← Quay lại trang sách

Chương XIV (2)

Trong chiến dịch Đồng Xoài, Quân Y «R» cho lập bốn đội giải phẫu dã chiến là đội 110, 112, 114 và 116. Nhiệm vụ của các đội này, tiếp trợ với các đội giải phẫu của ba Trung đoàn Q1, Q2, Q3, cứu cấp và giải quyết tạm các chiến thương để chuyển về tuyến sau, tuyến bệnh viện hậu phương. Tại các bệnh viện hậu phương sẽ kiểm soát lại từng chiến thương một, thực hiện đợt điều trị cuối cùng.

Như vậy, các chiến thương được điều trị qua các đội giải phẫu chỉ là điều trị có tánh cách cứu cấp, mổ xẻ băng bó để chiến thương thoát qua tình trạng nguy hiểm, thương vong ở những ngày đầu. Sau đó, khi chuyển về bệnh viện hậu phương, tuyến này lại mở vết thương xem lại, thực hiện cuộc điều trị thiệt thọ cho đến khi thương binh lành hẳn.

Bốn đội «Giải Phẫu Dã Chiến» kể trên, ba đội 110, 112, 114 ra mặt trận, duy chỉ có đội 116 với nhiệm vụ «Giải Phẫu chấn thương» ở hậu phương nên ăn chực nằm chờ ở bệnh viện Đội 16, chờ chiến thương gửi về, Bác sĩ Vũ Trọng Kính nằm chung với đội phẫu 116, do một y sĩ khác làm đội trưởng. Tuy nhiên về phương diện chuyên môn, mọi sự phân phối đều do Kính định đoạt. Kính được Bộ Tổng Tư Lệnh miền Bắc đưa vào Nam, giữa năm 1964 theo đường biển, đổ bộ bờ biển Ba Tri (Bến Tre). Sau đó được đưa về R. Những ngày còn ở Hà Nội, Vũ Trọng Kính được xem là một trong những chuyên gia chấn thương lỗi lạc của Viện Nghiên Cứu Y học quân sự miền Bắc, Phó tiến sĩ Y khoa do Mát-sco-va đào tạo. Và Kính, nguyên là chủ nhiệm Khoa chấn thương của Bệnh viện quân sự 103 – một trong hai bệnh viện quân sự lớn nhất của Hà Nội.

Trong đợt của Kính vào Nam, trước Kính mấy ngày, toàn là những «chuyên gia cao cấp» của ngành quân y Miền Bắc, những «nghiên cứu sinh» du học các nước Liên Xô, Đức, Tiếp, Hung, Trung Quốc, Triều Tiên v.v….

Theo lời Kính cho biết, hiện tại Phòng Quân Y R, tức cơ quan lãnh đạo cao nhất về quân y miền Nam gồm các bác sĩ chuyên gia kể trên. Kính vào sau, lại thích công tác điều trị sống với thương binh nên tình nguyện đi theo các chiến dịch.

Tôi ngồi nói chuyện với bác sĩ Vũ Trọng Kính có đến nửa giờ vẫn chưa thấy Hoà trở lại. Kính đưa tay xem giờ bảo tôi:

– Đã đến giờ tôi phải vào buồng giải phẫu rồi! Anh có cùng đi xuống dưới ấy chơi không?

– Dạ, cảm ơn anh!

– Suốt ba hôm nay, tôi làm việc không ngừng. Đêm nào cũng thức suốt sáng ở buồng giải phẫu. Hôm nay thì đỡ nhiều lắm rồi, những ca hóc hiểm, gay go nhất đã giải quyết xong. Như đêm hôm qua, tôi chui ra khỏi buồng mổ, thì mọi người vừa thức dậy súc miệng, rửa mặt. Mắt tôi hoa lên, cay xè, đầu nặng như chì, lảo đảo không vững. Anh biết không giữa hai ca mổ, buông cái bistouri ra rồi, đứng tựa lưng vào cột là ngủ hồi nào không hay. Thức riết rồi, cà-phê đen anh em pha cho thật sánh uống cũng chẳng ăn thua.

– Bộ mấy hôm nay buồng giải phẫu phải mổ suốt mấy ngày đêm sao anh?

– Vâng!

– Vậy anh làm sao chịu thấu?

– Nói ngay, mấy hôm nay, buổi sáng sau khi ở buồng giải phẫu ra là tôi tìm chỗ ngủ một giấc đến trưa. Thức dậy, tắm rửa ăn cơm xong mới lại vào buồng giải phẫu tiếp tục. Trong thời gian tôi ngủ các đồng chí y sĩ ở đây thay phiên, họ giải quyết những trường hợp nhẹ, vết thương phần mềm. Nhưng hôm qua đây, tôi vừa nằm ngủ chừng nửa giờ, có một ca biến chứng xuất huyết nội phải cấp cứu, mấy anh em lại chạy đến lôi dậy đi hội chẩn, rồi rửa tay chui vào buồng giải phẫu. Mắt nhắm mắt mở tôi cũng phải làm. Bởi tôi không làm thì thương binh hy sinh. Anh em y sĩ ở đây đâu đủ sức giải quyết những ca nối động mạch chậu sau.

– Động mạch chậu sau là động mạch nào anh?

Kính hơi ngạc nhiên trước kẻ ù lì về chuyên môn như tôi, đoạn nhìn tôi, rồi mỉm cười, từ tốn giải thích cho tôi hiểu:

– Cái khung xương giáp giới hai xương đùi và mông danh từ y khoa gọi là xương chậu. Phía trái gọi là chậu trái. Phía mặt gọi là chậu phải. Động mạch chậu nối liền với động mạch đùi. Đồng chí thương binh đó bị thương vỡ xương chậu thủng động mạch. Trước đây, ở mặt trận, đội giải phẫu dã chiến họ giải quyết tạm, phần cứu cấp. Lúc đó chỗ động mạch bị thủng, nhờ những sợi tơ huyết gọi là fibrin đong lại, lấp đi. Giờ fibrin tróc ra, thế là xuất huyết nội. Xuất huyết nội là máu chảy bên trong ổ bụng. Giải quyết trường hợp đó phải mổ bụng dưới, banh ruột ra, nối động mạch xong, khâu bụng lại.

