần gũi với mọi người. Sẵn có cảm tình ngay với con người giản dị ấy, lại được cậu ấm nói rõ lai lịch như thế, bác quán vui mừng reo lên:

- May quá, thật là vạn hạnh, tệ xá được đón tiếp lão tiên sinh.

Ông già vội đỡ lời:

- Bác chủ ạ, không những tài hoa như cậu ấm Ba đây, hậu sinh khả úy mà thôi, cậu lại còn là thế huynh 1 của tôi…

1 . Thế huynh: tiếng dùng để gọi con trai thầy học của mình ngày xưa.

Quay sang phía cậu ấm trẻ tuổi, ông nói rành rọt như phân bua:

- Như thế là thế huynh nói quá đấy nhé! Tôi có làm gì mà đáng gọi là kỳ sỹ. Chẳng qua là một tên học trò hèn mọn của Lỗ Am tiên sinh nhà, đi phiêu bạt vắng, không kịp về chịu tang thầy, nay mới trở về được, vội lên viếng mộ thầy, rồi thế huynh lại quá yêu cho ra đây chơi thăm cảnh cũ, lại hóa ra may mắn được gặp thêm bạn đồng môn.

Chủ quán càng thêm phấn khởi nói ngay:

- Thế thì hôm nay nhà cháu phải xin tiên sinh một bài thơ mới được.

Ông già Tam Sơn lắc đầu:

- Đã là đồng môn thì còn cháu chắt với tiên sinh gì nữa kia chứ. Nhưng này, tôi không giỏi làm mà lại hay bẻ thì sao?

Chủ quán càng vui, đỡ ngay lấy:

- Vâng, xin lão huynh cứ chỉ giáo cho. Rồi xin có hai cậu ấm nói giúp, thể nào lão huynh chả rộng bút ban cho nhà cháu, à quên cho đệ được nhờ lộc. Xin rước chư vị tôn huynh xơi trà, đệ xin đi sửa soạn món nhắm để các vị thưởng thức rượu, có thứ rượu cúc ngon.

Rồi bác lui ra đi xuống nhà dưới, bảo người nhà bưng nước trà nóng lên. Ông ấm Vẽ nói khẽ, với một vẻ chân tình:

- Bác quán đây là người thật thà. Xin lão huynh cứ nhẩn nha ở đây, vừa ngắm cảnh, vừa nói rõ sự tích những cảnh trí nơi này cho hậu sinh tiểu đệ được biết thêm. Nói chuyện ngay tại chỗ mới thú.

Ông già cười, hỏi lại, chuyển theo ý đang nghĩ:

- Hai hiền hữu xem đôi câu đối của quan Nghè Du làm treo ở cột giữa kia và bài từ ở bức hoành phi gian giữa kia, thấy thế nào?

Cậu ấm Ba quay lại nhìn và đọc to:

- “Cầm thư cung kiếm, nhân nan cựu; phong nguyệt hồ giang, cảnh dị tân” 1 .

1. Đàn sách, kiếm cung, người bây giờ khó được như trước; gió giăng, hồ sông, cảnh dễ đổi theo mới.

Rồi nói ngay:

- Hay đấy chứ, trông cảnh lại nghĩ đến người, man mác một niềm hoài cổ!

Ông già cười:

- Thì có ai dám chê câu đối của quan Nghè đâu. Nhưng tôi muốn hỏi xem ý của người làm với cảnh bên ngoài, ta thấy thế nào? Cũng cảnh như thế, cũng ý như thế, và vẫn dùng những chữ ấy thôi, các hiền hữu thử nghĩ xem có thể chữa khác đi không?

Cậu ấm Ba cãi ngay:

- Của người ta hay rồi, đủ cảnh, đủ ý, đệ không dám chữa, mà đệ có làm thì ý lại khác.

Ông ấm Vẽ nói:

- Tôi thấy hay thì có hay, nhưng cũng không hoàn toàn đúng cả với cảnh và người ở đây. Theo ngu ý, đệ xin chữa mấy chữ: “Cầm thư cung kiếm, nhân giai dị; phong nguyệt, hồ giang cảnh dĩ phi!” 1

1 . Đàn sách, kiếm cung, người đều lạ; gió giăng, sông hồ cảnh đã khác.

Ông già thủng thẳng nói:

- Công tử Đông Ngạc cũng hơi quá. Người bây giờ không phải là khác lạ cả đâu, mà cảnh cũng không đến nỗi sai trái khác hẳn trước không còn phải là cảnh quen nưa. Cảnh là do người. Nhưng theo ngu ý, câu này còn khả thủ hơn câu của quan Nghè. Bởi vì quan Nghè cho là người thời bây giờ kém, khó được như người xưa, mà cảnh thì rất dễ thay đổi, nó cứ đổi mới, có cần gì đến người, mọi việc đều phó mặc giời cả…

Ngừng một lát, ông trầm ngâm nói tiếp:

- … Mà cái lạc khoản “Tân vị khoa Tiến sỹ” kia, với tiếng tăm văn học của nhà họ Nguyễn Du Lâm, dễ lung lạc người ta lắm. Nhưng thực ra, bây giờ hay chữ chỉ biết có hay chữ, giỏi văn chỉ biết có giỏi văn. Còn ai có nghĩ gì khang khác thì cho là sai cả. Lục tỉnh Nam kỳ mất đi không cần biết đến, phỉ Khách hoành hành ở phía bắc, dân tình đói khổ phải đi phu đài tạp dịch, bọn Tây dương dòm ngó ngoài khơi, cũng không biết đến, thì tất nhiên cảnh dị tân , dễ đổi mới chứ gì?

Ông hỏi rồi nói ngay:

- Cho nên tôi e rằng đã phó mặc giời thì cũng dễ sinh ra tùy kệ người thôi. Còn cái bài từ trên bức hoành kia của quan Tam nguyên cùng khoa với quan Nghè, vần chỉnh đối hay, cũng đủ cảnh hồ, nặng lòng hoài cổ, nhưng làm sao ý cũng mờ mờ không rõ?

Chợt chủ quán đi vào, ông già hỏi ngay:

- Bài từ kia viết từ bao giờ thế, chủ nhân?

Chủ quán tươi cười lễ phép:

- Bẩm lão huynh, cái hồi năm Dần trước, đệ vừa mới sửa sang lại cửa hàng, nhân gặp quan Tam nguyên tỉnh nhà lên chơi quan Đốc học, quan có ra đây, đệ được dịp xin một bài thơ, quan viết cho bài từ này, vì thế vẫn còn chữ đề “Giáp Tý khoa giải Nguyên”. Năm ngoái, quan nghè Du Lâm qua đây cho đôi liễn này, đệ nhờ quan Nghè viết thêm vào mấy chữ mới “Sắc tứ Tam nguyên Nhị giáp Tiến sỹ ” cho đúng với thanh danh quan bây giờ.

Ông già khen:

- Bác nghĩ như thế rất phải. Sở dĩ tôi cần hỏi là để biết rõ bài từ này làm vào thời gian nào. Quả là bài này cũng giống như đôi liễn kia, có nỗi nặng lòng vì nỗi biến thiên đất nước, nhưng cũng đều quy là tại giời cả, vầng giăng cứ khuyết lại tròn, tuy có nghĩ rằng suy rồi lại thịnh, bĩ cực thái lai. Nhưng đây vẫn là việc đâu đâu, không nhất thiết phải có ta vào đây. Những bậc tài hoa, danh vọng được nhĩ mục quan chiêm 1 còn nghĩ thế. Huống chi là những kẻ dung tục như chúng ta càng dễ tìm lối yên thân. Cái lệ nhà nho chúng ta thường chuộng khẩu khí, thành ra đôi khi danh bất phó hồ thực. Nhưng văn tức là người thì cũng cần xét đến tâm sự. Mà về tâm sự, chỉ cần xem cảm nghĩ đối với sự đổi thay, hưng phế.

