Chương V TÂN BINH I TƯ
Cũng như mọi miền quê khác của Nam Bộ, kinh rạch ngang dọc, chằng chịt tiếp nối vào nhau. Mười dẫn tôi quanh co theo những bờ kinh, ngược hướng về phía Đông.
Như vậy, theo địa lý mà tôi học thì chúng tôi đã dọc theo sông Vàm Cỏ, trở lại phần đất của Đức Hòa. Trên đường đi, nhà cửa nhân dân thưa thớt, lâu lâu mới gặp một căn nhà lợp đưng trống trước trống sau, khép nép ẩn trong những chòm cây rậm, hoang vu.
Không khí vắng lặng buồn hiu. Thỉnh thoảng mới có vài người đi ngược chiều mang túi vải, súng vác vai. Họ lầm lũi bước nhanh như vội vã. Ngang qua chúng tôi, họ ném một cái liếc mắt lạnh lùng, thờ ơ, không cảm giác.
Qua những vườn chuối, vườn đào hoang vu, cỏ cao ngang đầu phủ mất những nền nhà cũ, tôi thấy sao buồn lạ. Một nỗi buồn man mác, khôn nguôi.
Chúng tôi cứ đi mãi không ngừng nghỉ. Chân tôi mỏi như rời ra, nặng như treo đá nhưng vẫn cứ phải cố bước theo Mười, vì cậu ta không ngớt nhắc nhở cho tôi biết rằng đoạn đường ngày hôm nay xa lắm, nếu không cố gắng đi liên tục thì trời tối chưa đến nơi. Trời tối còn ở dọc đường rất nguy hiểm vì không thấy đường đi, có thể vướng vào lựu đạn gài, sa vào bẫy chông của du kích địa phương.
Mãi hơn 6 giờ chiều, chúng tôi đến Vườn Thơm, quá giang xuồng sang bên kia bờ kinh xáng và ghé vào cái quán nhỏ ăn hủ tiếu. Cho đến giờ này, tôi cũng không hiểu là sẽ còn đi đến những đâu, đêm nay ngủ ở nơi nào? Quả thực, tôi chỉ là một cái bóng lặng lẽ, trung thành của kẻ dẫn đường.
Ăn xong, tôi trả tiền thì trời đã tối hẳn. Mồ hôi ra như tắm. Hai chân tôi cứng đơ, mỏi đến tưởng chừng không sao đứng lên được. Mười lại mang súng lên vai. Tôi nhăn mặt, gượng gạo, khập khiểng bước tới.
Mười khuyến khích tôi:
– Ráng lên anh! Đi kha khá một chút thì chừng nửa giờ nữa mình tới trạm giao liên của huyện đội Bình Tân. Tắm rửa sơ qua, cái khỏe liền!
Phải ngót một giờ sau chúng tôi mới đến một bờ sậy rậm. Ánh đèn leo lét trong cái lều nhỏ cao ngang đầu hiện ra. Tôi nghe có tiếng cười nho nhỏ, tiếng rì rầm nói chuyện của nhiều người ở chung quanh chòi. Tôi nghĩ đây chắc là một địa điểm, một căn cứ nào đó của du kích xã địa phương, chứ trạm giao liên tất đóng ở nhà đồng bào, có đâu ở ngoài rừng ngoài bụi thế này. Tôi nóng ruột, lại hỏi Mười:
– Tới chưa anh Mười?
Mười không trả lời ngay câu hỏi tôi, bước thêm mấy bước:
– Anh đứng đây chờ tui. Tui vô trạm một chút!
– Bộ tới trạm rồi hả?
– Ừ, trạm đường dây của huyện đội Bình Tân.
Tôi mừng vô tả. Mười bước vào chòi. Tuy từ chỗ tôi đứng cách chòi chừng mười thước nhưng vì nói nhỏ quá nên tôi chỉ nghe tiếng nói chuyện xì xầm giữa Mười và một người đàn ông nào đó.
Chưa đầy một phứt đã thấy Mười lui ra đứng trước cửa chòi, lớn tiếng nói vọng vào:
– Các đồng chí không nhận anh ta thì tôi phải làm sao đây?
Từ trong chòi, tiếng nói của một người đàn ông vọng ra:
– Làm sao thì làm, ai biết! Tùy đồng chí. Kiếm chỗ nào đó nghỉ đỡ đi chớ, ở đây ban đêm ban hôm tui đâu dám nhận khách!