Tôi dù được nghe giải thích vẫn ù ù cạc cạc, chẳng hiểu ra làm sao. Không thể nào hình dung nổi trường hợp đó.

Kính đứng dậy:

– Thôi, mình đi anh!

Tôi lững thững bước theo. Ngang qua hai trại bệnh ở phía mặt. Kính cho biết đó là 2 trại trung thương. Trại bệnh cũng như bao nhiêu nhà khác ở đây, trống lổng, không phên vách.

Xuôi theo nhà, ba cây đòn dọc cột song song, cao hổng mặt đất chừng hơn thước. Hai hàng võng giăng sát nhau. Trên mỗi võng có một người nằm. Võng thay cho giường. Thương binh nằm thế này, không hiểu họ có cảm giác ra sao?

Đi khỏi văn phòng trăm thước đụng phải một chiến hào dài. Từng quãng có lót cây và đắp đất bên trên cao lên như những nấm mộ. Kính giải thích cho biết những chỗ có «nấm mộ» là những ụ để thương binh nặng nằm khi có tình hình găng, phi cơ địch hoạt động thường xuyên. Cũng may, mấy hôm nay vùng này yên tĩnh nên thương binh còn để ở trên, chưa phải hạ hầm. Qua khỏi chiến hào là chòm nhà trước mặt – Nhà giải phẫu và những trại trọng thương. Nhà giải phẫu chung quanh căng vải mùng trắng toát, từ sát mặt đất lên đến nóc để ngừa muỗi và côn trùng. Cửa cũng là vải mùng. Bên hông, một hành lang trống đi ra sau nối liền với nhà nấu, hấp dụng cụ và bồn rửa tay.

Kính dẫn tôi vượt qua hành lang, tại nhà nấu, hấp dụng cụ, tôi gặp ngay năm sáu người đang quây quần chung quanh một bộ bình trà để ở mặt đất. Nhưng trước mặt mỗi người là một cốc cà-phê sữa. Kế bên bộ bình trà, một thau kẹo đậu phộng.

Tôi bắt gặp Hoà đang nhai kẹo, tiếp lấy một điếu thuốc Ruby do người kế bên đưa cho. Tôi thấy khó chịu hết sức. Khó chịu vì y đã bỏ tôi ngồi chong ngóc ở văn phòng với Bác sĩ Kính xuống đây ngồi ăn kẹo, uống cà-phê, đấu láo ở đây. Dù sao, tôi cũng là khách của y mà!

Và dù tôi là cán bộ lậu, cấp bậc thấp hơn y đi nữa, cũng là khách, được lệnh Bộ Chỉ huy Tiền Phương tiếp xúc, công tác với y.

Quả là một sự khiếm nhã, không còn biết lịch sự là gì. Thế mà y bảo là đi tìm Ban Chỉ huy Bệnh viện báo tin có khách, về tiếp xúc!

Một người chợt ngẩng lên nhìn thấy Kính và tôi. Anh ta nhìn sang Hoà nói khẽ:

– Có ai…

Hoà quay ra:

– À! Anh Hùng! Vào đây chơi!

Và Hoà giới thiệu luôn:

– Toàn dân khu A cả! Có ai lạ đâu. Anh Hùng trước đây là lính của Hai Minh ở B195 rồi về trạm đường dây A1. Bây giờ được rút về công tác ở Bộ Chỉ huy Tiền Phương đến đây thăm anh em thương binh.

Tôi cố thản nhiên nhoẻn miệng cười và gật đầu chào mọi người. Tôi hiểu Hoà muốn giới thiệu ngầm cho mọi người biết, đừng có thấy mang súng ngắn là thuộc loại cán bộ có «uy» đâu. Lính của Hai Minh tức là lính của một cán bộ hạng bét khu A, «ngáp phải ruồi» thì thứ «cán» đó, anh em cứ xem như chẳng đáng kể.

Nhưng tôi chợt lấy làm lạ. Tôi chẳng ăn nhằm gì, đúng rồi. Còn bác sĩ Vũ Trọng Kính, tôi nghĩ ít ra cũng thuộc loại cấp trên Hoà về cả chuyên môn, cũng như cấp bậc Đảng hay cấp bậc quân đội. Bởi một «tay tổ y khoa» từ Hà Nội vào Nam, lại được Trung Ương Đảng cử làm nghiên cứu sinh sang «tu nghiệp» ở Liên Xô, hẳn phải hơn Hoà. Tại sao y lại có thể không một lời mời Kính uống chút cà-phê ăn miếng kẹo, cả một lời nói cho phải phép lịch sự. Y không cần giữ lịch sự với Kính, hoá ra…hoá ra Kính cũng như tôi sao?

Khác xa mà! Hay giữa hai người đã có sự đố kỵ, mâu thuẫn nào? Lạ!

Trông Kính, phong thái, dáng dấp trí thức, cán bộ cao cấp so với tất cả mọi người ở đây… Kính nói chuyện rất khiêm tốn, hoà nhã, khôn khéo dịu dàng, huống hồ cả Hoà, cả những y bác sĩ ở đây chỉ có thể là học trò Kính về chuyên môn. Thế, tại sao?

Trong khi, người ta «mở rộng vòng vây» cho tôi và Kính xáp vào, Kính nhìn tôi:

– Xin mời anh ngồi vào uống nước với anh em chơi!

– Dạ, mời anh! Tôi nói.

Kính cười, thật thà:

– Tôi không uống được trà. Tôi còn xem qua cái này một tí.

Kính cúi đầu, lom khom bước đi từng bước, đi lại hai cái nồi nhôm to, loại thùng nấu phở đang sôi sùng sục trên bếp, giở nắp, ghé mắt nhìn vào. Kính vui vẻ hỏi một cô gái có mang mạng trắng ngang miệng và mũ trùm đầu:

– Đồng chí có nhớ luộc hộ tôi đôi găng cao su không?