1 . Mọi người đều thấy. (BT)

Tất cả chú thích đề BT trong sách này đều là của người biên tập. (BT)

Chúng ta không chê trách văn chương, bới lông tìm vết, không cầu toàn trách bị. Có điều chắc các hiền hữu đều biết là quan Tam nguyên và quan Nghè đều thi đỗ khoa Giáp Tý trường Hà này 1 .

1 . Khoa Giáp Tý trường Hà là khoa thi năm 1864. Thi ở Hà Nội.

Cậu ấm trẻ nóng ruột hỏi ngay:

- Khoa Giáp Tý thì sao ạ?

- Ấy, khoa Giáp Tý có một chuyện lạ ở ngay quanh Hồ Gươm này, chắc nhiều người còn nhớ. Khoa ấy có cuộc náo trường lớn. Mấy nghìn sỹ tử không vào thi mà kéo nhau đi quanh hồ, qua trường, thẳng ra nhà học chính đường, vòng ra Văn Miếu, rồi tỏa ra các phường phố, các làng, dán những bài văn, những câu thơ, câu đối vào bờ rào trường thi, ở các ngả đường, để chỉ trích bản hòa ước năm Nhâm Tuất bán nước nhục vua. Đó là một hành vi nghĩa khái, tỏ ý chí bất bình của toàn dân, của sỹ khí trước cái nhục lớn lao của cả nước. Bảo là của toàn dân, là vì hồi ấy không hẹn mà lên, khắp cả các trường thi hương Thừa Thiên, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định đều cũng có náo trường cả như vậy. Nhưng ở đây quyết liệt hơn cả. Ấy thế mà rồi bùi tai nghe các quan tỉnh dụ dỗ và hứa hẹn, mấy hôm sau ;số đông sỹ tử lại vào thi, để mặc cho quan trên bắt đi một số anh em. Vậy thì khoa ấy, quan Tam nguyên đỗ giải Tam nguyên và quan Nghè đỗ Tú tài, để mấy anh em như thầy khóa Phạm Gia Tự người cùng làng công tử Đông Ngạc, chắc công tử đã rõ, thầy khóa Tự bị đánh trượng 100 gậy, tù khổ dịch một năm. Và thầy Bá hộ Đỗ Quang Định bị đánh trượng 70 gậy, cách tuột phẩm hàm, trả về dân tịch, vì đã về hùa với sỹ tử đi khua múa. Một người ở ngoài sỹ lâm còn biết làm như thế. Cho nên khi ấy, nhiều người không muốn vào thi. Trước một vụ có quan hệ đến nho phong sỹ khí 1 như thế mà mình dửng dưng được, thì cái lòng dài thở vắn than kia cũng thành thở than suông. Tôi e rằng lâm sự rồi cũng đành khoanh tay ngậm ngùi mà thôi! Tôi hay cả nghĩ vì như thế. Đó cũng là một cái bệnh lẩn thẩn. Các hiền hữu nên thể tất cho tuổi già dễ sinh lẫn cẫn. Và trong khi còn đang độ thanh xuân phơi phới, thiết tưởng các hiền hữu cũng cần tìm cho rõ mọi duyên do mọi sự đổi thay dâu bể, để thấy rằng mình cũng phải có phần trách nhiệm. ;

1 . Phong thể của nhà nho và khí tiết của kẻ có học vấn.

Chủ quán bê bình rượu vào, nghe nói đến sự đổi thay, cũng nói theo ngay:

- Thưa lão huynh, đệ bốc cư 1 ở ngay cạnh hồ, trong nhà lại thích treo những câu đối, thơ phú vịnh hồ. Nhưng nhiều khi người ta hỏi đến sự tích thì chỉ biết lõm bõm qua loa, nghe các cụ nói lại, chẳng ra đầu đuôi gì cả. Nay may được rõ lão huynh là bậc lão thành uyên bác, xin lão huynh cho đệ được phép nghe…

1 . Bói chọn chỗ ở.

Ông già nói một cách từ tốn, ôn tồn theo như thói quen của ông:

- Chủ nhân nói quá đấy. Chứ tôi cũng chả biết được gì hơn ai, lỗ mỗ điều được, điều chăng. Nhưng tôi có tìm hỏi và suy nghĩ nhiều, xin mạn phép được nói những điều tôi đã biết.

Chủ quán đã rót rượu vào một cái chén cổ, hai tay bưng đến đặt trước mặt ông già, kính cẩn nói:

- Xin rước lão huynh nếm thử cho trơn giọng.

Ông già đỡ lấy chén để lên miệng, tớp một ít, nhắp nhắp, rồi khà một tiếng, khen:

- Chà! Rượu cúc hảo hạng! Ngon thật!

Chủ quán thích chí, đứng xun xoe:

- Bẩm chí thành đợi khách đấy ạ. Xin lão huynh chiếu cố. Đừng cho là đệ ở quán hàng là dung tiện!

Ông già vội đỡ:

- Đâu dám thế! Chúng ta cùng là đệ tử của thầy, tin nhau ở tấm lòng, chứ đâu có phải vì rượu ngon.

Rồi ông nhanh nhẹn đứng phắt lên, đi ra ngoài hiên đông, đứng vịn vào cái duỗi suốt tre nối liền hàng cột, vẫy ba người cùng ra theo. Ông chỉ ra giữa hồ và nói thong thả, rành rọt, giọng ấm cúng:

- Ngày xưa, một nhà thơ đã viết:

Giăng xưa, nay vẫn sáng,

Dưới giăng, xưa những ai?

Và muôn đời sau nữa,

Lại những ai đứng đây?

Thì cái hồ đẹp nước trong xanh của chúng ta đây cũng vậy, nước hồ vẫn thế. Nhưng người đứng ngắm cảnh thấy chung quanh hồ có những cảnh hiện lên, cảnh mất đi, thì rõ ràng mỗi thời một khác, mỗi người cảm xúc một khác. Biết càng rõ cảnh thì cảm xúc càng sâu, mà càng thấy rằng con người có liên quan với sự tang thương của cảnh vật với những việc đau buồn ở đất nước. Lịch sử cái hồ này với câu chuyện thanh thần kiếm đem trả lại ở đây, sau mười năm bình định đuổi sạch quân Minh, vua Lê đã đánh dấu hồ này bằng một võ công anh hùng của cả dân tộc. Và hồ này cũng đã được chứng kiến bọn quân Minh nhục nhã đầu hàng, lùi lũi kéo nhau đi xuống phía nam thành, ở cái bãi rộng thuộc làng Phụ Khánh bây giờ, hội thề với quân vua Lê, để xin về nước. Rồi liền đó, hồ lại in bóng quân dân chiến thắng rầm rập kéo vào thành. Hồ vẫn trơ đấy. Mà thời kỳ oanh liệt nay không còn nữa… Và kia, giữa hồ, trên đảo hòn Ngọc kia, nhân dân kinh thành đã lập đền thờ những bậc tử vong vì nước, trong khi đánh đuổi giặc Nguyên. Đó lại là ghi nhớ một thời oanh liệt trước nữa. Về sau, trải qua mấy trăm năm bị chúa Trịnh chiếm giữ làm của riêng, sang đến bản triều, các quan tỉnh có tu bổ lại, rồi quan án Phương Đình 1 lấy danh nghĩa là người sở tại, đứng ra lập thêm đền thờ đức Văn Xương đế quân và dựng ra đài Nghiên, tháp Bút ở bên ngoài, tiêu biểu cho khoa cử của làng nho chúng ta. Và cũng làm đẹp thêm cho hồ.

1 . Phương Đình là biệt hiệu của Nguyễn Văn Siêu đỗ Phó bảng làm Án sát tỉnh Hưng Yên.

Ông già lại chỉ sang phía bờ đông và nói:

- Còn cái chùa Tàu ở bên thôn Bảo Linh kia cũng ghi dấu một thời oanh liệt từ đời Trần.