– Không dám nhận sao đầy nhóc người vậy?
– Tui đã nói là không có khách nào hết. Chỉ có số tân binh do Huyện đội đưa tới hồi trưa để gởi về Phòng Tuyển Mộ I tư. Tôi giải thích cho đồng chí nghe rồi mà!
Mười vẫn còn kỳ kèo:
– Khách tui đưa tới cũng là tân binh đưa về Phòng Tuyển Mộ I tư vậy. Sao đồng chí không nhận?
Tiếng nói ở trong chòi bỗng lớn hơn:
– Tại không nhận chớ sao! Gì mà kỳ kèo hoài vậy? Tui đã giải thích với đồng chí là bây giờ tối rồi, trong trạm cũng như xung quanh trạm, chật nứt không còn một chỗ trống, nằm sắp cá mòi nè thấy không? Việc thu xếp chỗ ngủ, việc canh gác, bảo vệ là cả một vấn đề khó khăn, trở ngại cho tui nên tui không nhận. Đồng chí chịu khó về đi! Mai đưa đến đây tui nhận cho.
Mười vẫn chưa thôi, gay gắt:
– Đồng chí biết, bộ đơn vị tui ở gần đây sao? Đi một ngày trời, giờ đồng chí biểu về! Bữa nay tới trễ bị anh Hùng, anh đó ảnh không quen đi bộ, bết bát dọc đường nên tới trễ. Nguyên tắc gì mà nguyên tắc dữ vậy?
-Tui nói hổng được là hổng được. Hổng có nguyên tắc gì hết! Sáng đưa lại đây!
Mười lại càu nhàu:
– Đồng chí phải thông cảm cho tôi, phải linh động một chút chớ! Qua sự liên hệ công tác, các đồng chí phải nhận khách của tôi đưa đến chớ! Ngay trường hợp đêm nay, khách của tôi là một trí thức ở Saigòn đến, đồng chí làm như vậy có phải gây ấn tượng xấu, thất chính sách của Mặt Trận đẻ ra không?
Tiếng nói ở trong chòi trở thành giận dữ như hét lên:
– Ê.. Ê! Thất chính sách hả? Đồng chí đừng có đem chính sách ra mà dọa tui! Chính sách gì cũng dẹp! Bây giờ ông trời tui cũng không nhận chớ trí thức. Trí thức là cái gì? Hỏng có tri thức trí ngủ gì hết! Ngày mai đưa tới đây. Đúng một giờ chiều, trễ sớm gì cũng không nhận thử coi ai làm gì tui. Mẹ… về nhà làm ruộng ăn còn khoái hơn làm cái nhiệm vụ trưởng trạm này.
Mười không nói nữa, tức tối xâm xâm quay ra. Tôi thất vọng hết sức. Sau một ngày đường xa, mệt tưởng đứt hơi, tay chân rũ liệt, giờ này tôi như một cái máy đồng hồ hết dây thiều. Tôi chỉ ao ước được ngả lưng xuống nằm nghỉ.Vậy mà nghe cuộc đối thoại, cãi vã vừa qua tôi cũng muốn nổi khùng lên.
Mười đến bên tôi hậm hực nói:
– Đi anh!
Tôi chép miệng, ngao ngán:
– Đi đâu bây giờ?
– Đi kiếm chỗ ngủ! Mình trở lại đường cũ, chỗ cái quán hủ tiếu, nhờ cô con gái ông chủ quán bơi xuồng qua bờ kinh xáng bên kia, chun vô trường học của con nít bỏ trống đó, dọn chỗ ngủ.
Tôi chắc lưỡi kêu trời, tưởng chừng ngã lăn ra!
-Trời ơi! Năm bảy cây số chớ ít gì! Bây giờ tôi đi hết nổi rồi. Bò cũng không xiết nữa. Tôi giờ này như cái áo rách, bèo nhèo, trời lại tối om không thấy đường đi làm sao nổi. Hay là kiếm nhà gần đây xin ngủ nhờ đi.
– Không được đâu anh! Đồng bào không cho đâu. Kêu cửa họ cũng không mở.
– Trời đất!
– Họ sợ nửa đêm Quốc Gia đột kích họ bị vạ lây. Tui bị họ từ chối nhiều lần rồi.