Có lẽ cô ta là một y tá:

– Dạ có! Dạ có phải đôi găng trắng mổ ca cắt đoạn đùi đêm hôm qua không chú Chín?

– Đúng đó!

Kính lại lom khom vòng trở lại, đẩy màn chui vào phòng giải phẫu. Hoà rót cho tôi một chung nước trà đậm:

– Uống trà, anh Hùng! Hi…hi! Cà-phê hết sạch rồi. Tiếc quá, không còn, pha mời anh!

Tôi nâng chung nước lên miệng. Hoà thì thầm với người ngồi cạnh

– Ở trong rừng thế này mà găng với không găng. Làm y như ở 103 Hà Nội. Đéo quả, ra mặt trận, tay còn không rửa được cũng phải mổ như thường. Mạnh về penicillin mà! Phải không Mười Tài?

Thì ra Mười Tài, Viện Trưởng «đội 17» là người này đây. Người anh ta gầy, má hóp. Đôi môi mỏng dính. Càm trống trơn không một sợi râu. Tuổi tác cũng đến bốn mươi lăm. Anh ta cười hề hề mắt nhìn xuống đất:

– Dạ, đúng trăm đó, anh Ba! Vậy mà thương binh vẫn lành bệnh. Không thấy ai chết vì nhiễm trùng. Kể cũng lạ, chẳng giống sách vở chút nào.

Hoà bắt sang chuyện tôi:

– Đây là đồng chí Mười Tài, Viện trưởng đội 17 đó, anh Hùng. Còn mấy anh em đây là y sĩ phục vụ tại đây.

Tôi chào mọi người bằng mắt một lần nữa.

Hoà tiếp:

– Trước giờ chắc anh chưa được «tham quan» một ca mổ nào?

Hai chữ tham quan tôi nghe lạ quá, mới quá. Danh từ «xã hội chủ nghĩa» có khác! Nhưng tôi cũng hiểu lờ mờ rằng «tham quan» chắc có nghĩa «tham dự quan sát». Tôi trả lời ngay:

– Dạ, chưa anh!

– Chốc nữa đây, có một ca đại phẫu thuật sọ não. Anh tham quan một lần cho biết. Xem thử coi trình độ kỹ thuật của mình có hơn tụi đế quốc không? Tôi tin là trình độ của mình hơn xa.

Tôi làm thế chó nào biết được hơn hay không?

Đã bảo là từ trước giờ tôi có được nhìn thấy một cuộc mổ xẻ nào, bất kỳ ở nơi nào đâu? Huống hồ, chuyên môn y khoa đối với tôi, mù tịt, thì còn biết trời đất gì. Chẳng khác một anh chàng dốt đặc cán mai, «ni A ni B», bảo đọc hai cuốn sách xem coi cuốn nào hay hơn cuốn nào? Đã không đọc được chữ, «sức nào» mà so sánh?

Nhưng lần đầu tiên trong đời, có dịp được nhìn vào cái thế giới mình chưa biết, đó là một hân hạnh. Một dịp may hiếm có. Tôi bắt đầu quan sát chung quanh. Ngoài hàng hiên phía sau, hai sợi dây phơi, căng đầy những áo choàng, mũ đội, mạng băng, drap, khăn vải tất cả đều trắng toát.

Ở góc nhà, bồn rửa tay là một chậu thau thật to, khoét thủng đít, gắn liền vào một ống nylon cỡ lớn, chuyền ra cái hố nhỏ bên ngoài. Sát đất, dưới đít chậu thau là hai bàn đạp do hai sợi dây treo, nối liền với hai «thùng phở» chứa nước trên kệ cao. «Mỗi thùng phở» có dán giấy đề chữ bên ngoài. Thùng phía trái: «NƯỚC CHÍN». Thùng phía mặt: «NƯỚC SỐNG». Mỗi thùng có một vòi cao su, chạy qua một thanh cây thẳng, thò xuống giữa chậu thau cách mặt chậu chừng ba tấc.

Kế bên chậu thau là một lon đựng xà-bông, chai xà-bông nước và ba cái bàn chải giặt quần áo.

Bên lò Hoàng Cầm, 2 «thùng phở» sáng bóng, đang sôi sùng sục. Ở miệng lò một cái ấm nhôm để ghé lên lửa than. Và hai củ khoai mì nướngười nằm tênh hênh trên tro nóng.

Bác sĩ Kính từ trong buồng giải phẫu ra, ngập ngừng:

– Mình… mình bắt đầu làm việc được chưa… các đồng chí?

Mọi người nhìn nhau. Mười Tài trả lời xuôi xị:

– Cũng…được!

Kính không nói, không rằng, lẳng lặng cởi trần đem áo vào buồng giải phẫu, máng ở đâu đó, đoạn trở ra đến bên chậu thau. Một tay chộp lấy cục xà-bông, một tay cầm lấy bàn chải giặt quần áo đưa vào chậu thau.

Sau đó, Kính dậm chân lên bàn đạp phía mặt. Nước trên thùng «NƯỚC SỐNG» theo vòi chảy xuống chậu thau. Kính đưa hai tay ra hứng và bắt đầu xoa xà-bông hết hai tay lên đền cùi chỏ. Chiếc bàn chải giặt quần áo trở thành bàn chải rửa tay, chà sồn sột từ móng tay, kẻ tay, ngón tay rồi khắp chỗ. Bọt xà-bông trắng xóa, tung đầy. Chưa cần đến nước dội.

Vừa chà xát tay, miệng Kính vừa mỉm, vừa nhăn, hai hàm răng cắn chặt. Trông buồn cười làm sao. Bàn chải giặt quần áo, đem chà ào ào, sồn sột trên tay chắc là đau lắm nhỉ?

Nhìn thấy Kính chà tay, một người rồi hai, ba người rời «mâm trà» đứng dậy. Kẻ cởi áo, người chui vào buồng giải phẫu. Kẻ bước ra ngoài. Ý chừng bắt đầu rửa tay nữa đây!