Bấy giờ Chế Bồng Nga là chúa Chiêm Thành hai lần đem quân thông thống vào đốt phá kinh thành, cướp của giết người, bắt đàn bà con trẻ đem đi. Sau Thượng tướng Trần Khát Chân đánh chém được Chế Bồng Nga ở sông Luộc. Triều đình cho lập đàn tế các chiến sỹ trận vong và nhân dân bị nạn ở chỗ nền chùa ấy. Sang đời Lê Hồng Đức, quân ta đi đánh Chiêm Thành thắng trận, lấy được số tượng gỗ, tượng đá đem về, nhà vua mới cho lập ngôi đền ở đấy để bày những tượng ấy quay chầu về hướng hoàng cung. Trong đền ở trong cùng có bàn thờ bốn vị thần là Thái hậu, Vương phi, và hai anh em vua Đế Bính nhà Tống chết trôi sang cửa Hội Thống và đã hiển linh giúp vua Lê đánh thắng quân Chiêm. Vì có tượng Phật, lại thờ bốn vị thần phương Bắc, nên dân ta mới quen gọi là chùa Tàu. Còn ở sát ngoài bờ hồ, trong làng Yên Trường kia là đền thờ Huyền Trân công chúa, ta quen gọi là đền Bà Chúa. Lại chùa Quan Thượng trước mặt đây, chúng ta vừa ở đấy ra, chính tên là chùa Liên Trì thì mới làm mấy chục năm gần đây thôi, cũng tô đẹp thêm cho cảnh Hồ Gươm này đấy chứ. Tuy có người đã chửi kẻ đứng ra làm chùa:

Phúc đức gì mày bố đĩ Giai,

Làm cho tổn Bắc lại hao Đoài!

Kìa gương Vũ đế còn soi đó,

Ngã tử Đài thành, Phật cứu ai? 1

1 . Ngã tử Đài thành: chết đói ở Đài Thành, Vũ đế nhà Lương là Tiêu Diễn, mộ Phật, xây nhiều chùa tháp, sau vì cận thần là Hầu Cảnh làm loạn vây cung cấm, Vũ đế bị chết đói.

Nhưng theo ngu ý, đây cũng là lối nhà nho ta nệ về chính thống của đạo Nho mà công kích những người mộ Phật, chứ Nguyễn Đăng Giai cũng không đến nỗi là một Tổng đốc trọng thần kém chính tích. Xét ra sở dĩ ông làm ngôi chùa này do lòng mộ Phật cũng có, nhưng chính là muốn đánh tan lòng tin nhảm vào tạp thần ở trong dân chúng. Nguyên cả mấy cái thôn Nghĩa Lâu, Cựu Lâu này trước kia là nền Ngũ Long lâu của triều Lê, lầu son gác tía nguy nga, làm chồng lên mấy tầng, ở ngoài có trường súng, có xưởng thuyền; đến cuối Lê, Tây Sơn ra phù Lê diệt Trịnh, rồi Trịnh bị Lê trả thù, hai bên đánh nhau đốt đi đốt lại mấy lần sạch trơn cả, dân cư kéo đến ở thành làng. Vì thế, bản triều mới đặt tên là làng Cựu Lâu. Ở chỗ nền chùa bây giờ, khi ấy còn trơ lại ba khẩu súng thần công lớn bằng gang, nòng năm tấc, dài năm thước, được phong là Điện Xiết tướng quân, Lôi Chấn tướng quân, Bắc thành cho lính di chuyển đem vào thành, không tài nào lay nhổ lên được. Quan Đề đốc hộ thành phải cho sửa lễ cầu khẩn thần, lễ xong thì chuyển súng đi được ngay. Dân xóm chung quanh thấy linh ứng, liền lập miếu lên thờ. Đến đời Minh Mạng, người ta đã làm ngôi đền ngói và xin phong sắc để phụng sự. Song đầu đời Thiệu Trị, quan thượng Giai xét lại không cho, bắt hủy đi, và thân đứng ra làm ở trên chỗ nền ấy, ngôi chùa nguy nga đồ sộ như thế kia đấy, kiến trúc tinh xảo công phu lắm, kể ra thì cũng tổn phí rất nhiều tiền của thập phương thật đấy. Chính tên quan thượng Giai đặt cho chùa là Sùng Hưng tự tức là chuộng sự hưng thịnh. Vả theo ngụ ý đó cũng là điều ông ta mong mỏi, mà cũng là chỗ khả thủ đáng quý.

Phi Đằng tướng quân. Đời Gia Long, các quan Bắc thành cho lính di chuyển đem vào thành, không tài nào lay nhổ lên được. Quan Đề đốc hộ thành phải cho sửa lễ cầu khẩn thần, lễ xong thì chuyển súng đi được ngay. Dân xóm chung quanh thấy linh ứng, liền lập miếu lên thờ. Đến đời Minh Mạng, người ta đã làm ngôi đền ngói và xin phong sắc để phụng sự. Song đầu đời Thiệu Trị, quan thượng Giai xét lại không cho, bắt hủy đi, và thân đứng ra làm ở trên chỗ nền ấy, ngôi chùa nguy nga đồ sộ như thế kia đấy, kiến trúc tinh xảo công phu lắm, kể ra thì cũng tổn phí rất nhiều tiền của thập phương thật đấy. Chính tên quan thượng Giai đặt cho chùa là Sùng Hưng tự tức là chuộng sự hưng thịnh. Vả theo ngụ ý đó cũng là điều ông ta mong mỏi, mà cũng là chỗ khả thủ đáng quý.

Chủ quán đã trở vào trong nhà từ lúc nào, bấy giờ lại chạy ra đon đả:

- Bẩm lão huynh và hai công tử, xin rước chư vị vào xơi chén rượu nhạt của bản quán, món nhắm vừa xào xong đang nóng. Khai vị rồi, xin lão huynh nói thêm rõ về lai lịch chung quanh hồ này. Người ở đây mà không biết chuyện ở đây, kể cũng ngu dốt thật. Khách tứ phương người ta có hỏi đến cứ ù ù cạc cạc…

Vậy xin mời ba vị chứng giám lòng thành…

Ông già vội đỡ lời:

- Bác chủ đã có lòng chiều anh em chúng tôi, chúng tôi xin bái lĩnh. Nào ta cùng đi nhắm nháp cho câu chuyện thêm vui…

Ba người trở vào nhà, ngồi vào sập. Bác Phúc ngồi ghé một bên rót rượu vào ba chén. Cậu ấm trẻ so đũa và lau bát. Bác chủ mời lượt nữa. Ba người cùng nâng chén mời nhau. Một người con gái bưng một khay thức ăn nhẹ nhàng đi vào lễ phép cúi chào khách, rồi đặt khay xuống sập. Bác Phúc đỡ đĩa thức ăn đặt vào mâm, rồi sai cô con gái đi lấy thêm đĩa rau thơm. Thấy ông già nhìn chăm chú cô bé như có ý xem tướng, bác quán vui vẻ nói:

- Thưa lão huynh, cháu Hiền; con gái lớn của đệ đấy ạ, cháu còn ngộc nghệch thô lỗ lắm!

Cô bé ra khỏi rồi, ông già nói:

- Cháu gọn ghẽ, kín đáo, có phúc tướng. Nhưng ở chỗ quán hàng thế này, cần phải dạy cháu biết giữ đạo đức…

Rồi ông tự cho mình là chủ trong đám này, vì hơn tuổi, ông giục:

- Nào ta vui chén đi chứ!

