← Quay lại trang sách

XIN NÓI ĐIỀU HẠI -

1.- Việt Nam là nước Pháp thứ hai ở phương Đông, (xem nó gọi Đông Pháp thì rõ), như kho ngoại phủ của Paris, dầm thấm sinh nở ở đấy, đã 80 năm nay, một mai mất cả chủ quyền há phải vui lòng, hai tay bưng dâng cho ngườikhác đâu, chỉ khuất với sức mạnhđấy thôi. Bởi thế nên bề ngoài chịu nhiều đau đớn, nên giả làm bộ dáng thân thiện, mà bề trong ôm cái mộng tưởng ‘’Bá quyền Âu-Mỹ’’ ở Á Đông không gây phút nào quên, ngày đêm cầu chúc cho Anh-Mỹ đắc thắng. Cuộc chiến tranh kéo dài, một mai quân phản công Anh-Mỹ có cơ hội tốt đạp chân đổ bộ đến đất Đông Dương nầy thì quân nội ứng có sức mạnh như Pháp thuộc Phi Châu mở cửa rước quân Ân-Mỹ vào, đó là cái gương rất rõ ràng vậy.

Điều hại nên phòng đấy là một.

2.- Một nước đứng hàng văn minh đầu đẳng, khoa học nổi tiếng, chiến thuật cai trị thuộc địa rất là tinh xảo, mà sở trường nhất là cách ly gián, lâu nay phù thực người Lào mà áp chế người Việt Nam, không phải một ngày (có sự biến thì lùa quân Việt Nam ra trước mà để lính Man Lào ở sau. Thủa nay thường xen lính Phi Châu, lính Ấn Độ vào, không để đội quân nào toàn người Việt Nam. Phàm các nhà ngục lớn, lính Việt Nam thường ở dưới quyền chỉ huy của ngườiPhi, người Ấn (tức người Pondichèry thuộc Pháp), thứ thì lính Man, Lào và Mọi (vì không tin người Việt). Hiện ở miền Thượng Du giáp mọi, có cái mô dáng ‘’làm nội chánh gọi quân lính’’, một giải Trường Sơn cùng rừng núi Man, Lào những vùng rậm rạp chân người ít đi đến, biết đâu không phải là nơi chứa dấu quân khi đăng dùng làm căn cứ quân sựchờ lúc có sự biến. Nhọt ung thơ dựa sát sau lưng làm hại không nhỏ.

Mối hại đáng phòng đấy là hai.

3.- Cái cách phản diện tuyên truyền, dụng tâm rất khôn khéo, như Tướng Pháp hiện dần nhập với quân Anh-Mỹ (De Gaulle, Catroux v.v...), nhà đương cuộc Đông Dương bề ngoài vẫn gọi là ‘’đảng nghịch bội phản’’, mà thực là tuyên dương thanh thế, tỏ cho công chúng thấyngười Pháp chúng có hậu thuẫn hùng cường và anh hùng cứu quốc, xoay đổi thị tuyến dân chúng, nhứt là bọn trung với cơm áo và phái trẻ tuổi cạn lòng không khỏi bị lầm.

Đấy là điều hại thứ ba.

4.- Trong khoảng mới khái chiến với Đức, có một số lính Việt Nam sang Tây đến lối ba vạn (sau còn mộ thêm, vì có hai tuần đã ký đình chiến, nên số mộ sau được thả về). Sau đình chiến rồi, toàn số mộ binh Việt Nam còn ở bên Pháp, hóa làm lính làm thợ, làm nông hay nghề nghiệp khác, và sung vào đội quân Đức, hoặc theo đảng đầu nhập quân Anh-Mỹ. Hiện ở dưới hiệu cờ chúng nó, lẽ cố nhiên bọn lính mộ đó phải theo lệnh trên, trải qua một lần huấn luyện, đã thành đội quân cảm tử đi xe lanh và đường quen, ngoài ra người Việt Nam sang du học và làm việc còn bên Pháp cũng đông, ‘’tên ở trên dây cung không bắn cũng không đặng’’ (thỉ tại cung thượng bất đắc bất phát).

Đấy là mối hại thứ tư nên phòng.