Duy chỉ có Hoà, Tài là ngồi yên như bàn thạch, thong thả hớp từng ngụm nhỏ cà-phê sữa, hút thuốc Ruby phà khói những vòng tròn chữ O.

Chợt Tài hỏi tôi:

– Chắc anh Hùng đến đây một lượt với anh Sáu Khâm hồi nãy?

– Dạ! Cùng một lượt đó anh. Chắc anh Sáu Khâm và Ban Chỉ huy Q2 còn ở đây

– Không, anh! Mấy anh ấy ghé thăm mấy anh em thương binh Q2 một chút rồi đi rồi!

– Riêng tôi, có lẽ tôi ở đây công tác với mấy anh vài hôm. Tôi vừa thăm anh em thương binh vừa thu nhập tình hình điều trị chung ở đây để về báo cáo lại với anh Ba Đình.

Tài lặng thinh một hồi, tiếp:

– Anh đến đây một mình?

– Không, anh! Còn có một đồng chí bảo vệ nữa, hiện đang ở bên anh Ba Hoà.

– Vậy chiều nay anh với đồng chí bảo vệ sang đây nghỉ. Tụi tôi lúc này làm việc ngày đêm, bận tối mắt tối mũi. Tôi mấy hôm nay phải túc trực ở buồng giải phẫu, bỏ văn phòng, không ngó ngàng gì tới. Chắc anh đến văn phòng không gặp ai?

– Hồi trưa thì không. Lúc nãy thì có. Có anh Kính.

Tài quay sang Hoà:

– Sáu Chiếu thiệt cũng tệ, Ban Chỉ huy Viện có tôi với ảnh. Tôi bận dưới này, tưởng trên văn phòng còn có ảnh. Ảnh có làm công tác chuyên môn đâu?

Hoà cười nhát gừng, nhướng mi lên:

– Sáu Chiếu tối ngày y chỉ biết có trại nữ. Muốn kiếm y cứ tới trại nhân viên nữ là có y. Rời đít vợ đâu có được.

– Vậy thiệt! Mấy bữa nay chị em họ phản ảnh với tôi. Sáu Chiếu bậy quá anh Ba!

– Bậy gì?

– Anh biết dưới trại nữ chớ?

– Biết! Sao?

– Nhân viên mình thì đông. Giường cái này sát cái kia. Vợ ảnh ngủ chung với chị em ở dưới. Đêm nào cũng vậy, chưa đến 9 giờ ảnh đã lò dò xuống dưới rồi. Chị em người ta giăng mùng. Đèn đuốc sáng trưng.

Vậy mà hai ông bà thản nhiên giăng mùng, chui vô ôm ấp nựng nịu nhau một hồi, rồi è nhau ra «giả gạo» tự nhiên, coi trời đất chẳng ra gì. Chị em họ ngượng quá, kẻ thổi đèn người bỏ trại đi mất để khỏi phải nhìn thấy. Dù gì mình cũng là cán bộ chỉ huy, phải biết….

Hoà cười khan, ngắt lời:

– Thôi, cha nội! Ông nữa! Người ta cũng phản ảnh với tôi. Ngủ võng, nhà cột chôn, hai vợ chồng ông cũng làm rung võng thiên hạ ngủ không được thì sao? Thôi, cho tôi xin! Sẵn dịp ông nói, tôi đề nghị ông với Sáu Chiếu, tối tối chịu khó dẫn nhau ra rừng ngủ với nhau, rồi muốn làm gì thì làm. Tự do. Tha hồ. Chớ cái kiểu này, mấy con nhỏ cứu thương, y tá ở đây coi bộ không xong. Nó cứ nhìn hoài, nó chịu sao nổi.

Hoà vừa nói vừa cười mỉa. Mười Tài cúi gầm xuống đất mặt đỏ như trái mồng tơi chín. Tôi thấy bất nhẫn và ngượng lây. Người ta giải quyết chuyện nội bộ của nhau, chẳng còn quan tâm đến khách khứa gì cả. Tôi lẳng lặng đứng dậy, rút lui cho hai người nói chuyện.

Đàng kia, Kính vừa rửa tay sạch xà-bông xong, đi vào buồng giải phẫu. Tôi ngỡ đã xong, không ngờ Kính lại trở ra rửa tay nữa nhưng trên đầu đã có thêm cái mũ trắng. Tôi lấy làm lạ, đến bên hỏi:

– Tôi tưởng anh đã rửa tay xong rồi chứ?

– Chưa anh! Kính nói. Rửa tay phải đến 2 lần. Lần thứ nhất, rửa xong nước sống rồi tôi mới đi vào đội mũ lên. Trở ra lần này, phải rửa lại nước chín. Nguyên tắc chính thống phải vậy. Thủ tục mà!

– Tôi tưởng anh rửa nãy giờ có đến 15 phút là quá kỹ rồi.

– Chưa đâu anh! – Kính cười- Anh biết mũ tôi đang đội đây là đã được hấp khử trùng rồi. Dù đội trên đầu, tôi phải rửa tay thật sạch mới được nắm nhẹ đến nó đội lên. Nhưng muốn mặc áo choàng cũng đã được hấp khử trùng, tôi lại ra rửa lại Savon lần nữa cho chắc.

Kính chậm rãi giải thích cho tôi nghe tiếp:

– Rửa xong lần này, tôi vào trong ấy, đồng chí phụ trách dụng cụ vô trùng mới gắp lấy áo, mạng, mặc vào mang cho tôi. Xong, kế đó, tôi còn phải ngâm tay vào chậu nước sát trùng pha dung dịch Rivanol một lúc nữa. Nếu không, cũng phải rửa lại bằng alcool 90 hay thuốc đỏ. Chờ cho khô tay mới được mang găng vào.

Phiền nhiễu, rắc rối thực! Đã mang găng tay thì rửa sơ sơ, vừa phải, xong làm lại một lần Alcool, quá đủ rồi. Cái «chính thống» của ông thầy thuốc chính thống đào tạo qua những «lò chính quy» quốc tế có khác! Tôi nghĩ có lẽ chính vì cái «chính thống», chính quy đúng nguyên tắc y khoa của Kính đã là một sự khó chịu cho những đàn em «du kích», quen với lối làm việc «a thần phù», không cần suy tính lợi hại.