Qua một tuần nhắm đưa cay, hơi rượu ngấm vào người ấm áp, ai nấy thấy hăng hái vui vẻ thêm, ông già nói tiếp câu chuyện lúc nãy với vẻ say sưa hơn:

- … Cái khu phía đông và phía nam hồ bấy giờ khác xưa nhiều. Trước kia đây là khu vương phủ. Chúa Trịnh muốn vượt hẳn quyền vua Lê, nên lập phủ đệ riêng và đặt ra những danh hiệu riêng. Khu vực phủ ở phía tây hồ, chạy dài mãi hết hồ Thủy Quân dưới, có hai cửa chính: cửa tây bắc là cửa Diệu Công, ngụ ý khoe công với vua Lê; cửa phía đông là cửa Tuyên Vũ, tỏ ý phô trương oai võ với tất cả mọi người. Ở trong phủ có nhiều lâu đài hơn cả cung vua. Bên ngoài phủ, lại dựng nhiều ly cung, như Ngũ Long lâu, ở chỗ này, cung Khánh Thụy ở hòn đảo Ngọc Sơn, trên đắp hai quả núi giả gọi là Đào Tơ, Ngọc Bội. Ở phía làng Trang Lâu bây giờ thì có những lầu cho quận chúa, cung phi, cung nữ ở, và gần đấy lập ra Chân Tiên điện để các bà các cô ra đấy cúng lễ ăn chay, sống như tiên trên trần. Cái điện ấy do đàn bà trông coi, nên bây giờ quen gọi tên một bà, thành ra mới có tên là đền Bà Kiệu. Về sau, do một thái giám tên là Lê Trọng Hiên, người huyện Đường Hào, đứng ra mở mang to thêm. Đến khoảng năm Vĩnh Trị, cháu là Hoàng Thị Bột trùng tu lại, từ bấy đến nay, nó thành của tư dòng họ Lê ở Đường Hào. Đời Cảnh Hưng cuối Lê, rồi năm Tự Đức lục niên gần đây, đều có sửa chữa mở rộng. Bên phía dưới Ngũ Long lâu, gần sát với hồ về phía đường Thập Lý này, có xưởng đóng thuyền trận. Ngoài xa một ít, có trường đúc súng, tức là cái chỗ ngày nay là Tràng Tiền mà các quan Bắc thành đã đưa từ trên phường Khán Xuân về đây, vào đầu đời Minh Mạng. Để phô trương oai võ, chúa Trịnh cho đóng thủy quân ở hồ này, đổi tên là hồ Thủy Quân Tả Vọng, tỏ rõ không chầu về cung vua, lại cho ngăn hồ ra làm hai, chỉ trừ một con ngòi thông để tập thủy trận. Cho nên phần hồ dưới bây giờ vẫn còn gọi là hồ Thủy Quân. Và dân làng đã lấp dần đi thành hai hồ cách xa nhau như bây giờ. Ở chỗ gò tháp kia, chúa Trịnh cho xây cái Tả Vọng đình, trên tầng tháp có chỗ ngồi để chúa ngự ra xem tập trận. Ở phần hồ trên này lại thả cá cho đeo vòng vàng vòng bạc. Chung quanh hồ có giồng các cây hoa cỏ lạ, nuôi chim, giữ gìn sạch sẽ. Cấm ngặt dân gian không cho ai tới gần hồ này câu cá, hái hoa. Họ Trịnh lại cho khơi một con ngòi rộng từ hồ dưới ra đến sông Cái để thuyền ra vào được, và mở thành một cái bến lớn gọi là Tây Long Tân - chỗ bây giờ ta còn quen gọi là Tây Luông, tức là cửa ô Long Tường đấy - để đối với bến Đồng Tân trên phường Hà Khẩu. Thế là cả hai bến đông tây đều chầu cả về phủ chúa, bẻ sai hẳn hướng của cung vua. Cả cái khu vực nghiêm cấm này, đến khi chúa Trịnh thất thế, vua Lê cho đốt phá hết, rồi chính vì nhân dân quanh vùng bấy lâu bị ngăn cấm, lúc ấy được thể mới tràn vào san phẳng đi, dần dà ở thành làng xóm ngày nay. Bản triều mới nhận những di tích cũ mà đặt tên làng: Cựu Lâu, Trang Lâu, Tả Vọng, Khánh Thụy… cũng là có ý nhắc lại dấu vết một thời. Làng Cổ Tân bây giờ chính là bến Tây Long Tân bị lấp đi. Lúc đầu, bản triều mở trường thi hương ở đấy cho tiện đi lại. Như vậy cả một vùng tôn nghiêm lâu đài nguy nga san sát xưa kia, ngày nay đã khác hẳn rồi, khác hẳn như Bà Huyện Thanh Quan trên Nghi Tàm đã viết:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương!

Mà khác hẳn chính là vì dân làng đã đến ở đông đúc, ruộng đồng tốt tươi, cảnh sống nhộn nhịp chung cho tất cả mọi người, chứ không còn của riêng ai nữa, lâu đài xưa, nay đã thành làng mạc, bến cũ thành đồng lúa và ven bờ hồ này rải rác có những nhà dân với những cầu giặt rửa lác đác nhô hẳn ra mặt hồ. Thế thì so với trước kia, bây giờ tuy cảnh nguy nga không còn nữa, chúng ta có tiếc những kỳ công kiệt tác của ông cha ta ngày xưa thật, nhưng trong khi trăm họ được vui chung với cảnh hồ cây xanh nước biếc này, chúng ta cũng vẫn thấy vui đẹp hơn thời Lê, Trịnh. Cho nên bây giờ ta đối cảnh sinh tình, có nặng lòng hoài cổ chăng nữa, thì cũng là nhớ lại gương xưa mà lo cho sau này cảnh có thay đổi thì phải cố làm sao tránh khỏi cái lối độc chiếm, gạt mọi người dân chúng ta ra ngoài, không được bén mảng đến gần. Hiện tình Sài Gòn, lục tỉnh báo cho ta lo xa như vậy. Và ở đây, hiện nay Khách trú về hùa với Tây dương cũng báo hiệu cho ta lo xa như vậy. Bởi thế nhân tiện, tôi muốn gợi cảnh cũ để nhắc nhở các hiền hữu, cũng không phải chỉ là bùi ngùi như người xưa:

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường!

Mà chính là để cùng nhau nhớ lại gương kim cổ mà có phận sự giữ gìn lấy cảnh đẹp của đất nước chúng ta. Nếu cứ phó mặc giời xanh, kệ cho sao dời vật đổi, được sao hay vậy, thì tôi e rằng có ngày chúng ta sẽ không được cùng ngồi chung với nhau thế này mà thưởng thức cảnh trí thiên nhiên nữa, vì có lẽ lúc đó đã hóa ra nhân giai dị và cảnh dĩ phi rồi !

***

Giời đã quá chiều, gió heo may đã nhẹ dần, rồi ngừng hẳn. Ánh nắng của mặt trời chênh chếch như vàng tươi hơn. Cảnh vật trầm lặng tắm trong màu phấn vàng trong sáng và linh động. Câu chuyện trong quán cũng đậm đà và biến chuyển rộng hơn. Ông già Tam Sơn không uống rượu nữa. Ông uống và nhắm những mẩu chuyện ông kể. Ông nói say sưa như một ông thầy giảng kinh nghĩa. Nghỉ một lúc cho mọi người nhắm nháp vừa phải, bàn tán qua loa, rồi ông lại nói, giọng cao và thấm thía hơn:

- Các hiền hữu ạ, vượng khí Thăng Long chung đúc cho cả nước. Thăng Long trước kia là đế đô, bây giờ là tổng trấn của Bắc Hà, nơi mà các quan Kinh lược, Khâm sai đều đóng hành dinh ở đấy, cho nên đúng lý ra, giang sơn tú khí ở đây phải giúp tốt thêm cho sự thịnh vượng thái hòa, dân khang vật phú 1 ở nơi này và rộng ra cho cả nước. Nhưng cảnh có đẹp tươi cũng lại do tự người điểm xuyết. Lấy ngay cái vị trí Hồ Gươm mà nói: Triều Trần sau khi đã thắng quân Nguyên có mở ba ngày hội Thái bình diên yến cho toàn quốc, nhân dân kinh đô tụ tập ở đây đua thuyền múa hát. Rồi từ đấy thành lệ, hằng năm dân chúng đều tụ tập ở đây mở hội đua thuyền với nhà vua. Sang triều Lê, nhân có vua Lê trả gươm thần ở đây, hằng năm cứ đến ngày hai mươi bảy tháng giêng, ở dinh Phủ doãn, phủ Phụng Thiên lại làm lễ bái khánh đức vua và rước nước từ Hồ Gươm về phủ rồi quan Khâm mạng thân đem bình nước ra tưới lên ruộng tịch điền ở phía tây phủ, thuộc cánh đồng làng Bích Câu bây giờ. Đây là một ngày hội lớn mà tất cả dân chúng các nơi khắp trong ngoài kinh kỳ từ quan đến dân đều đến họp mặt vui vẻ, ai nấy đều cùng một ý nghĩ phấn khởi, một niềm tin chân thành mừng đức vua mạnh khỏe thân ra đi cày cho ruộng đồng tốt tươi, ai cũng sung sướng thấy rằng đức vua chăm lo ruộng tịch điền thì dân gian sẽ dễ làm ăn, xóm làng được vui vẻ… Cho đến đời Lê trung hưng, chúa Trịnh đã vượt quyền vua Lê, lập phủ riêng ngay bên cạnh hồ, liền chiếm luôn cả lễ bái khánh. Hằng năm, cũng vẫn đúng cái ngày hai mươi bảy tháng giêng, ở phủ trị Phụng Thiên, vẫn có làm lễ bái khánh và rước nước. Nhưng người được chúc khánh lại là chúa Trịnh. Thành ra dân chúng không còn tin nữa, ngờ vua, ngờ chúa, ngờ các quan trên xu nịnh dưới lấn át trên, người ta coi như thế là đại loạn, trăm họ sẽ phải chịu lầm than! Gia dĩ chúa Trịnh ngăn cấm không cho ai đến gần Hồ Gươm, dân chúng lại càng oán giận, chả còn thấy mình có liên quan gì đến hồ, đến trò vui của bọn vua chúa quan chức nữa, mà lại càng thêm căm ghét bọn cầm quyền đã chiếm đoạt mất cả nỗi niềm vui thích của trăm họ. Cho nên bây giờ có câu:

1 . Dân yên vui, vật thịnh và nhiều.

Nhân dân dìm trong nước lửa

Cung miếu xây với mỡ màu.

Bởi thế, khi cả Lê lẫn Trịnh đều thất thế, trăm họ không còn luyến tiếc gì, mà chính dân kinh thành này đã cùng nhau xông ra góp phần phá hoại thêm cung vua, phủ chúa.

Ông già ngừng lại tự đứng lên đi rót nước uống. Chủ quán vội chạy lấy thêm nậm rượu nữa đem vào toan rót ra chén cố nài, nhưng ông già giữ lấy cổ bình và nói:

- Chúng ta uống rượu để dẫn giọng nói cho thêm vui chứ không phải uống vì nghiện. Vậy uống thế là đủ, hiền hữu cứ để mặc chúng tôi. Tôi vẫn còn đủ đà nói chuyện, chỉ sợ rồi các hiền hữu không muốn nghe. Đệ đang có nhiều điều muốn nói đây.

Uống xong chén nước, ông ngồi xếp bằng ngay ngắn ung dung, nói tiếp:

- Đấy là cơ sự ngày xưa. Bây giờ lại càng khác. Sang đến bản triều, trăm họ ở đây tiếc cho phủ Phụng Thiên không còn nữa. Hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận là tên mới đổi mà lại lệ thuộc vào phủ Hoài Đức, lỵ sở ở mãi trên làng Dịch Vọng. Tuy ở đây có thành, có dinh Đốc bộ, nhưng mọi việc dân, việc hộ đều phải qua trên phủ xét. Lại năm Tự Đức tứ niên 1 , triều đình bớt huyện Vĩnh Thuận đi, dồn cả cho huyện Thọ Xương kiêm nhiếp. Riêng cái việc coi nhẹ nơi đế đô cũ như vậy đã làm cho dân chúng ở đây khó có một lòng một dạ tin vào triều chính ở trên. Lại gia dĩ các ông quan về đây phần nhiều cũng chỉ ai biết phận nấy, cốt giữ lợi cho mình, đã không thân dân, nhiều khi lại hại dân. Cái vụ án mấy vị quan lớn tỉnh này bị án tham tang 2 xử tù năm trước, chính là vì thế. Chết một nỗi lại đều là các vị khoa bảng cả, như quan Bố chính Hoàng giáp Lê Hữu Thanh, Án sát Cử nhân Đặng Tá… Các hiền hữu đều biết đấy, cách xếp đặt giáo hóa như thế mà bảo trăm họ trên dưới một lòng tin vào triều đình, tin ở quan trên, cứ yên tâm mà giữ gìn đất nước thì thật là thiên nan, vạn nan! Nhất là như lúc này, giặc ngoài đã lấn đất miền trong, đang nhòm ngó cả ra ngoài này, lại càng thêm khó nữa! Ấy thế mà ở đây người ta có để cho yên đâu, lại còn cứ xảy ra lắm chuyện rắc rối như nỗi oan quan huyện Thọ năm kia ấy, bác quán chắc biết rõ hơn tôi.

1 . Tự Đức thứ 14 (1851) (BT)

2 . Án về tội ăn hối lộ

Cậu ấm trẻ vội đỡ ngay:

- À cái vụ quan huyện Thọ Xương bị đòn rồi bị tù năm Ngọ, Tự Đức nhị thập tam 1 ấy à?

1 . Tự Đức 23 (1870).

Bác Phúc thấy được hỏi đến, cũng vội tranh kể lại:

- Thưa lão huynh và hai công tử, không phải quan huyện bị đòn đâu. Đệ nhớ ra rồi. Đâu vào tháng ba năm Ngọ, năm có khoa thi mà quan Nghè Du Lâm đỗ thủ khoa đấy, một tên tướng Khách ở mạn ngược về chơi Hà Nội, đánh mất gói hành lý ở ngoài phố, liền vào ngay huyện bắt quan huyện phải tìm cho ra ngay lập tức. Bấy giờ là quan huyện Đàm, ngài trả lời còn phải đợi tra xét truy cứu đứa thủ phạm vô danh. Nó cứ bắt phải đền ngay, rồi hung hăng đập phá công đường, gạt tung cả hồ sơ, bút mực, quát tháo xỉ vả mọi người. Quan huyện cản lại, nó xông vào đánh. Cụ đề Nguyễn Bá Chuyên can ngăn bị nó tát dúi xuống. Quan huyện hô lính giữ nó lại, cụ Đề phải lấy thắt lưng lụa tạm trói tay cho nó khỏi hành hung. Quan huyện cho mời người hàng bang 2 đến cùng giảng giải cho nó nghe ra.

2 . Bang là tập thể người Trung Quốc ngụ cư ở nước ngoài, bang Phúc Kiến, bang Triều Châu, bang Quảng Đông…

Việc có thế thôi. Thế mà khi hàng bang kéo đến đông, chả biết nói sao, nó liền cào đầu đập trán ăn vạ, không cho cởi trói. Cả phố huyện xôn xao. Quan Bố trong tỉnh ra dàn xếp cũng không xong. Chủ tướng nó đưa giấy về bắt quan tỉnh xử tội quan huyện ngay. Nhưng quan tỉnh ta không chịu, chủ tướng nó kiện mãi về kinh. Vua phái quan Khâm mạng ra thanh tra xét xử, cách chức quan huyện Đàm, bắt giam xiềng lại để xét và trích của kho ra đền ngay số hành lý đúng như nó đã khai. Dân hàng huyện đều căm tức, làm giấy ký kết khiếu oan cho quan huyện và đứng đơn kiện tên Khách hành hung. Thế mà đến tháng tám, bên trên xử thành án: quan huyện Đàm bị trượng 80 gậy, tù lao dịch hai năm và hoàn lại kho số tiền đã trích ra đền. Rõ là bất công, ăn hiếp người lương thiện. Mà cũng chỉ tại tụi Khách trịch thượng, cậy là thiên triều, cậy giàu có hơn, lại càng hoạnh họe. Dân chúng phố chúng tôi tức lắm, nên ngay dịp tết Trung Thu năm ấy, nhân đà múa sư tử, chúng tôi kéo đi đánh phá luôn cả tụi hàng bang nào đã vu khống cho quan huyện.