Tôi chép miệng:
– Lạ thiệt! Đồng bào ở đây…
– Lạ gì anh! Kinh xáng này chạy đến lộ Đức Hòa – Chợ lớn đó. Từ đây đến đồn Cầu Xáng chừng năm cây số. Cho nên ban ngày anh muốn nói gì thì nói, ban đêm có ai thèm nghe đâu!
Tôi lại đề nghị:
– Hay là xem coi bụi cây nào gần đây, khô ráo mình tấp vào ngủ đại đi!
– Không được đâu! Rủi nửa đêm có động thì chạy ngõ nào?
– Vậy ở trạm mà có động họ chạy đi đâu?
– Tui nói hổng được mà! Họ có một tiểu đội súng bắn bảo vệ, lại thông thuộc đường đi nước bước ở đây. Tui lại không biết đường… Có trở về bên kia Kinh xáng, vừa xa đồn, vừa có rừng tràm gần bên, có gì mình rút vô rừng tràm trốn được.
Tôi đành thở dài, buông xuôi:
– Thực là đại họa! Phải được ngủ lại trạm này thì tốt biết bao nhiêu. Thôi thì đi vậy.
Mười nghe tôi nói, cậu ta có lẽ tức lên đến tận cổ nên chửi thề một câu cho đỡ tức:
– Đéo mẹ! Cái thằng trưởng trạm trời đánh thiệt! Bữa nay gì vật nó nên nó sanh chứng. Mọi lần đâu có dị hợm như vậy! Vậy chớ cũng thuộc hàng cán bộ B, trung đội trưởng trung đội phó như ai. Đảng viên cốt cán nữa chớ! Chó thiệt!
Bỗng có tiếng lên cò súng lách cách, rợn người. Tiếp theo là tiếng nạt lớn:
– Đ.m.! Thằng nào đó? Thằng nào chửi tao đó. Đứng yên! Chạy tao bắn bỏ mẹ bây giờ!
Thì ra trong lúc tôi và Mười đứng láp dáp nói chuyện ở đây, trưởng trạm giao liên lần mò ra hồi nào không hay. Câu chửi thề của Mười làm anh ta nổi đom đóm mắt. Tôi và Mười đứng im phăng phắc, nghe lạnh ở sống lưng.
Anh ta lại làm mặt lạ, hét lên:
– Đâu, tụi bay trong chòi xách ra cho tao cây đèn pin, rọi lên coi!
Từ trong chòi có hai người bấm đèn, rầm rập chạy ra.
Cách tôi và Mười chừng năm thước là một thanh niên đang cầm khẩu súng trường trên tay, lăm lăm chĩa thẳng vào phía chúng tôi. Anh ta giật lấy đèn pin của người mới ra tới, soi ngay vào mặt Mười, cười gằn, giọng khó thương làm sao:
– Tưởng thằng nào lạ, té ra thằng giao liên B39! Ê, sao mày chửi tao mậy? Đơn vị mày giáo dục lính như vậy hả?
Mười run run noi:
– Có gì thì đồng chí phê bình tui chớ đồng chí không được nói lỗ mãng vậy…
– Lỗ mãng hả?
– Hổng lỗ mãng mà giở thái độ thằng này thằng nọ, đéo mẹ, đéo bà! Đồng chí tưởng đồng chí có súng tui hổng có súng sao?
– Ừ, có súng thì làm gì làm thử cái coi! Bộ lính của I4 là ngon hả?
Trước sự thể không dằn được, tôi bắt đầu lên tiếng:
– Thôi, hai anh cho tôi xin đi! Đồng chí với nhau mà. Có gì thì phê bình kiểm thảo nhau…
Anh ta ngắt lời tôi:
– Đó, anh thấy đó, tui có đụng chạm, nặng nhẹ gì nó đâu. Chỉ có việc nó biểu tôi nhận khách là anh đó. Tui nói tối rồi trạm không còn chỗ, tui không nhận, sáng mai trở lại tui nhận cho. Vậy mà nó ra đây đéo mẹ tùm lum, chửi thề nào là trời đánh, sanh chứng, dị hợm, cán bộ, đảng viên chó nữa!
– Kể ra anh Mười nói vậy cũng không phải mà anh bây giờ nóng quá cũng không nên. Thôi cho tôi xin đi.