Qua câu phát biểu mới rồi, «nặng về trụ sinh», trụ sinh sẽ diệt tất cả vi trùng cần gì phải sạch cho lắm, quả trái ngược với cái «chính thống» của y khoa.

Tội nghiệp cho Kính. Xem Kính hiền quá, khiêm tốn, chắc Kính chưa phê bình, chưa động chạm, trách móc một nhân viên nào ở đây, thui thủi một mình mà đã như thế, nếu Kính thẳng thừng, phê bình sát ván, có lẽ tình thế còn găng hơn thế nữa.

Sự cách biệt về đẳng cấp chuyên môn tôi đã rõ. Không hiểu đẳng cấp chính quyền, đẳng cấp về Đảng của Kính so với Hoà, với các anh em y sĩ ở đây ra sao? Tôi muốn biết lắm. Tầm mắt tôi sẽ được mở rộng hơn, biết nhiều hơn, biết một cách kỹ càng về thế giới tôi đang sống – sống như một giấc mộng chập chờn, ưu tư chưa bao giờ thoát ra khỏi đầu tôi.

Anh chị em y tá đã khiêng thương binh trên chiếc băng ca bằng vải bố đem vào phòng giải phẫu. Nhìn qua vải mùng thưa chiếc bàn mổ là một bàn dài bằng gỗ, chẳng khác chiếc bàn dài để ở văn phòng, như bao nhiêu chiếc ghế dài bình thường khác. Thương binh nằm bất động. Đầu cạo trọc lóc. Toàn thân được phủ kín vải trắng từ đầu đến chân.

Kính rửa tay lần thứ 2 xong, hai tay chắp lại. Các ngón đan vào nhau đưa ra phía trước ngực như người niệm Phật, cóm róm sợ người khác hay vật gì đụng vào tay. Đến cửa màn, Kính quay lưng về phía tôi:

– Anh làm ơn vén cửa màn hộ tôi. Vén thật rộng, kẻo nó chạm vào tay mất công rửa lại.

Tôi xê ra một bên, vén màn cao lên. Kính lách vào. Tôi bước theo Kính. Chợt Kính quay lại:

– Đừng anh! Xin lỗi anh!

Tôi sựng lại. Choáng váng. Ngơ ngác và xấu hổ. Hoà đã chẳng bảo sẵn dịp có ca mổ, tôi vào xem cho biết hay sao?

Kính nhoẻn miệng cười, tiếp:

– Xin anh trở ra nói với đồng chí Mười Tài cho anh mượn một chiếc áo «blu» (blouse), đội mũ, mang mạng che miệng rồi hãy vào. Với anh em ở đây tôi đã yêu cầu như vậy thì…xin anh thông cảm cho. Đó chẳng qua là một nguyên tắc vô trùng cần thiết, bảo vệ sinh mạng cho thương binh đó thôi.

Nhìn cái miệng của Kính và thái độ khẩn cầu của Kính, tôi vui vẻ bước ra với sự hài lòng và biết lỗi về phần mình. Mà thực, tôi chẳng có phận sự gì ở đây, một anh dốt đặc cán mai mò vào đây chỉ làm rộn thêm, khó làm việc mà người ta vui vẻ cho mình vào xem, chỉ yêu cầu mặc áo, che miệng, đội mũ như mọi người đã quá đặc biệt rồi.

Có lẽ ở bên ngoài Tài đã nghe lời Kính nói với tôi nên đứng dậy bảo tôi:

– Anh theo tôi!

Tài dẫn tôi vòng qua hành lang buồng giải phẫu phía trái, quơ trên móc đưa cho tôi chiếc áo choàng trắng đã có mùi mồ hôi, một chiếc mũ. Thấy tôi có vẻ lúng túng. Tài cột miệng che miệng và mặc áo giúp tôi. Tài thì thầm:

– Ông nội này ổng nguyên tắc dữ lắm. Tụi tôi thì líp ba ga. Chút đỉnh ăn thua gì anh! Ở mặt trận, mổ đại ngoài rừng, bụi đất tèm lem có sao đâu? Anh đứng coi mà làm y như là phẫu thuật viên.

Tôi mỉm cười không nói gì. Đúng là anh chàng này có ý ganh tỵ rồi nói bậy đây. Dù không là chuyên môn, sự giải thích của Kính đã mở mắt cho tôi nhìn thấy sự ích lợi và nguyên tắc cần thiết của nó. Nó đâu phải là nguyên tắc nữa. Nó là một yêu cầu, một nhu cầu bắt buộc. Nếu nguyên tắc, đáng lẽ phải ngăn những kẻ vô trách nhiệm như tôi không được vào buồng giải phẫu mới đúng.

Tôi lại vén màn bước vào buồng giải phẫu.

Tôi không khác gì một phẫu thuật viên. Cũng áo, cũng mũ, cũng mạng. Ở bên ngoài nhìn vào làm sao phân biệt nổi? Kể cũng vui thật.

Buồng giải phẫu rộng thênh thang. Phía mặt là bàn mổ. Sau bàn mổ, một chiếc kệ thấp, để hai chậu thau tráng men chứa đầy một chất nước màu cam lợt. Kính đang cho hai tay xoè ra ngâm vào một chậu. Có lẽ dung dịch Rivanol mà Kính nói ban này là hai chậu thau này đây.

Sát trong cùng, góc buồng giải phẫu là chiếc bàn con, có để giấy bút, mấy cái bìa cứng và một tập giấy có bìa dày, mở ngõ. Tôi bước đến liếc nhìn vào thấy.

Ngày 23 tháng 6 năm 1965.

BIÊN BẢN GIẢI PHẪU

BỆNH NHÂN: Nguyễn văn Giang

Vết thương sọ não L.g, do mảnh. Miệng vết thương dài 2cm x 1cm. Sâu 2cm. Bệnh nhân hôn mê. Có lẽ mảnh xương sọ chèn ép vỏ đại não. Viêm?