Cậu ấm trẻ ngắt lời:

- Kể cái án quan huyện Đàm Thuận Lễ thì ai cũng tức. Nhưng tình thế phải thế. Khi ấy quan Khâm mạng Phan Đình Bình ra xét vụ này, có vào chơi với thầy tôi. Thầy tôi cũng trình rõ nỗi oan của quan huyện Đàm. Ngài cũng rất quan tâm. Nhưng ngài cho biết chính quan Đề đốc Quảng Tây Phùng Tử Tài đưa thư vào triều kiện các quan tỉnh thông đồng che giấu cho nhau và dọa sẽ tư về bên Thanh triều nói rõ bên ta bạc đãi họ. Phùng Đề đốc lại là Nguyên soái đem hai mươi doanh quân xuất quan 1 sang giúp ta dẹp phỉ Khách Ngô Còn, Hoàng Sùng Anh. Nếu để có tiếng về bên ấy như thế, không những không lợi cho việc tiễu phỉ, mà còn là mất quốc thể nữa. Nên đức vua đã cử ngay quan Phan Đình Bình cùng với quan Khoa đạo Đinh Văn Bân và quan Hình ty viên ngoại ra tra xét. Vua có dụ thêm rằng: “Quan lính nước Đại Thanh sang đây vì ta mà dẹp giặc. Phàm những việc không quan ngại đều nên nấn ná liệu mà thu xếp cho thỏa đáng, không phải chỉ cốt mong sớm cho yên dân mà thôi, cũng còn phải giữ cho hợp ý cung thuận. Các bề tôi tỉnh, huyện ở đấy không biết khéo xử, đến nỗi sinh ra việc như thế, rất là mất thể diện. Phải tỏ cho người nước ngoài biết nước ta là một nước lễ nghĩa, chính lệnh rất nghiêm minh. Vậy chuẩn cho Thuận Lễ cách chức, giam gông lại để đợi xét, quyền Tổng đốc Nguyễn Văn Phong, thự Tuần phủ Trần Văn Chuẩn, Bố chánh Trần Văn Hệ, Án sát Vũ Đường đều cách chức lưu nhiệm, giao cho đình thần nghiêm xét”. Như thế, rõ ràng là ý định của trên, của đức vua ngay từ đầu, nên cũng khó…

1 . Ra khỏi ngoài cửa quan đi ra nước ngoài.

Bác Phúc vội nói:

- Ấy thế mới tức chứ. Nó sai toét ra mà lại cứ trịch thượng. Mình thì từ vua đến quan, cứ nhường nhịn đàn anh mãi. Nên chỉ còn là chết dân!

Ông già Tam Sơn hỏi thêm:

- Thế lão quan Tàu kia chức to hay nhỏ? Các hiền hữu có biết không?

Cậu ấm đáp:

- Thầy tôi có nói lại, đâu tên hắn là Lưu Bộ Cao, làm chức Tổng bả trong doanh quân nhà Thanh, mà Tổng bả là một chức võ quan hạng cuối cùng, cả chức lẫn quyền không có gì đáng hống hách.

Ông ấm Vẽ thêm:

- Đó là hạng võ biền đắc thế, cậy là quan quân của thiên triều, lại quen thói bắt nạt dân, nên đi đâu là làm càn đến đấy!

Bác Phúc chủ quán cũng xen vào:

- Nhà cháu ngu muội không biết xa xôi gì, thiển ý cho là chỉ tại triều đình ta cao xa không biết đến dân tình, lại cứ nhân nhượng, dĩ hòa vi quý, nên trăm tội cứ đổ vào đầu thằng dân chịu cả. Thế là được cả thể nước, được cả lòng các quan Tàu. Có ông quan nào tôn tốt biết bênh dân một tí thì lại bị trừng trị oan khuất như vậy. Lại cũng tại tụi hàng bang ở đây xúi bẩy mới sinh ra to chuyện đến thế, thiết nghĩ cứ rọt cho chúng nó một trận tỉnh kỳ thân, cho chừa thói hống hách xúi bẩy…

Ông già cười, ngắt lời bác chủ quán:

- Xử sự như huynh ông chỉ giải được tức khí thôi, chứ không có lợi. Oán cừu nên gỡ, không nên thắt. Tôi có đi qua Hàng Ngang, Hàng Buồm, thấy họ có vẻ đề phòng kỹ hơn trước, phố xá ngăn cách riêng biệt với phố khác. Như thế là sinh sự, sự sinh. Mối hằn thù sẽ tăng lên. Theo ngu ý, cũng không phải do hàng bang Khách trú thù ghét gì ta, mà chính là đều bị mắc mưu một bọn trục lợi cả. Tôi đã từng ở Hải Dương, Ninh Hải 1 , tôi biết có một bọn Khách buôn lớn như lão Hùng Tài Lộc ở Hải Dương, có thuyền buôn đi lại với bọn Tây dương, lại nghe nói ở Gia Định có mấy tên Khách được bọn Phú Lãng Sa 2 cho làm quan để môi giới với bọn Khách buôn ngoài này. Tôi ngờ rằng có thể chính tụi Khách buôn lớn ấy đã thông đồng với Tây dương để gây ra mối hằn thù giữa Khách và ta. Cùng ở chung một nhà, môi hở răng lạnh, hai bên có đánh giết nhau là chỉ có lợi cho bọn Phú Lãng Sa đang lăm le lấn ra cả ngoài Bắc này đây. Triều đình và các quan ta có lẽ không biết cái mưu thâm ấy, cứ thẳng ruột ngựa mà đối xử, không có cớ trị Tây thì đi trị Khách trú, còn dân ta thì dễ tức khí nông nổi. Thế là mắc mưu nó tất…

1 . Tên cũ của Hải Phòng. Từ năm 1877 trở đi chính thức lấy tên Hải Phòng do Phạm Phú Thứ đặt trụ sở của Hải Phòng ở đây.

2 . Tức bọn dân Pháp.

Ông ấm Vẽ không tin, cãi:

- Đệ e rằng chưa có thực chứng mà võ đoán thì có khi đổ lỗi cho cả người mà không nhận thấy lỗi ở phía mình. Ngu ý cho là chỉ tại triều đình ta nhu thuận quá, gặp việc khó chỉ muốn thu xếp cho yên, vừa lòng mọi người, nên mới đến nỗi thế.

Ông già nói:

- Ta vẫn có thể đoán biết mà đề phòng chứ. Thế nào gọi là tiên đoán? Vả chính ông huyện Đàm bị tù ở Hải Dương có gặp tôi, ông cũng tỏ ý ngờ ngợ như vậy. Chính ra vẫn tại triều đình ta kém cỏi. Nhưng cũng cần phải biết dã tâm, mưu mô của bọn giặc để mà tránh, hay tốt hơn là có thể tương kế tựu kế mà chống lại chứ. Các hiền hữu thử nghĩ mà xem, ta và Khách thù hằn nhau thì bên nào có lợi không? Ấy thế mà tự nhiên sinh ra cừu địch thì thật là vô lý. Vậy chúng ta đã biết được như thế, thì cần phải làm sao cố dàn hòa xóa bỏ được mối hiềm nghi ấy, nhất là khi có những vụ xung đột.