Anh ta buông xụi súng xuống nhưng vẫn còn hậm hực:
– Để tui làm báo cáo gởi về B39 thử xem thủ trưởng B39 có dám lạy nó không?
Anh ta quay sang Mười:
– Cho đồng chí biết, vì cách mạng đó! Dân này giác ngộ lắm rồi đó!Nếu không thì.. máu đổ nãy giờ…
Mười cũng trả đũa một câu:
– Hừ! Tui cũng sẽ làm báo cáo gởi Huyện ủy Bình Tân, xem Huyện ủy có mời đồng chỉ về kiểm thảo không?
Anh ta nổi nóng:
– C.! Cho đồng chí làm một chục báo cáo đó. Thôi, đi đi! Đi khuất mắt đi! Láng cháng một hồi nữa có chuyện lớn bây giờ.
Không thể làm gì khác hơn, tôi kéo tay Mười:
– Thôi, đi anh Mười. Anh em với nhau không mà!
Tôi và Mười lửng thửng đi ra khỏi bờ sậy.
Mò mẫm trong đêm, chúng tôi trở lại quán hủ tiếu nhờ cô con gái ông chủ quán bơi xuồng đưa sang bờ kinh xáng bên kia. Phải năn nỉ mãi và viện lý do là một khách hàng quen thưộc, cô gái kia mới miễn cưỡng tát nước xuồng chở chúng tôi sang bên kia bờ.
Mười phút sau, chúng tôi đến trường học. Trường học là một mái nhà tranh nhỏ, xiêu vẹo nằm trên môt mảnh đất hoang, bốn bề không phên vách. Mười móc quẹt máy, bật lửa cháy sáng làm đèn.
Tôi để túi vải cao su xuống đầu bàn học. Bàn học là những miếng gỗ tạp ọp ẹp, chiều rộng hơn một gang tay. Băng ngồi là những thân cây so đũa gầy khẳng khiu, buộc lạt dừa nằm song song từng hàng. Tôi ngồi xuống băng thở dốc, lắng nghe cơ thể mình dường như muốn rời ra từng đoạn một.
Ống quần đầy những sình và lưng áo ướt đẩm mồ hôi. Mùi mồ hôi đóng nhiều lớp cộng với mùi meo mốc của bàn ghế, mùi đất ẩm ướt xông lên tôi thấy ngột ngạt, buồn nôn. Quẹt máy khô tim tắt ngóm. Gian nhà chìm trong tối đen. Muỗi bắt đầu đáp vào mặt, vào chân tôi, đốt những phát đau điếng.
Tôi uể oải hỏi Mười:
– Nhà cửa như vầy thì đêm nay mình ngủ bằng cách nào đây? Chẳng lẽ mình ngủ ngồi, chịu trận sáng đêm?
Mười cũng ngồi đối diện với tôi, bập bập điếu thuốc lá vấn tay:
– Ngủ võng chớ! Hôm qua tui mướn người ta may nuông võng cho anh rồi mà!
– May rồi nhưng chưa có dây dù lấy gì cột võng?
– Hay là… cũng không được! Thôi… thì đành ăn chay nằm đất! Để tui trải nylon xuống lót lưng, anh nằm tạm vậy nhá?
– Anh lấy nylon choàng che mưa ấy à?
Mười tháo tấm nylon cao su che mưa cuốn tròn chặt vào thắt lưng ra, giũ mạnh mấy cái. Nylon khô dòn chạm vào nhau như tiếng bánh tráng vỡ:
– Tấm nylon của tui nó cũng «gần miền» lắm rồi, dòn như giấy, rách hết mấy lỗ. Phen này, về đề nghị xin lần nữa mà không được chắc phải bỏ tiền túi ra mua. Anh biết! Tui đề nghị xin ba lần rồi chưa được chấp thuận. Lần nào anh Bảy, ảnh cũng bảo chưa đúng tiêu chuẩn.
– Còn anh, anh ngủ bằng cách nào?
– Tui có võng. Tui giăng võng xéo qua hai góc nhà là xong rồi!
Mười trải nylon ra đất làm chỗ ngủ cho tôi xong, anh ta đi mò mẫm chọn chỗ giăng võng. Dù trời tối om, thoáng cái anh ta đã giăng xong. Tôi xách túi vải cao su liệng xuống làm gối kê đầu, nằm phịch xuống theo.
