Chương Ba
Nhà trường mới không biết phải cho các giáo sư Triết dạy môn gì. Sau cùng người ta họp bàn có thể cho chuyển sang dạy Sinh ngữ hoặc Việt văn. Nhưng giáo sư Sinh ngữ quá thừa, người ta cho tôi phụ trách môn Việt văn.
Chúng tôi chia tổ ra họp nhau làm giáo án trước giờ đứng lớp. Bài giảng phải có “mấy bước,” bước đầu nói gì, làm gì, “bước kế” hỏi gì, giảng gì… Nói chung là phải chuẩn bị bài giảng như một sinh viên Sư Phạm mới ra trường lần đầu tiên đứng trên bục gỗ, run rẩy không biết mình phải nói gì, nên phải có dàn bài cho yên tâm. Trong cuộc đời đi học chúng tôi chưa bao giờ tốn nhiều giấy và mực như thế! Giáo án, đó là giấc mộng hài hước của người dạy học sau “cách mạng.”
Chưa đầy một tháng sau, trường bắt đầu nhận “học sinh gái” và nhận thêm một số thầy cô giáo từ Bắc gởi vào tăng viện. Giữa giờ đổi lớp sáng Thứ Bảy, Lê Hiên gọi tôi lên văn phòng nhận thư. Tôi không hiểu tại sao việc nhận thư phải do ông hiệu trưởng cho người gọi. Trước kia thư từ của giáo sư nhà trường để trong một hộp giấy đặt ở phòng thư ký, và mỗi buổi sáng ai đi ngang qua đấy tạt vào xem có thư mình thì nhận. Hiệu trưởng không phụ trách chuyện lặt vặt này. Dù sao tôi đã lên văn phòng. Người thư ký “cũ” chỉ tôi vào phòng hiệu trưởng. Tôi gõ cửa.
Lê Hiên ngồi ở bàn làm việc. Y trầm lặng, chững chạc, từ tốn. Tôi ngồi xuống nhưng chẳng hiểu gì hết.
“Tôi có chuyện muốn nói với anh. Một là anh có cái thư riêng. Ðây, anh cầm lấy.” Y đưa thư cho tôi. “Hai là trong việc khai báo lý lịch để lập hồ sơ lưu dung những giáo sư của Saigon cũ anh khai thiếu và thừa…”
Tôi cầm lá thư trên tay, chữ đề ngoài phong bì rõ nét, trau chuốt… Tôi lật sau lưng bì thư và nhìn kỹ phần trước thư không để tên người gửi. Tôi không mở thư vội. Tôi xếp đôi bỏ vào túi áo.
“Xin lỗi, anh có thể cho tôi biết khai thiếu và thừa chỗ nào?”
“Thừa là vì anh không cần phải khai cha anh đi lính Pháp, vì không cần phải khai có cha nuôi là lính Lê Dương chết ở Ðiện Biên Phủ, cũng không cần phải khai cha vợ trước của anh làm tổng giám đốc ngân hàng. Mấy thứ này chúng tôi biết hết… Còn thiếu là vì anh không khai anh có cô em gái là trung úy cảnh sát đã di tản đúng một tuần lễ trước ngày Saigon được giải phóng…” Ngừng một lát, Hiên tiếp, “Vả lại tôi được biết anh có liên hệ khá nhiều với tên Phan một tay đại ngụy hiện ở Mỹ mà không thấy anh ghi trong lý lịch…
Ðây, anh cầm lấy xấp giấy này về khai lại.”
Hiên đẩy mấy tờ giấy về phía tôi, nhưng đột nhiên y kéo lại.
“Có chỗ yêu cầu này xin anh lưu ý: anh nên ghi rõ là lưu dung chớ không phải lưu dụng, không có dấu nặng. Cách mạng khoan hồng người của chế độ cũ lưu lại và dung tha họ, chớ không phải lưu lại và dụng họ vì tài năng gì đâu. Cám ơn anh!”
Ra khỏi phòng Lê Hiên, tôi đi như một người vừa bị ai cầm dao khoét sâu vào một vết thương đang mưng mủ.
Ngồi một mình trong phòng giáo sư tôi bóc thư ra đọc. Thư ngắn, chữ viết nắn nót. Ðại khái nói không lâu đâu chế độ Cộng sản chắc chắn sẽ sụp đổ, cần nhất là mọi người – cụ thể là tôi – phải quyết tâm không hợp tác với chế độ mới. Người nhận thư cũng nên nói với các đồng nghiệp cũ lời nhắn nhủ này. Thư không ký tên. Tôi đọc đi đọc lại lá thư. Tôi cất vào túi áo. Rồi tôi lại lấy ra đọc. Tôi cầm trên tay, rồi nhét vào cặp. Tôi đi vào phòng vệ sinh xem lại một lần nữa. Tôi ra phòng giáo sư đúng vào lúc chuông reo đổi giờ. Tôi bỏ lá thư vào túi. Tôi có giờ.
Tôi bước vào lớp. Lớp vẫn là lớp cũ, nhưng không khí hôm nay khác lạ như thể lần đầu tiên tôi đặt chân lên bục gỗ. Tôi nhìn quanh. Kiệt vắng. Một số học sinh cũ không có mặt. Một vài cậu từ trường khác chuyển đến dồn hết lên mấy bàn đầu.