Cậu ấm trẻ cũng nói:

- Nghĩ cho cùng, lão huynh nói đúng. Bây giờ tôi mới nhớ ra chính ngay khi xảy ra ta Khách đánh lộn nhau, thầy tôi đã nói: “Ta và người Tàu là anh em sao lại huynh đệ tương tàn thế? Chỉ tại bọn buôn lớn Quan Tá Đường, Bành Lợi Ký phải bỏ ra một số tiền cung cấp lương thực cho các doanh binh Quảng Tây sang giúp ta tiễu phỉ mà bọn ấy xúi bẩy thành to chuyện cho bõ...”. Nhưng thầy tôi chưa nghĩ xa đến như lão huynh. Bây giờ càng nghĩ, tôi càng thấy cái mầm thù ghét thật không đâu mà lại gây hại lớn cho ta… Cần phải làm thế nào ngăn chặn ngay đi, không thì có ngày giặc đã vào đến nhà, anh em còn giở trò đánh nhau chí mạng!

Ông già Tam Sơn giọng thêm tha thiết:

- Các hiền hữu ạ, lòng người hiện nay ly tán giống như bệnh ngày càng trầm trọng, chính là vì nghèo khổ quá, vì các quan trên ít thấu đến dân tình. Trên dưới ngờ vực nhau, trong ngoài ganh ghét nhau, thật là mối nguy cơ lớn cho nước nhà. Vậy việc cần phải làm ngay bây giờ là làm thế nào nói rộng cho mọi người gạt bỏ được lòng hiềm nghi ngờ vực nhau, nuôi lại tình thân thiện giữa dân ta với nhau, giữa ta với Khách, với người nước ngoài trú ngụ ở đây. Hằng ngày chung đụng với nhau, trong phố xá, mặt nhìn mặt ta có thể nói chuyện thẳng với nhau. Ta không thể nhất thiết ngồi chờ ở trên phân xử, vì trên có thấu dân tình mấy đâu. Các hiền hữu có thể đi nói rộng ra trong anh em quen biết. Tôi lên đây, một phần cũng vì thế. Tôi sẽ còn ở lại đây ít lâu, đến thăm quan Đốc Mọc, thăm bác cử Kim Cổ, vào bác cử Linh Đường và mấy bạn hữu cũ vùng này. Tôi mong hai hiền hữu trong khi còn mải dùi mài kinh sử để dành quyết khoa sang năm, thì cũng nên nghĩ sao cho vẹn cả đôi bề. Và bác chủ nhỉ, bác đã từng hăng hái đi rủ bà con chống hàng bang, thì nay bác chắc cũng vui vẻ đi tiên phong dàn hòa, đi gây lại tình giao hiếu chứ?

Thấy ông già đang nghiêm nghị bỗng tươi cười hỏi mình, bác Phúc vui vẻ đáp ngay:

- Dạ, bẩm xin tuân lĩnh cao ý, có khó nhọc gì đâu mà không làm được. Chỉ mong lão huynh luôn hạ cố đến chỉ giáo cho, thì mới biết đường mà đi… không có lão huynh dạy bảo, đệ chỉ biết tức giận Khách trú. Thật là ngu dốt làm hỏng việc!

Ông già đột ngột đổi hướng câu chuyện, hỏi:

- Quan huyện Thọ bây giờ thế nào? Có tốt không?

Bác Phúc đang vui đà đáp ngay:

- Quan huyện Đàm bị cách thì quan Giáo thụ phủ Hoài về quyền mấy tháng, rồi đến quan huyện Đào bây giờ. Ngài ngồi huyện này như thế là đã ngót hai năm rồi mà chưa có điều tiếng gì lớn lắm. Ngài rất nhã nhặn với mọi người. Nhưng lễ lạt ngài ăn cứ ngọt sớt và kín đáo. Kẻ mất lễ cứ im thin thít như gái phải cọc. Ngài lại thân với các hiệu buôn lớn, các hào mục oanh liệt, và khéo chiều quan trên, nên nghe đâu quan ngài sắp được thăng bổ Tri phủ…

Cậu ấm trẻ cũng thêm:

- Quan huyện Đào Trọng Kỳ, người đâu vùng Cổ Am tỉnh Đông, Cử nhân trường Nam khoa Dậu trước, tay văn án cũng khá.

Ông già hỏi bác Phúc:

- Theo ý bác, quan huyện mới có hơn quan huyện cũ?

- Thưa lão huynh, dân chúng ai cũng mộ quan huyện Đàm hơn. Toàn huyện đã có mấy chục lá đơn đệ lên xin ân xá cho ngài…

Trong quán mấy người đang trò chuyện nghiêm trang bỗng có tiếng roi đập mạnh vào cửa, tiếp theo tiếng hỏi:

- Hàng Hai Phúc hôm nay ế à? Sao đóng cửa sớm thế?

Và cuối cùng tiếng hỏi lại đổi ngay sang giọng sẵng:

- À ngồi tụ tập làm gì đây?

Ông già mải nói chuyện, giờ mới trông ra thấy mấy chuồng cánh cửa bướm ở ngoài đều khép cả, vội hỏi:

- Sao lại đóng cửa thế, người ta dễ ngờ…

Trong khi ông ấm Vẽ tức, hỏi vọng ra:

- Đứa nào mà dám nói sách mé thế?

Bác Phúc vừa chạy ra, vừa ngoảnh lại nói giải thích:

- Bẩm, cụ Bá tổng đệ đấy ạ. Cụ quen nói sỗ như thế, để đệ ra xem.

Cậu ấm trẻ cũng nói:

- Bá Kim, cai tổng Đông Thọ, nổi tiếng hách dịch. Ta nên về thôi. Không nên để lão huynh gặp hắn.

Ông già ung dung nói:

- Kệ họ chứ. Ta về ngay, họ tưởng ta sợ, không thì họ lại ngờ ta có ý gì khác.

Bác quán đã mở rộng cửa đưa khách vào, đon đả nói:

- Bẩm cụ, hôm nay vắng, nhân có cậu ấm Tự Tháp dẫn ông khách vào chơi ngồi nói chuyện, nhà cháu mải nghe, không kịp thấy tiếng cụ gọi. Rước cụ ngồi chơi xơi nước. Cụ có bảo gì không ạ?

Khách mới đến là một ông trạc xấp xỉ ngũ tuần, cao lớn bề thế, mặt vuông, mắt lá dăm sáng những tia dữ dội như soi mói, bộ râu đĩnh đạc trông càng oai vệ thêm, đầu chít khăn nhiễu quấn, mặc áo dài năm thân khép tà tay chẽn, quần lụa đỏ sẫm, chân đi giày vải hàng Tàu, dáng đi nhanh nhẹn, bước đến đâu như là cuốn theo sự náo động đến đấy. Lão ta đi sồng sộc vào giữa nhà, quẳng cái roi mây cầm ở tay xuống, rồi ngồi tót lên cái sập cao giải chiếu cạp điều, sau khi gật chào ba người và hất hàm hỏi cậu ấm trẻ:

- Cậu vừa ra chơi à?

- Vâng, cậu đáp, nhân có ông bạn mới ở tỉnh Bắc sang chơi, tôi đưa ông đi thăm lại chùa Quan Thượng rồi rẽ vào đây, đang ngồi chơi ngắm cảnh hồ.

Ông khách mới cười khẩy:

- Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư 1 ! Mà đây lại cùng ngồi tất có người bàn quốc sự.

1 . Ba người cùng đi tất có người là thầy dạy ta (lời Khổng Tử).

Ông ấm Vẽ tức tối nói:

- Ông là người đang làm việc ở dân xã, ông nói láo như thế, dễ nhập nhân chi tội 2 , vu oan giá họa cho người!

2 . Buộc tội vào cho người.