5.- Hiện ở Đông Dương nầy không có cái gì là chính sách giốngnhư chúng nó cũng không có làm được việc gì. Duy có phò thực bọn đầy tớ, bóc lột dầu mỡ nhân dân, ngoài ra hằng ngày tuyên truyền thánh kinh ‘’Vichy phục hưng’’ cùng các trò chơi thể thao vận động, đoàn hướng đạo, đua xe đạp, đá banh, đánh vợt, thường ngày cổ lệ với phái thanh niên bên Pháp như thở một hơi lỗ mũi, xa xa cùng hưởng ứng nhau. Bọn trẻ tuổi trong nước, không có học thức, hùa theo như chạy, mua vui rước cười, được một món thưởng gì đã cho là vinh dự vô thường, không biết trời đất gì nữa. Một mai bọn trẻ tuổi bị thế lực sai khiến, biết đâu không phải là đạo quân người chợ mà chúng hùa vào nơi chỗ chết (tri chi tử địa chi thị nhân chiến).

Đây là mối hại đáng phòng thứ năm.

6.- Hoàng quân Đại Nhật Bản đè áp trên xứ nầy đã hai năm nay mà còn đương cái địa vị ‘’nửa chủ nửa khách’’, người Việt Namvẫn bâng khuâng trên con đườngngã hai ‘’cả Đông cả Tây’’, ‘’ở giữa hai bà gia khó làm nàng dâu’’. Kẻ khiếp nhược đi tới ngõ hai là quay gót, kẻ mạnh dạn cũng ném con chuộtmà sợ đụng chạm đến khí dụng khác, con người Pháp thì cái ngọn che đậy, khêu chọc rất là xảo quyệt, nào tạo vu, nào niết ra chứng cớ ‘’thân Nga, xích hóa’’, ‘’bài ngoại, nhiễm loạn’’, những tội danh đó muốn gia cho ai tự ý. Đó là chuyện cơm bữa thường thấy luôn.

Đối với con đường tán trật tự Đông Nam Á, trở lực ngấm ngầm ở trong, không phải là ít (nha bộ nọ có cậu thuộc viên trên bàn có quyển sách ‘’Nhật ngữ’’, Bộ Trưởng dò biết cho là việc đại nguy hiểm, tư trịnh thay bổ nơi khác, ngoài ra vì có ‘’tình nghi thân Nhật’’ mà bị đổi, mang lụy, nhiều người lấy làm tự nguy.

Đây là điều hại thứ sáu.

7.- Cuộc Trung-Nhật Chiến Tranh mở đầu hai ba năm, vài Tỉnh Trung Hoa liền biên giới Việt Nam (Quảng Tây, Vân Nam), quân khí nước ngoài du nhập nội địa Trung Hoa, gởi kín chở ngầm, nẻo đường trên rất là đắc lực. Nay đường vận du quân khí đó đã đoạn tuyệt, song chính phủ Trùng Khánh cùng Anh-Mỹ và Nga cùng ký quân sự đồng minh, Ấn Độ, Úc Châu, Trùng Khánh và Tây Bá Lợi Á, căn cứ quân địch còn chưa quét sạch. Hễ có chỗ hở thì có chuyện ‘’ám dẫn, tiềm thông’’, thường bị tàu bay quân địch oanh tạc cùng những thuyền vận tải tàu ngầm quân dịch đánh chìm, những án đã phát ra là chứng thực rõ rệt. Hang kiến vỡ đê, lửa tàn cháy núi,

Đấy là mối hại thứ bảy.

8.- Quyền lợi chúng nó ngồi hưởng đã lâu cùng phái trung thành mà được chúng nó phò thực, gốc rễ bám khắp các yếu điểm trong triều ngoài quận. Phái ‘’duy trì hiện trạng’’, bủa bọn trành hồ ra khắp nơi, vận động đủ cách, như phô rằng ‘’chánh phủ dưới quyền bảo hộ người Pháp là hợp với dân nguyện’’, chính là bọn bù nhìn do giây máy trong màn diễn kịch ấy kéo dựt sai khiến, làm cho nghe thấy xôn xao, lòng người nghi hoặc, mối nhiễu loạn phía sau nền trật tự mới Đại Đông Á, bọn nói trên là bọn có thế lực đấy.

Đó là mối hại thứ tám.