GIẢI QUYẾT: Giải phẫu, khoan sọ gắp mảnh vỡ và mảnh đạn.

Phẫu thuật viên: Bác sĩ Vũ Trọng Kính

Trợ thủ 2: ………………………………………

Trợ thủ 2: ………………………………………

Dụng cụ viên: …………………………………

Gây mê hồi sức: ………………………………

Vô trùng: ……………………………………….

Rạch da hồi: ………..giờ ……………..phút

Diễn biến: …………………………………………

Điều này đối với tôi, mới mẻ biết chừng nào! Mổ mà cũng phải lập biên bản? Bắt đầu cầm con dao mổ bistouri cũng phải ghi giờ khắc nữa sao? Kiểu này ở cái mục diễn biến, không khéo cầm khoan vào lúc mấy giờ, khoan thế nào, đục đẽo hồi mấy giờ cũng ghi nốt nữa là khác!

Ở phía bên kia, một chiếc tủ nhỏ ba ngăn, chất đầy đủ loại thuốc. Cạnh tủ hai chiếc ghế cao như cái thang, trên có để hai chiếc đèn măng-sông đựng trong một thùng cây có cửa mở, đóng như cái tủ áo.

Nhìn cái thùng cây «đựng» đèn măng-sông, tôi hiểu ngay đó là biện pháp ngăn ánh sáng. Bình thường khi đèn măng-sông đốt lên, phía nào cần ánh sáng người ta quay cửa về phía đó. Nếu có phi cơ người ta chỉ việc đóng cửa lại tối om ngay, chẳng khác đốt đèn để vào giữa tủ khoá lại.

Từ ngoài một cậu y tá bước vào xách hai chiếc đèn măng-sông ra khỏi thùng, đem đến chỗ Hoà và Tài còn đang nhâm nhi uống trà. Cậu ta đốt đèn.

Xích về phía trước, có một chiếc bàn dài và một chiếc bàn con. Chiếc bàn dài, chất ba bốn thùng mạ kền sáng loáng, đang mở ngõ. Ở hông mỗi thùng là một hàng chữ Tàu in nổi màu xanh. Tôi bước lần đến. Thì ra đó là những thùng đựng dụng cụ giải phẫu.

Ngoài những kềm kéo là dụng cụ thông thường mà tôi biết, còn có nhiều loại tôi chẳng hiểu nó là gì? Ngọc lớn, ngọc nhỏ, cái dài, cái ngắn, đủ mọi hình thái ngộ nghĩnh, kỳ cục. Có cái chẳng khác chiếc hàm cá sấu là mấy.

Ở chiếc bàn con phủ drap trắng tinh, một cô y tá đang dùng chiếc kềm dài sọc như cây gậy, gắp trong «thùng phở» bốc khói ra từng món dụng cụ một, sắp thành hàng ngay ngắn trên ba chiếc plateau vuông dài tráng men trắng thật đẹp. Cạnh «thùng phở» dụng cụ là một dọc ba bốn «thùng phở» khác đậy nắp. Không hiểu những gì trong ấy nhỉ?

Tôi nhìn không chán mắt. Từ thuở sinh ra tới giờ, đây là lần đầu tôi được nhìn tận mắt, nhìn một cách tự do, thoải mái vào thế giới giải phẫu của y khoa.

Ở đây, giữa núi rừng của một chiến trường du kích, người ta làm thế này, còn ở Sài Gòn, ở các bệnh viện khác trên thế giới chắc hẳn còn lạ gấp ngàn lần. Từ cách trang trí, máy móc tùm lum, đến kiểu cách, ngôn ngữ, hẳn là trang trọng và nguyên tắc hơn nhiều.

Tôi bước đến gần chiếc bàn con, cô y tá chợt khoa tay kêu lên:

– Đừng! Đừng anh! Đừng…đồng chí. Dụng cụ này đã vô trùng rồi đó. Đồng…chí đừng lại gần, không được đâu!

Tôi mỉm cười ngượng ngập thối lui. À! Như vậy là mình «dơ» đây. Mình chưa được «vô trùng» nên người ta sợ mình là phải.

Tôi đứng lớ ngớ giữa phòng, bối rối. Không biết bây giờ mình được quyền đứng ở đâu, đứng gần ai để không phải bị người ta phản đối đây nhỉ? Tôi muốn được nhìn, được hỏi, được giải thích.

Tôi không muốn nhìn suông, như kiểu nhìn một bức tranh lập thể, dù đó là tranh của nhà danh hoạ lừng danh thế giới Picasso.

Bàn mổ đấy. Một chiếc bàn cây. Anh thương binh nhắm nghiền đôi mắt, thoi thóp thở. Đầu quay ra phía đường đi. Ngang chỗ hai vai, hai bên được tra thêm hai mảnh ván dài như hai cánh máy bay.

Cánh tay trái của anh ta thả dài trên mảnh ván. Vải băng bằng vải mùng, quấn vòng cột cánh tay và cườm tay anh ta vào mảnh ván. Kế bên là cái giá gỗ cao, treo hai chai nước trong vắt to tổ bố, nhãn đề Periston. Miệng chai dọng đầu, hướng xuống đất. Ở một miệng chai, một ống nylon trải dài đến một đầu kim cắm vào tĩnh mạch gần khuỷu tay. Chiếc kim to hơn kim chích thường nằm im lặng qua một đoạn băng keo dán dính vào da tay.

Qua một cái bọc lưới nhỏ, sát miệng chai bằng nilon trong ngần, nước nhễu từng giọt, chầm chậm đều đều. Tôi chợt hiểu. Ý chừng người ta truyền nước biển vào máu là thế này. Chai đó là chai «nước biển»!

Tay mặt anh ta cũng thả trên mảnh ván phía bên kia cũng cột như phía bên này. Ở bắp thịt, gần nách cái đồng hồ đo huyết áp máng chặt vào đó.