Ông khách trừng mắt trông thẳng vào mặt ông ấm Vẽ, hỏi:

- Lại còn không à? Trong lúc đa sự này, tôi biết nhà nho dễ sinh ra bất đắc chí, thị kỷ phi nhân 1 lắm kia đấy!

1 . Tự cho mình là phải, chế người ta là trái.

Ông Tam Sơn cười đỡ lời:

- Ông khách nói khí quá. Mà một lời nói đã quá thì dẫu ngựa tứ cũng khó đuổi theo mà giữ lại. Ở đời, điều quý nhất là thành thực, là biết tin nhau, chớ có vội nghi nhau. Chúng tôi ngồi đây ngắm cảnh đẹp, mà ông bảo là bàn quốc sự. Tuy là một câu nói đùa, nhưng rồi do đấy, người khác có thể buộc tội chúng tôi là âm mưu bạo nghịch, thì có nguy không? Chả hóa ra nhập nhân chi tội là gì?

Ông khách gật gù:

- Chịu nhà nho giỏi lý sự thật. Một lời nói mạnh hơn mũi dao đâm. Hàng hào chúng tôi xin chịu thua đấy. Nhưng tôi xin hỏi thật các ông, ngắm cảnh sao lại ngồi gọn thon lỏn vào đây? Và bàn bạc cái gì đắc chí thế?

Ông già đáp:

- Ngắm cảnh Hồ Gươm và bàn chuyện phong thủy thì có thể hết cả ngày, ông cũng cấm à?

Ông kia quay lại nói riêng với cậu ấm trẻ như phân bua:

- Cậu Ba biết cho. Tôi là cánh hào lý hay nói thẳng mất lòng, quả tình lúc này đa sự, khó khăn lắm, trăm tội đổ cả vào đầu Tổng lý. Bên trên cứ buộc là phải dò xét dân tình, nên cũng là một lối tôi nhắc cậu như vậy. Mình con nhà gia thế, nói năng bàn bạc phải nên thận trọng…

Rồi lão lại quay sang hỏi ông già:

- Ông anh đã biết xem phong thủy thì đất này có phải là đất kiểu không nào?

Ông già vẫn giữ vẻ ung dung:

- Thăng Long là đất đại huyết mạch 1 thuộc hữu chi long, hồ này là cái bàng 2 của nó, sao lại không phải đất kiểu? Địa lý tức là địa ý, phải nhìn sao cho thấy được vị trí của nó cho hợp ý thì mới nhận ra được kiểu đất, chứ cứ cắm quàng xiên thì chả bõ hại. Kia kìa đình Hàng Khay trông ra hồ, lấy cái gò tháp làm án, trông thì đẹp mắt đấy, nhưng bị bắc phong xuy 3 , nên cứ lụn bại, rồi có lẽ sẽ tan tành. Và đình Tô Mộc bên thôn Phục Cổ kia nữa, cũng trông ra hồ, nhưng dòng nước từ trên hồ Hàng Đào chảy xuống đến đây xoáy quật lại rồi buông đi sang con ngòi bên này, như thế là phản thủy, rồi cũng sẽ đến thành điêu tàn thôi. Vì nước có lúc nào tụ đâu.

1 . Theo sự mê tín về kiểu đất cho rằng đấy là kiểu đất đế vương, mỗi kiểu thường có một cái huyệt chính, mấy cái huyệt bàng.

2 . Bàng nghĩa là bên cạnh, ở sát ngay bên.

3 . Theo quan niệm mê tín về địa lý, cho rằng chỗ này bị gió bắc thổi vào không có án che chắn là điều tối kỵ trong phép địa lý.

Ông khách vui thích nói một cách kính phục:

- Đúng thế! Thì ra tiên sinh xem đất thật. Xem mây gió tìm long mạch thì được. Còn chớ nên bàn đến thời thế không lợi lộc gì mà chỉ thêm bận cho chúng tôi. À, tôi xin hỏi thực tiên sinh nhé: “Kiểu đất đây là kiểu gì? Đẹp ở chỗ nào?”

Ông già Tam Sơn đọc ngay:

Thăng Long kiếm hồ,

Nước bọc ngọc nhô.

Trâu vàng dẫn mạch,

Sông Cái quanh co.

Nước lên thì lặn,

Nước xuống lại thò.

Lúc ẩn lúc hiện,

Như viên ngọc to.

Huyệt đúng chỗ ấy,

Tiếng nức đế đô.

Công hầu mãi mãi,

Phúc lộc nghìn thu!

Rồi ông nói luôn một mạch:

- Kiểu Cao Biền đấy. Chắc ông khách và các

hiền hữu nhận ngay ra rồi chứ gì. Như hòn ngọc, như viên mọc, ai mà chả biết. Ấy thế mà từ trước đến nay vẫn chưa ai tìm ra sai huyệt đấy.

Ông ấm Vẽ nói:

- Kiểu đẹp như đền Ngọc Sơn, đức Văn Xương đế quân ngự mất rồi!

Ông khách mới đến cũng nói xen vào:

- Tôi cũng nghĩ thế. Chúa Trịnh đã làm núi giả ở đấy chực chiếm nhưng cũng hỏng ăn.

Ông già Tam Sơn nói:

- Ấy vì ai cũng nghĩ thế, nên huyệt vẫn còn. Các vị thử đọc lại kiểu xem: “Nước lên thì lặn, nước xuống lại thò, lúc ẩn lúc hiện, như viên mọc to” , có đúng với đảo hòn Ngọc không? Theo tôi, thì chỗ hòn Ngọc có ngập bao giờ đâu? Chính là chỗ Gò Rùa kia vừa nhỏ vừa thấp mới lúc ẩn, lúc hiện, lúc lặn lúc thò. Mà đất này là hữu chi long, lại là cái bàng ở bên tả cái chính, nên tạo hóa đã an bài cho nó có một hòn to hơn để che chở cho nó chống bắc phong…

Ông khách vỗ tay xuống sập khen:

- Thật chịu ngài! Rõ ngay trước mắt mà ít ai biết. Suốt cả cái phía bắc, từ hồ Thái Cực Hàng Đào cho lên đến sông Cái chỉ rặt sông nước, nếu không có hòn Ngọc Sơn lớn ở bên trên thì lấy gì mà che? Chả cứ hướng bắc, hướng nào cũng cần có đủ án như thế mới là đúng kiểu. Ấy thế mà…

Ông ta ngừng lại, quay sang hỏi cậu ấm:

- Tiên sinh với cậu Ba là thế nào nhỉ? Cậu ấm nói thong thả, từ tốn:

- Lão huynh tôi đây là cụ cử Ngô Gia Phan, biệt hiệu Trần Ẩn tiên sinh, người làng Tam Sơn, bên Đông ngàn, tỉnh Bắc, là học trò thầy tôi lớp đầu tiên, trước cả quan Đốc Mọc. Lão huynh tôi say mê đạo lý, không cầu lợi đạt 1 chuyên chú học hỏi nghề: nho, y, lý, số, mặt nào cũng tinh thông…

1 . Tiền tài, danh vị.

Ông khách vui vẻ đáp lời:

- A! Quý hóa quá nhỉ? Thế ra cũng là người trong bọn ta cả.

Rồi ông vỗ tay vào ngực, tự giới thiệu với ông già, và nói một mạch:

- Thưa tiên sinh tôi đây là Bá hộ Kim ở cái huyện Thọ Xương này, tiếng hay thì ít, tiếng dở thì nhiều, chẳng qua cũng là số kiếp cái nghề làm việc Tổng lý dưới dồn lên, trên ấn xuống, nó sinh ra như vậy, nên rất là mang tiếng với bà con văn học, nhiều khi quen nết ăn nói sỗ sàng suồng sã, xin tiên sinh tha lỗi cho. Có cậu Ba biết. Tôi cũng thường ra vào hầu chuyện cụ lớn nhà, cụ lớn cũng coi nh