9.- Khoảng giữa Nhật Bản và Việt Nam có cái hào sâu cách biệt, chúng bèn nhân chỗ trống ấy, đào ngạch xây hầm, xoi bên nầy lấp bên kia, bề ngoài tỏ ra cái bản dáng ‘’không có chúng nó tất sanh ra cuộc nổi loạn’’, mà bề trong thì cái ngọn xảo ‘’nó chiếm điều ơn mà trút mối oán cho người khác’’ như vật giá vọt cao, nó quy tội cho bọn đầu cơ mà chúng nó chính là then chốt cầm gốc cuộc đầu cơ. Nam Kỳ sẵn gạo dồi dào, nếu thông lưu dễ dàng, trong nước làm sao có nạn đói. Chúng nó mượn cớ chiến tranh và quân sự, phó rằng xe thuyền bắt dùng về việc binh nên vận tải khó khăn...Theo cách hành vi của chúng nó, lòng tham quét biển, dãy đất Việt Nam nầy chẳng bao lâu sẽ thành ra ruộng đá (thạch điền), đất không sanh sản. Trong vùng thạnh vượng chung Đông Nam Á mà có xứ như chậu úp dưới vàm mây đen che phủ, bóng sáng mặt trời không dọi vào, thì vùng thạnh vượng chung nầy sao che viên mãn được?

Đó là mối hại thứ chín.

10.- Cuộc chiến tranh kéo dài, Anh-Mỹ được thắng chúng nó lấy làm sướng bụng đã phần, nếu Anh-Mỹ thua, nó cũng viện cớ hợp tác với ‘’Trục’’ vận động khêu bát, cố giữ giải đất này, áp chế nhân dân Việt Nam, quyết dành cái địa vị có sức mạnh ở trung gian. Thế là cái mục đích ‘’Á Châu của người Á Châu’’ không sao triệt để được. ‘’Một ngày thả giặc để họa cả đời’’ (nhất nhật tùng địch sổ thế chi hoạn). ‘’Trời cho không lấy, trở lại mang hại’’ (thiên giữ bất thụ kỳ ương), câu danh ngôn của hiền triết phương Đông, kinh nghiệm đã lâu.

Đấy là mối hại thứ mười.

Như trên đã nói, duy trì hiện trạng xứ nầy, vẫn có điều lợi, có lợi tạm thời trong thời kỳ chiến tranh, mà cái hại thì không chỉ ở hiện tại mà thôi, lại để mối hại về tương lai, không làm cho triệt để được câu ‘’thời không trở lại hai lần’’ (thời bất tái lai) của cổ nhân, nên lắp đi lắp lại thay!

Việt Nam chuyên thuộc dưới một chủ quyền chân chính với bốn đại cường trật tự mới Đại Đông Á.

‘’Hai mối lợi cùng cân nhau thì lấy bên nặng, hai mối hại cùng cân nhau thì lấy bên nhẹ’’, hai điều so sánh nhau như trên đã bày, tưởng không đợi so đi tính lại nhiều lần, mà nên quả quyết làm ngay đi.

Huống rấn tới một bước mà đánh đổ hiện trạng xứ nầy, Việt Nam được có chủ quyền chân chính độc nhất hay sao?

Cuộc thánh chiến Đại Đông Á, mục đích độc nhất đã nêu bốn điểm đại cương trên con đường trật tự mới mà toàn cả dân tộc Đại Đông Á đều cùng nghe:

1.- Kinh tế hỗ trợ.

2.- Binh sự hợp tác.

3.- Văn hóa câu thông.

4.- Nội chính tự trị.

Do chỗ kiến giải của tôi mà không nên lầu thì nước Việt Nam chúng tôi có chánh phủ thống nhứt trung ương tập quyền, dương có tình thế như dưới:

1.- Chủ quyền Kinh Tế, hiện ở trong tay người Pháp, riêng nói tự lực sinh sản cùng vật sản thiên nhiên người Việt Nam chỉ được hưởng 2, 3 phần 10, ăn cái thừa thãi (như 1 mẫu ruộng dân nghèo nào thuếchánh ngạch thuế tăng hạng và tỷ lệ cùng tạp thuế không kể xiết), ngoài ra cái gì cũng bị chúng nó xâm đoạt. Hiện chúng nó nhận chịu khoản cung cấp cho Hoàng quân không rõ bao nhiêu, song đều lấy máu mỡ của dân Việt Nam cả. Một mai thuộc dưới chủ quyền chân chính tự trị, đói thì để ăn, khát thì để uống, sanh kế của người Việt Nam được khỏi cái khổ can thiệp và bóc lột thì sức sanh sản có lẽ tăng xấp lên, như vậy được thở cái khổ trước mắt. Huống các món thuế ngoại ngạch như xe, thuyền, bưu điện, rượu, nha phiến,kiểm lâm, thương chính, nhập cảng, xuất cảng v.v...người Việt không được biết đến, số ấy to tác biết bao, chưa kể mở mang nguồn lợi kia.