Một nhân viên mặc blouse đang nắm quả bóp cao su, bóp xì xì. Ống nghe gắn vào tai, anh ta chụp chụp lên mạch ở cổ tay. Tôi lò dò bước đến. Anh ta cứ bình thản làm việc, không quan tâm gì đến sự có mặt của tôi ở đây.

Bên cạnh đầu thương binh là một xấp giấy kẻ ô vuông đều. Tôi liền nhìn vào. À! Lại biên bản nữa! Lạ nhỉ? Cái món mổ xẻ sao mà lắm biên bản thế!

BIÊN BẢN GÂY MÊ HỒI SỨC

BỆNH NHÂN: Nguyễn văn Giang

3g kém 10:

MẠCH: 98

H/ÁP: 9/7

NHIỆT: 39 độ

CHUẨN BỊ MỔ:

– Truyền Periston 60/1ph.

– Vit. C 0,500 – một ống

– Vit. B 0,200 – một ống

– Largactol 25mg một ống

3g kém 5:

MẠCH: 98

H/ÁP: 10/7

…....

Những nét bút chì xanh đỏ gạch lên, sổ xuống trên một bản đồ, rồi những dòng chữ viết tắt nguệch ngoạc làm tôi không hiểu gì cả. Chờ cho anh ta đo huyết áp bệnh nhân và ghi thêm vào giấy xong, tôi cười «cầu tài» với anh ta:

– Sao tôi thấy trong cuộc mổ này nhiều biên bản quá vậy, đồng chí?

Anh ta liếc nhìn tôi một thoáng, trả lời:

– Để kiểm tra và nếu bệnh nhân có trục trặc gì xảy ra thì dựa vào biên bản, kiểm điểm, quy trách nhiệm.

– Nếu vậy, ai làm gì cũng phải ghi vào biên bản hết?

– Vâng!

– Ghi từng giờ từng phút một?

– Vâng! Phẫu thuật viên có biên bản riêng, ghi chi tiết cuộc mổ về thủ thuật. Còn tôi, bác sĩ gây mê hồi sức, tôi phải có biên bản gây mê hồi sức. Theo dõi sức khoẻ của bệnh nhân từng năm phút một. Có gì tôi sẽ báo động với phẫu thuật viên hoặc đề nghị quyết định hoá chất gây mê, hoặc đề nghị tiếp tục mổ hay chấm dứt.

– À…à…

– Vùng trách nhiệm rất rõ ràng. Có gì, trách nhiệm người nào, người đó lãnh đủ.

Tôi thắc mắc:

– Những giả dụ như bệnh nhân chết trên bàn mổ, làm sao biết được. Tại vết thương họ nặng quá, họ đuối sức chịu không nổi thì làm thế nào bây giờ?

Anh ta lắc nhẹ đầu, cười nho nhỏ:

– Còn biết làm thế nào bây giờ! Chịu thôi!

– Vậy biên bản giải quyết được gì đâu?

– Ý! Nhiều lắm chớ! Thế này nhé! Trước khi mổ công việc chuẩn bị nâng sức chịu đựng, nâng huyết áp và chuẩn bị gây mê, thuộc trách nhiệm của tôi. Khi tôi chuẩn bị xong, thấy tình trạng bệnh nhân tốt, tôi cho lệnh, phẫu thuật viên mới được cầm dao bắt đầu. Trong khi mổ, thấy tình trạng bệnh nhân vẫn bình thường nghĩa là huyết áp không bị tụt, mạch vẫn điều hoà thì thôi, còn nếu khác đi như huyết áp bị tụt thình lình, mạch loạn, nhanh chẳng hạn, tôi phải báo hiệu cho phẫu thuật viên biết. Tôi yêu cầu ngừng thì phẫu thuật viên phải ngừng. Nếu phẫu thuật viên không nghe theo lời tôi, trách nhiệm về phẫu thuật viên.

Ngược lại, tôi chuẩn bị không đầy đủ, cho mê quá liều hay không đủ sức tạo phản ứng cho bệnh nhân là trách nhiệm của tôi. Tất cả mọi thứ đều dựa vào biên bản ghi chi tiết kỹ thuật để xác định. Như vậy, không ai có thể chối cãi được.

– Thông thường ở đây mình cho bệnh nhân mê bằng hình thức nào đồng chí?

– Thông thường thì «gây mê tại chỗ» tức là chích thuốc tê quanh chỗ mổ bằng dung dịch Novocaine 0,25% hoặc tiêm Nesdonal vào mạch. Nhưng cũng có nhiều trường hợp cho mê bằng masque với ê-te (ether). Và thỉnh thoảng vài ca cho gây tê tuỷ sống.

Anh ta chỉ cho tôi xem một cái masque bằng lưới kẽm dây khít, trông như chiếc vợt hình bầu dục to cỡ nắm tay, nằm tênh hênh bên chiếc ghế con, góc buồng, sau lưng anh ta:

– Đó là cái masque kiểu của Trung Quốc chế tạo đó. Khi cho mê bằng ê-te hay ê-te pha với chloroform thì tôi chụp cái masque đó lên mũi bệnh nhân, đắp thêm vài miếng compresse rồi nhỏ giọt ê-te lên compresse. Hai phút sau, bệnh nhân mê liền.

Hai chiếc đèn măng-sông đã được đốt sáng. Cậu y tá mang vào để trên hai ghế cao. Một chiếc để ở trước đầu bệnh nhân. Một chiếc để ở góc, chếch về phía trái.

Bác sĩ Kính và các y sĩ khác đã rửa tay, mặc áo xong bước đến. Đồng chí bác sĩ gây mê hồi sức báo cáo:

– Báo cáo anh, mạch 98, huyết áp. Mười một tám.

– Tốt lắm, mình bắt đầu được rồi chứ, đồng chí?

– Dạ được!

Cô y tá trao dụng cụ xịch đến với chiếc plateau trên tay. Tôi thấy có hai cốc thuỷ tinh tròn quay giống y như chiếc ventouse để giác hơi. Một cốc đựng đầy một cốc nước trong.