Mười leo lên võng gọn hơ:
– Một phút đồng hồ sau tui có thể ngáy được rồi đó!
Băn khoăn về mình mẩy đầy mồ hôi, ngứa ngáy, chân toàn bùn đất, tôi lên tiếng:
– Quần áo, mình mẩy thế này làm sao anh Mười? Tôi muốn xuống kinh rửa sơ qua, thay quần áo một chút quá?
– Thôi anh ơi! Tắm làm gì. Ráng ở dơ cho nó quen. Ngày nào cũng đi, ngày nào cũng lội sình… Nếu ngày nào anh cũng tắm, cũng giặt thay quần áo thì bồng, bị của anh toàn đồ ướt!
Tôi nghĩ lời của Mưrời nói có lý. Ngày nào cũng đi, vịêc phơi phóng ra làm sao? Duỗi chân nằm dài ra trên tấm nylon, cơ thể tôi như chiếc áo rách, rũ xuống bất động. Mười nằm trên võng đưa cót két, có lẽ còn ấm ức về chuyện đã xảy ra nên cố nói thêm ít câu cho hả dạ:
– Cai thằng trưởng trạm chó chết thiệt! Nếu không giờ này mình đã ngủ mất rồi.
Sực nhớ đến cái chuyện Bảy làm giấy giới thiệu gởi tôi đi, tôi tò mò muốn biết:
– À, anh Mười! Anh thấy giấy giới thiệu của tôi, anh Bảy ảnh giới thiệu tôi đi về đơn vị nào không?
Mười làm như không nghe lời tôi hỏi:
– Trạm này là trạm giao liên của Huyện đội Bình Tân. Anh biết hông? Bình Tân là tên của hai quận Bình Chánh với Tân Bình sát nhập lại đó. Trước giờ đơn vị tui liên hệ với họ, hễ có khách đưa về rờ (R) hay i tư (I 4) thì đưa đến họ. Mọi lần đâu có hì hợm vầy. Không biết bữa nay nó bị ai cạo nên nó trút lên đầu mình để gỡ. Đúng là thua me gỡ bài cào!
Tôi lập lại câu hỏi:
– Anh Mười nè! Anh thấy giấy giới thiệu của anh Bảy đưa tôi đi về đơn vị nào không?
Mười ấp úng:
– Tui… tui à! Tui đâu biết. Giấy giới thiệu đựng trong bao thơ, kèm theo lý lịch của anh. Tui đâu có biết!
– Vậy, ngoài bao thơ đề tên đơn vị nào?
– Tui… tui cũng hổng có đọc nữa! Thôi, ngủ anh!
Tôi đành ấm ức làm thinh.
Mò mẫm trong đêm, chúng tôi trở lại quán hủ tiếu nhờ cô con gái ông chủ quán bơi xuồng đưa sang bờ kinh xáng bên kia. Phải năn nỉ mãi và viện lý do là một khách hàng quen thưộc, cô gái kia mới miễn cưỡng tát nước xuồng chở chúng tôi sang bên kia bờ.
Mười phút sau, chúng tôi đến trường học. Trường học là một mái nhà tranh nhỏ, xiêu vẹo nằm trên môt mảnh đất hoang, bốn bề không phên vách. Mười móc quẹt máy, bật lửa cháy sáng làm đèn.
Tôi để túi vải cao su xuống đầu bàn học. Bàn học là những miếng gỗ tạp ọp ẹp, chiều rộng hơn một gang tay. Băng ngồi là những thân cây so đũa gầy khẳng khiu, buộc lạt dừa nằm song song từng hàng. Tôi ngồi xuống băng thở dốc, lắng nghe cơ thể mình dường như muốn rời ra từng đoạn một.
Ống quần đầy những sình và lưng áo ướt đẩm mồ hôi. Mùi mồ hôi đóng nhiều lớp cộng với mùi meo mốc của bàn ghế, mùi đất ẩm ướt xông lên tôi thấy ngột ngạt, buồn nôn. Quẹt máy khô tim tắt ngóm. Gian nhà chìm trong tối đen. Muỗi bắt đầu đáp vào mặt, vào chân tôi, đốt những phát đau điếng.
Tôi uể oải hỏi Mười:
– Nhà cửa như vầy thì đêm nay mình ngủ bằng cách nào đây? Chẳng lẽ mình ngủ ngồi, chịu trận sáng đêm?