2.- Binh sự hợp tác ‘’như trước đã nói đổi tướng không đổi quân’’ (dịch súy bất dịch tốt) thì ở dưới chủ quyền chân chính mới, những người lính đã luyện tập đều là binh mà công khai chiêu mộ bọn tình nguyện tưởng không ít.

3.- Còn việc văn hóa, trước 30 năm lúc còn bế quan tỏa cảng hải cấm rất nghiêm, mà con đường Đông học mới có kẻ hở tý ty, phong triều vừa nhón dậy, trong khoản hai ba năm (1905-1907) bọn thiếu niên mạo hiểmchùng lên tếch sang tận xứ Phù Tang đã có số trên hai ba trăm. Vả lại Tây phương với Đông phương tình hình không đồng nhau, lễ giáo phong tục cũng khác, đường biển cách xađến ngàn muôn dặm, khoản học phí lại to kềnh mà bọn quan thầnViệt Nam cùng nhà giàu cho con em sang Pháp học, cốt tìm cho được thứ ‘’trang sức phẩm’’ là mảnh bằng tốt nghiệp. Huống Việt Nam với Nhật Bản chỉ một chiếc thuyền bởi như Đại Ô Trùng Tín đã nói ‘’cùng là học trò Khổng Tử’’ (Khổng Tử môn đồ), tánh tình phong tục gần giống nhau, lại đồng văn đồng chủng, đồng màu da, văn hóa câu thông rất dễ dàng như nước với sữa hòa lẫn nhau, không phải như văn hóa Đông Tây như cái vuông với cái tròn trốc nghếch không ăn nhịp học tây khó học là chừng nào, cái đó dễ hiểu.

4.- Bốn đại cương trên nền trật tự Á Đông đã vạch như trên đã nói, chánh phủ Hoàng quân dưới bàn tay sắt tới một bước nữa, thì ở xứ Việt Nam nầy, ba đại cương trước ‘’binh sự, kinh tế, văn hóa’’ có thể như chẻ tre, theo lưỡi dao mà đi thẳng. Duy có vấn đề thứ tư (nội chánh tự trị) danh chánh ngôn thuận, tắt tự người Việt tự động theo chỗ tôi thấy thì hiện tại

(Kiểm duyệt thời Nhật thuộc bỏ cả trang)

8.- Tể thuốc mạnh thế nào?

Điều nói dưới nầy đối với chương trình dự trù của Thượng quốc cùng phương châm mà Trưởng Giả toan liệu đang tấn hành, tôi là người ngoài cửa (ngoại môn hán) không rõ điều gì để ngổ không? song trong lòng đã cho là phải, nên phải nói thực không dám dấu. Nếu dùng đặng thì chọn lặt lấy, bằng không thì gát xó là tốt.

Theo sở kiến của tôi mà không lầm thì tễ thuốc ấy chính bài thuốc đã kinh nghiệm trong cuộc hiện thời vì thuốc cần dùng đều sẵn có trong dãy danh y Phù Tang:

a.- Bất luận miền đã chiếm và chưa chiếm đều phái binh trú khắp, buộc quần chúng nó đều phải nạp khí giới và thôi ngũ, và đối dân nó, mộ công binh, thu cả các cơ quan giao thông cùng vận tải v.v...Đức đã ký đình chiến với Pháp mà lấy cớ quan hệ về quân sự cùng thuộc địa Pháp ở Phi Châu bị xâm, thì ngọn cay nghiệt (bắt cởi khí giới), ở Đông Dương những tấm kịch tàu lặn máy bay thỉnh thoảng phát hiện như muốn gia tội gì không thiếu chi chứng cớ. Đây là vị công phạt trong tễ thuốc.

b.- Gây dầu hoặc do người Việt tự động mà Hoàng quân cùng đại biểu ngoại giao Nhật Bản can thiệp đứng địa vị điền dinh như tấn kịch xung đột ở biên giới Đông Dương, Thái Lan nằm trên, do chỗ đó nhúng tay vào như ‘’cầm cán búa đốn cán búa’’, nguyên tắc không xa. Đấy là vị bổ chính khu tà trong tễ thuốc.

c.- Chánh phủ mới dưới chủ quyền quân chính phủ sản sinh ra như chính phủ Mãn Châu, chính phủ Nam Kinh, đã có lệ trước. Song tình thế Việt Nam đặc biệt, không giống hai gương nói trên.