Một cốc đựng đầy thuốc đỏ thật đậm. Kế bên hai chiếc cốc là một lô những miếng vải mùng trắng xếp nhỏ mà người ta gọi là «gạc», là «com-pret». Và hai cái ống tiêm thật to, kim cùng một số kềm, kéo.

Một y sĩ đứng phía trái của Kính, cho tay vào plateau lấy một chiếc kềm dài gắp một miếng vải mùng vuông nhúng vào cốc thuỷ tinh đựng thuốc đỏ, đoạn xoa lên đầu bệnh nhân, quanh miệng vết thương rồi lan rộng ra dần. Cái đầu đỏ chót. Đỏ đến phát sợ.

Những miếng vải mùng khác được gắp ra, trải mỏng, đắp quanh vết thương, chỉ chừa một khoảng trống nhỏ. Bác sĩ Kính lấy ống tiêm vừa được cô y tá trao dụng cụ rút đầy chất nước trong ở cốc thuỷ tinh lắp kim trao cho. Thì ra, thuốc tê Novocaine là thứ này đây chắc.

Kính lụi vào vết thương, vào da đầu chung quanh. Vừa lụi vừa bơm thuốc, nhanh nhẹn. Người y sĩ trợ thủ, tay cầm kềm có kẹp miếng vải mùng gắp (gạc) chậm đều đều những giọt nước chảy ra.

Đứng phía sau lưng người bác sĩ gây mê, tôi ngóng cổ lên trố mắt nhìn. Chợt có ánh đèn pin chớp lên. Bên cạnh tôi. Tài và Hoà không biết đến hồi nào. Hai người trên tay hai chiếc đèn pin giơ cao, soi ngay vào chỗ vết thương cho sáng thêm. Ánh sáng của hai chiếc đèn măng-sông để xa thực chẳng nhằm gì cả, vẫn tù mù. Có lẽ vì vậy. Tài phải soi thêm đèn pin.

Tất cả mọi người đều yên lặng. Không ai nói với ai lời nào. Họ lặng lẽ làm việc như người máy, nhanh nhẹn, gọn gàng. Tôi hơi lấy làm lạ về cái khoản đèn pin và «chuyên gia rọi đèn» Viện trưởng Mười Tài.

Việc mổ xẻ dưới hai chiếc đèn măng-sông cũ mèm, thiếu ánh sáng, người ta thêm đèn pile cho nó sáng, khoản đó cho là bình thường đi. Nhưng làm Viện trưởng một bệnh viện như Tài, buổi sáng như buổi chiều bỏ cái văn phòng như nhà hoang, chẳng màng đến công tác gì khác của bệnh viện, chẳng màng đến khách khứa «đóng đô» thường trực ở nhà mổ để cầm đèn pin, cái chuyện này nó vô lý lắm. Nó tếu kinh khủng.

Cho đến bộ bình trà cũng xách xuống đây. Cà-phê cà pháo, tán hươu tán vượn cũng ở đây. Phải chi Tài là y sĩ ngoại khoa, chuyên môn giải phẫu thì cũng còn có chỗ châm chế cho là nhiều tinh thần trách nhiệm chuyên môn, tha thiết với thương binh. Đằng này, anh ta chỉ là một y sĩ nội khoa chung «đóng đô» ở buồng giải phẫu để cầm đèn pin…

Con dao mổ của bác sĩ Kính đã mở rộng vết thương, banh da đầu với những kềm, kẹp, bày xương sọ trắng hếu. Và Kính đang đón lấy cái cần khoan, giống y như cái khoan Waldor trong mấy xưởng nguội. Mũi khoan tròn y như trái dâu, có rất nhiều khía, đặt vào xương sọ để khoan.

Tuy buồng giải phẫu có rộng, nhưng chen nhau nhìn và đứng gần 2 chiếc đèn măng-sông làm tôi tháo mồ hôi. Cái nô nức, hào hứng muốn được xem trọn vẹn cuộc mổ trong lòng tôi không còn nữa.

Tôi thở dài một phát, nhích người ra rồi từ từ «rút lén» một mình. Vén màn cửa, tôi bước ra hành lang cởi mũ, cởi mạng, trút chiếc áo blouse máng lên móc, trả về chỗ cũ.

Gió rừng mát rượi. Tôi thở khoan khoái nhẹ nhàng.

Bên kia đường mòn là dãy trại bệnh. Bỗng tôi nghe có tiếng kèn harmonica của ai đang thổi bản Tristesse của Chopin. Tôi hết sức ngạc nhiên. Ở đây cũng có kèn? Người đang chơi bản nhạc đó là thương binh hay nhân viên ở đây? Dù là thương binh hay nhân viên, người đó hẳn phải là dân của đô thị Sài Gòn, đã từng…ít ra, cũng phải bước qua ngưỡng cửa trung học? Và điều quan trọng nhất, người đó không thuộc thành phần giai cấp cơ bản, không phải là đảng viên, chưa biết rằng chơi nhạc «đế quốc», tư sản là một điều cấm kỵ, «tập thể» không bằng lòng. Đảng sẽ phê bình nhận xét xấu. Người đó đúng là một thứ «tay mơ», tay mơ hơn tôi xa.

Nhưng, không hiểu sao, tôi thấy có nhiều thiện cảm. Tôi muốn được nói chuyện, được nhìn mặt «tay mơ» đó. Lâu rồi, hơn hai năm rồi, tôi xa hẳn thứ âm thanh của chiều hôm nay. Tôi nhớ nó lắm. Tôi nhớ tiếng nhạc. Tôi nhớ đến chiếc đàn violon của tôi đã được người ta mang đi mất. Tay tôi bỗng nhiên thấy ngứa ngáy, nho nhoe cử động không kềm lại được. Tôi thèm một cách lạ lùng.

Ôi, Tristesse của Chopin sao mà hay thế, dồn dập, vun vút lên cao rồi rã rời, lê thê, tụt xuống từng cung nhạc kéo dài. Buồn sao! Tôi lửng thửng bước về phía trại bệnh.