Mười cũng ngồi đối diện với tôi, bập bập điếu thuốc lá vấn tay:
– Ngủ võng chớ! Hôm qua tui mướn người ta may nuông võng cho anh rồi mà!
– May rồi nhưng chưa có dây dù lấy gì cột võng?
– Hay là… cũng không được! Thôi… thì đành ăn chay nằm đất! Để tui trải nylon xuống lót lưng, anh nằm tạm vậy nhá?
– Anh lấy nylon choàng che mưa ấy à?
Mười tháo tấm nylon cao su che mưa cuốn tròn chặt vào thắt lưng ra, giũ mạnh mấy cái. Nylon khô dòn chạm vào nhau như tiếng bánh tráng vỡ:
– Tấm nylon của tui nó cũng «gần miền» lắm rồi, dòn như giấy, rách hết mấy lỗ. Phen này, về đề nghị xin lần nữa mà không được chắc phải bỏ tiền túi ra mua. Anh biết! Tui đề nghị xin ba lần rồi chưa được chấp thuận. Lần nào anh Bảy, ảnh cũng bảo chưa đúng tiêu chuẩn.
– Còn anh, anh ngủ bằng cách nào?
– Tui có võng. Tui giăng võng xéo qua hai góc nhà là xong rồi!
Mười trải nylon ra đất làm chỗ ngủ cho tôi xong, anh ta đi mò mẫm chọn chỗ giăng võng. Dù trời tối om, thoáng cái anh ta đã giăng xong. Tôi xách túi vải cao su liệng xuống làm gối kê đầu, nằm phịch xuống theo.
Mười leo lên võng gọn hơ:
– Một phút đồng hồ sau tui có thể ngáy được rồi đó!
Băn khoăn về mình mẩy đầy mồ hôi, ngứa ngáy, chân toàn bùn đất, tôi lên tiếng:
– Quần áo, mình mẩy thế này làm sao anh Mười? Tôi muốn xuống kinh rửa sơ qua, thay quần áo một chút quá?
– Thôi anh ơi! Tắm làm gì. Ráng ở dơ cho nó quen. Ngày nào cũng đi, ngày nào cũng lội sình… Nếu ngày nào anh cũng tắm, cũng giặt thay quần áo thì bồng, bị của anh toàn đồ ướt!
Tôi nghĩ lời của Mưrời nói có lý. Ngày nào cũng đi, vịêc phơi phóng ra làm sao? Duỗi chân nằm dài ra trên tấm nylon, cơ thể tôi như chiếc áo rách, rũ xuống bất động. Mười nằm trên võng đưa cót két, có lẽ còn ấm ức về chuyện đã xảy ra nên cố nói thêm ít câu cho hả dạ:
– Cai thằng trưởng trạm chó chết thiệt! Nếu không giờ này mình đã ngủ mất rồi.
Sực nhớ đến cái chuyện Bảy làm giấy giới thiệu gởi tôi đi, tôi tò mò muốn biết:
– À,anh Mười! Anh thấy giấy giới thiệu của tôi, anh Bảy ảnh giới thiệu tôi đi về đơn vị nào không?
Mười làm như không nghe lời tôi hỏi:
– Trạm này là trạm giao liên của Huyện đội Bình Tân. Anh biết hông? Bình Tân là tên của hai quận Bình Chánh với Tân Bình sát nhập lại đó. Trước giờ đơn vị tui liên hệ với họ, hễ có khách đưa về rờ (R) hay i tư (I 4) thì đưa đến họ. Mọi lần đâu có hì hợm vầy. Không biết bữa nay nó bị ai cạo nên nó trút lên đầu mình để gỡ. Đúng là thua me gỡ bài cào!
Tôi lập lại câu hỏi:
– Anh Mười nè! Anh thấy giấy giới thiệu của anh Bảy đưa tôi đi về đơn vị nào không?
Mười ấp úng:
– Tui… tui à! Tui đâu biết. Giấy giới thiệu đựng trong bao thơ, kèm theo lý lịch của anh. Tui đâu có biết!
– Vậy, ngoài bao thơ đề tên đơn vị nào?
– Tui… tui cũng hổng có đọc nữa! Thôi, ngủ anh!
Tôi đành ấm ức làm thinh.