Mãn Châu đã tuyệt rồi mà dựng lại là khỏi nước đã diệt mà nối nước đã dứt (hưng diệt kế tuyệt), Trung Hoa còn có chính phủ Trùng Khánh kháng chiến mà biệt lập ra Nam Kinh chính phủ là đuổi kẻ nghịch mà giúp phe thuận (khu nghịch trợ thuận), để mục vẫn đơn giản. Còn Việt Nam một nước mất quyền đã lâu mà một giải Đông Dương, hiện ở dưới chủ quyền Hoàng quân còn có ba lớp chính phủ: Chính phủ Vichy, chính phủ Đông Pháp và chính phủ Việt Nam. Việt Nam không tham dự cuộc chiến tranh nầy, trên trường quốc tếngoại giao, cũng không có tư cách trung lập, mà có hai tầng thân thiện, Việt-Pháp thân thiện và Nhật Bản Đông Dương thân thiện, ở giữa trường hiệp ‘’dở vàng dở trắng ‘’, ‘’nửa Á nửa Âu’’, kẻ bị Giáp kéo người bị Ất lôi, lúc xoay bên tả, lúc xoay bên hữu, thành diễn ra cái hiện tượng quái lạ như cái mâm cát rơi, không nhóm họp lại thành một khối, cùng một vằn tơ rối không biết gỡ mối manhthế nào. Trước trường hợp như trên, nếu không trải qua một trận sấm rung gió day, quét trừ sạch sẽ thì chính phủ tập quyền trung ương chân chính không sao thực hiện được. Mà không có chính phủ trung ương tập quyền chân chính thì nước Việt Nam trong vùng thạnh vượng chung Đông Nam Á mà gọi rằng ‘’nội chính trị tự trị’’ không có chỗ đứng chân. Bởi thế trên kiatôi nói tễ thuốc mạnh cùng như trong thơ của Trưởng Giả nói ‘’Đánh dấu chấm cuối cùngtrong đoạn sử Việt Nam vong quốc’’, tức là thu hồi chủ quyền nội trị mà kiến thiết một nước Việt Nam mới vậy.

Theo sở kiến của tôi, đối với vấn đề trọng đại nầy, những người chân chính ái quốc trong nước càng một số ít có tri thức vẫn nhận là sự hy sinh không thể tránh được, song chỉ gánh phần là sự thôi còn vị thuốc đứng đầu trong tể thuốc mạnh nói trên thì ngoài Trưởng Giả ra chưa có ai thay thế. Đương giữa thời kỳ Đông Nam Áchiến tranh nầy, như kế hoạch dự định của Trưởng Giả đã được Thượng quốc tán trợ. Hoàng quân đồng tình và các nhà chính trị ngoại giao, theo ở trong mà chủ trì mưu mô thắng toán đã có thực lực đi kèm ở sau, thì danh chính ngôn thuận, nên có tiếng gọi người mở đường đi trước, tức là lấy tư cách ‘’Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội Hội Trưởng’’, tuyên bố lịch sử ‘’Phục Quốc Hội’’ cùng tôn chỉ mục đích trên sử phương Đông gọi là ‘’kể tội đến đánh’’ (thanh tội tri thảo) cùng ‘’ra quân có danh’’ (sư xuất hữu danh) tức là lời thề lúc xuất sứ và hịch quân lệnh.

ĐẠI Ý:

(Đoạn nầy cốt nói người Việt Nam tự động, nay ngày mồng 5 tháng 3 Hoàng quân Đại Nhật Bản làm thay cho cả nền lược trích).

‘’Cuộc bang giao Pháp-Việt căn cứ theo Hòa Ước 1884. Chính phủ Việt Nam nhận nước Pháp làm nước Bảo Hộ, có giao hảo với nước nào phải có nước Pháp đồng ý, còn chủ quyền nội trị của nước Nam chính phủ Pháp cùng tôn trọng không được xâm phạm đến...Tờ hòa ước cùng ký, nét mực chưa ráo, người Pháp đã không làm đúng theo lời ước lại trước tự ý dày vò đoạt cả chủ quyền nội trị của chính phủ Việt Nam. Tự dụng nhân hành chính, lập pháp lý tài, cho đến trong dân gian, một sợi tơ, một hột lúa, không cái gì không can thiệp và tước đoạt. Chính phủ Việt Nam dưới quyền người Pháp, không hiểu quyền lợi được hưởng đã định trong hòa ước là cái gì, cam lòng vứt bỏ, tha hồ chúng muốn bỏ ai dặt ai tự ý, con cháu Hồng Lạc, bằm với cá với thịt, đất nước chìm ngấm, dân sinh khô héo, đến ngày nay dân cùng của hết, cả nước kêu van, còn sống buổi mai không biết đến buổi chiều, không biết theo đâu.

Nước nhà gặp nạn, trời đất mở lòng, kẻ bất tiếu nầy, nhờ công gây dựng của tổ tông, ôm cái chí nguyện nói giống cạnh tranh đường sống còn, đau lòng nhức óc, lấy việc rửa cừu phục quốc làm gánh mình phấn khởi, trước đây 30 năm, trận Nhật-Nga Chiến Tranh (1904) đã tin chắc Nhật Bổn là nước tân tiến phương Đông, sẽ là vị ân nhân độc nhất giải thoát cái khố ách Âu, Mỹ cho các dân tộc da vàng Á Châu sau nầy, cùng một và bạn Đồng Chí mạo hiểm vượt biển tếch mình sang tận nước Phù Tang cầu cứu viện và nhờ giúp quân khí, như Thân Bao Tự, tôi nước Sở, sang khóc sân Tần mà xin quân cứu viện. Trời không dứt người, nhờ Trượng quốc giúp đỡ một nhóm quân Ấp Luân của Vua Thiếu Khương lo khôi phục nền Nhà Hạ (Nhà Hạ bị Hậu Nghệ cướp nước, Vua Thiệu Khương nương một ấp nhỏ nhỏ mà phục quốc), ba ngàn quân Việt ở núi CốiKê (Nước Việt bị nước Ngô chinh phục, Câu Tiễn nương náu ở Cối Kê, sau diệt Ngô trả thù), thề quyết đánh úp nước Ngô mà trả thù, nằm gai nếm mật sức chỉ chờ thời, nay đã 38 năm, trong ngoài ai nấy đều nghe biết.

Nay thì, tội người Pháp đã đầy chuỗi, dạo trời có vay có trả, cuộc Âu chiến mở màn, quốc đô Pháp Paris bỏ ngỏ, nước chúng nó không tự bảo được, còn ai bảo hộ ai? Đồng thời cuộc chiến tranh Á Đông bùng ra, Thiên Hoàng một giận đứng dậy, Anh-Mỹ bị xua đẩy, Hoàng quân đến đâu, lần lượt quét đến đây. Nước Việt Nam ta cùng các dân tộc da vàng Á Châu ở trong vòng trật tự mới, kẻ bất tiếu nầy, trên vị thần linh tô tôn, miếu xã dưới vì hai mươi triệu đồng bào, mừng rằng mình được làm một phần tử trọng yếu nước Việt Nam trong vùng thạnh vượng chung Đại Đông Á. Lấy Phi Châuthuộc địa Pháp làm gương (mở cửa rướt quân Anh-Mỹ) không nỡ ngồinhìn Tổ Quốc chồng theo dấu xe úp ấy, hiện phục quốc quân đã tổ chức, mài gươm chùi súng, chứa sức đã lâu, nay mai sẽ dong thẳng về nước, vì hai mươi triệu đồng bào tổ quốc hỏi tội người Pháp, tuyên cáo thế giới, tiêu thủ Hòa Ước Pháp-Việt 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam độc lập, xoay lòng trời theo ý dân, đổi nước cũ ra mạng mới, cùng nước Đại Nhật Bản đế quốc, đồng lòng hiệp sức với các dân tộc Đại Đông Á, chen vai thích cảnh cùng nhau bước trên con đường độc nhứt ‘’vùng thạnh vượng chung trật tự mời Đại Đông Á’’.

Vì thế, nay có lời tuyên cáo nầy trong nước cả truyền đã quan, dân, sĩ, thứ, Hoàng tộc, giáo dân, công, thương, nông, binh, các giới, sớm rõ đại nghĩa, bỏ cũ toan mới, đuổi tà về chính, ai vì tổ quốc giúp sức, sẽ được ghi công tưởng lục. Bằng như chấp mê không chịu giác ngộ, hùa kẻ nghịch làm điều ác, quân trời sẽ không dung thứ. Luật quân rất nghiêm minh, công thì thưởng, tội thì phạtkhông riêng tư ai. Hiện Pháp kiều các giới đã lương thiện, biết nhận điều ác của chính phủ chúng nó đã thi hành ở đây, ăn năn đổi lòng quy thuận, Phục Quốc Quân không thèm nhớ cái ác đã qua, xem như kiều dân khác, nên ai bội nghịch sẽ nghiêm trị không tha. Lời bố cáo nầy thảy đều nghe biết’’.

Than ôi! Trùng Nhĩ ở ngoài 19 năm, số đã cấp bội, Nhà Hán gặp ách vận 6, 7 đời, nay đến thời trung hưng. Chúng chi nên thành, dân mượn quạt kia che bụi, lòng người xiên về bóng sáng, chờ xem mặt nhựt lại trưa.

Lời tuyên cáo trên nếu được Thượng quốc các nhà đương cuộc cùng đại biểu ngoại giao đồng ý, nhắm thời nào thích đáng mới phát bố, hoặc thêm bớt hoặc trích dịch ra Pháp văn, Nhật văn và đăng:

a.- Báo Nhật Bản, vì Thượng quốc là trung tâm tối cao vùng tân trật tự Đại Đông Á.

b.- Báo Nam Kinh Trung Hoa, vì giây quan hệ trên lịch sử, cảm tình Hoa Việt rất đằm thắm.

c.- Báo Thái Lan, vì đời Cao Hoàng trung hưng, có tính quan hệ giữa Xiêm-Việt, các công thần Vọng Các, quốc sử ghi chép rõ ràng và Thái Lan là nước tự chủ láng giềng.

d.- Hoặc trực tiếp hay gián tiếp gởi cho chính phủ Pháp Vichy.

e.- Hoặc trực tiếp gởi cho chính phủ Đông Pháp và Nam Triều.

g.- Trong ngoài in truyền đơn tùy tiện phát bố.

(Nếu các chỗ trên đều phát bố một trật càng tốt). Lời tuyên cáo trên sẽ có ảnh hưởng như dưới:

1.- Sau lời cảnh cáo xem xét chúng nó ứng phó thế nào đặng biết hành động của chúng.

2.- Khiêu ngợi quan niệm ghét kẻ cừu, nhờ nước cũ, tăng nhiệt độ ái quốc lên.

3.- Trong cách vô hình, ngấm ngầm xoay cái thành kiến ‘’khuynh tả’’ của một phái, chuyên chú tầm con mắt vào hiện cuộc Quốc Gia và Đại Đông Á.

4.- Bọn trành hồ hiện trung với miếng cơm túi áo, biết có điều đáng lo ở sau lưng, có chỗ kiêng nể, không dám ngang dọc cả gan làm điều quá ác như trước.

Đến khi nhúng tay vào thì miền Nghệ-Tịnh, Nam Ngãi là thích hợp, vì xứ sản xuất cách mạng. Di Dân ngoan với Nhà Châu, trung với Nhà Tống còn sót một ít, song hiện thời linh tính rời rã, chưa có phần tử trung kiên, tôi xin nói thực không dám che dối, e lầm đến việc nước.

Tôi vốn không phải chuyên nghề thầy thuốc, mà nói nghề thuốc, vẫn tự biết là vu khoát, song đã từng nghe câu nói của danh nhân Tô Đông Pha:

‘’Tôi dâng lời ngụy cũng như nhà danh y dùng thuốc, thuốc vẫn do tay thầy thuốc dâng lên, mà phương thuốc thường là tự người xưa truyền lại, nếu phương thuốc thường đã kinh nghiệm trên đời thì không cần là tự mình sáng chế ra’’.

Đây là thuyết mãnh tể của tôi vậy.

Vả chăng muốn gieo giống lúa tốt, trước phải dẫy đất cỏ, muốn mở đường lớn, trước phải dọn dẹp gai gốc, mà muốn cho có đứa con tốt, lẽ cố nhiên là không sao tránh cơn sanh đẻ đau khổ. Xưa nay phàm cuộc đổi cũ thay mới mà dung dưỡngkẻ gian làm lối lây lất, phục quốc một cách dễ dàng, thường để lại lắm chuyệnrắc rối về sau, cái đó không lạ gì, chỉ vì gây cái nhân ‘’bất, triệt để’’, nên hưởng cái quả ‘’bất triệt để’’ đấy thôi. Bởi vậy nên nói ‘’nội chánh nội trị’’ không thể trông mong vào ‘’hiện trạng Việt Nam’’ ngày nay. Tôi đã trông trước xem sau, nghĩ kỹ xét cùng mà sau mới bày tỏ, chứ không phải là lời cao luận đâu.

Tuy vậy, phàm việc gì cũng cần phải có thực lực chớ không phải đem tiếng trống suông mà làm đặng kia chúng nó thủ đoạn đã cao cường xảo quyệt và có những cái thế quyền lực sẵn có, quỷ kế sẽ thò ra lung tung, hoặc dùng cách che lấp theo ngọn sở trường mượn cớ ‘’trưng cầu dân ý’’ (hiện dân Việt Nam, vì nhiều cớ chưa có thể phát biểu công ý được, nếu người Pháp yêu cầu như thế nên cự tuyệt và bác khước hắn đi, không thì trúng phải mưu lừa phỉnh của chúng) hoặc niết tạo ra cái giả diện bề ngoài ‘’nhiễu loạn trong nước’’, đặng tỏ rằng không chúng nó thì không có đàn áp mối loạn, để làm cho phần đông nghe thấy sanh ra lầm lạc, đại khái như:

a.- Lính tập với bình dân xung đột nhau.

b.- Biên giới Man Lào cùng miền các đất mọi rục rịch khuấy rối.

c.- Bọn tranh hồ cùng quân vô lại ngấm ngầm ở trong xúi dục.

d.- Trộm cướp kiếp lược trong lương thôi v.v...

Những mối nhiễu loạn nói trên, ở đâu cũng có thể dốc sử gây ra tấn kịch rắc rối. Bởi thế nên ‘’bắt chúng nó lột khí giới cùng ‘’đặt hiến binh nhiều nơi’’ là nước cờ trước tiên, không thể thiếu được.

Bước đầu tiên trong cuộc nội chính trị.

Nước Việt Nam được độc lập ở dưới chủ quyền chân chính thì nước cũ mạng mới, cán gươm Thái A ở Tây, ấn đuổi búa đi, đại cương kiến thiết, đã có chương trình ‘’tân trật tự’’ Đại Đông Á màThượng quốc đã dự trù, tùy tài thích dụng, chiếm chỗ dật dã, hướng đạo sư do Phù Tang đào tạo lâu nay, há không phải đã tính đến ngày nay sao? Nên tôi không dám bàn phiếm. Duy phần chỉnh đốn nội chính, cùng bước đầu thu phục nhân tâm thì trên lịch sử phương Đông có vài cái gương đời trước dâng làm gương cho việc sau:

1.- Trừ hà pháp Nhà Tần cùng dân ước pháp 3 điều (trừ hà pháp ước pháp tam chương) [ba điều giết người phạm tử hình, làm người bị thương và trộm cướp bị tù tội] đây là nước cờ Hán Cao Tổ diệt Nhà Tần, dựng nghiệp Nhà Hán.

2.- Làm trái ngược lại (phản kỳ sở vi) [khuyên Cao Tổ làm trái chính sách của Hạng Võ] đây là nước cờ rất ổn thỏa diệt hạng Võ lấy phần thắng cho Cao Tổ. Lời khuyên của Hàn Tín.

Trên là vài tân chính khởi đầu, lấy đơn giản thay pháp luật phiền phức, lấy chân chính đổi ngược chính, ở giữa thảm ách ‘’lửa hồng nước ngập’’ mà được cái chân chính ‘’cởi giầy treo ngược’’ thì cá đua về vực, chim chui về rừng, tự nhiên có cái xu thếkhông vời mà đến, sấm sét mưa móc, đều dày vào trong ấy, mù sầu khói thảm, trở hóa ra ngày sáng mây từ, đã làm một phần tửtrong vùng thạnh vượng chung Đại Đông Á, dầu có mưa dồn gió dập, Thượng quốc Phù Tang, có để nước Việt Nam ra ngoài nhà lớn che chở ấy sao.