Ngồi riêng một mình ở bàn thứ nhất là một học sinh gái. Cô bé ăn mặc không phải kiểu các nữ sinh Saigon. Chiếc áo ngắn may theo kiểu nửa sơ mi nửa bà ba làm cô khác hẳn. Cô có đôi mắt sắc sảo và một giọng nói rất đặc biệt, khác với giọng nói của những người miền Bắc di cư năm 54. Cô tên Nhị Hà. Tôi ngồi xuống ghế, mở rộng những trang giáo án đã được soạn sẵn. Tôi không quên đặt bên cạnh cuốn sách giáo khoa Việt Văn do nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành ở Hà Nội. Cuốn sách này tôi đã phải cậy cục mãi mới mượn được của một chị giáo viên cấp ba miền Bắc mới chuyển vào, từ nay không được gọi là giáo sư trung học như ta vẫn gọi trước 75 mà phải gọi là giáo viên thôi.
Tôi xem cuốn sách đang có như một thứ cẩm nang. Bởi vì tôi vốn mù tịt về môn Việt Văn – mặc dù trong tủ sách tôi gần như không thiếu tác phẩm nào của các nhà văn tiền chiến và hiện đại – tôi đâu phải là người được nhà trường đào tạo để phụ trách môn này. Vả lại, người giảng dạy môn Việt Văn của nhà trường ngoài Bắc tôi được biết trước hết phải là người có nắm trong tay một số nguyên lý căn bản về nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi làm gì có được thứ ấy. Tôi chưa được đọc một cuốn truyện nào của một tác giả nào “ngoài đó.” Những nhà văn, nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp mà tác phẩm của họ tôi có từng nghe qua như Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhà Tôi của Yên Thao… thì nay không thấy trong chương trình. Còn những tác giả khác cũng ở “ngoài đó,” mà sau này tôi được biết qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm như Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Ðạt… thì đương nhiên lại càng không thể có trong chương trình.
Tôi lo sợ cũng là phải thôi.
Bài giảng hôm nay là một đoạn trích trong tiểu thuyết Cái Sân Gạch của người viết ký tên là Ðào Vũ. Cả tên tác phẩm lẫn tên tác giả đều hoàn toàn xa lạ với tôi. Tôi đã đọc trước phần tóm lược lẫn phần giải thích ở nhà, nhưng không sao chia sẻ được những suy nghĩ của tác giả. Ðây là một vấn đề thuộc nông thôn miền Bắc sau Hiệp định Genève. Nó không phải là vấn đề mà Bùi Hiển đưa ra trong Nằm Vạ, hoặc Nam Cao trong Chí Phèo hoặc Ngô Tất Tố trong Tắt Ðèn. Tài liệu cho biết Lão Am, nhân vật chính trong Cái Sân Gạch có những nét điển hình của tầng lớp trung nông trên cánh đồng miền Bắc.
Tôi nói như đọc, mắt vừa nhìn vào giáo án vừa ngó xuống những con mắt phía dưới. Tôi dừng khá lâu trên mắt Nhị Hà muốn biết phản ứng của cô bé về những gì tôi đang nói đang đọc.
“Ðây là một nhân vật có nội tâm phong phú,” tôi đọc, “phức tạp và có cá tính khá độc đáo. Trong vấn đề vào hợp tác xã của Lão Am, Ðào Vũ không chỉ phân tích mặt quyền lợi vật chất mà còn đề cập đến vấn đề tình cảm, thói quen và nhiều ràng buộc linh tinh khác trong đời sống của người nông dân. Lão Am đã có những suy nghĩ riêng khi phải vào hợp tác xã: Lão vào nhưng trong tâm hồn vẫn còn cái gì u uất chưa nguôi. Xuất thân là một cố nông làm thuê, Lão Am đã từng bỏ làng ra mỏ Ðông Triều bảy năm, sau đó trở về lại với cái túi rỗng và hai lỗ mũi đầy những bụi than. Lão từng làm phó lý, tậu được một ít ruộng vườn và trong đợt cải cách ruộng đất, lão bị qui là phú nông cường hào. Lão là người trọng nho học và những lời dạy của thánh hiền…”
“Ai có ý kiến?” Tôi hỏi ngay khi vừa chấm dứt phần sơ lược. Cả lớp im lặng. Mấy cậu học trò cũ ngồi ở bàn chợt nhìn tôi bằng những đôi mắt thương cảm. Từ Socrates, Platon, Aristote… tôi không nhảy tới Heidegger, Sartre mà nhảy qua Marx, Engels một cách khó hiểu. Rõ ràng là tôi nói không suông sẻ lắm. Có lẽ tôi giống như một người đọc diễn văn do một người khác viết. Tôi là cây kim đồng hồ quay một góc một trăm tám mươi độ chăng? Tôi nhìn Nhị Hà. Mắt cô ngó thẳng vào mắt tôi. Tôi thấy cánh tay cô nhúc nhích. Rất chậm rãi, cô từ từ đưa tay lên.
Cô không đưa một ngón tay kiểu Sài Gòn. Cô đưa cao nguyên cả bàn tay.
“Thưa thầy, em có ý kiến!”
Tôi gật đầu.
“Thưa thầy, em nghĩ rằng nhân vật trong Cái Sân Gạch là một nhân vật lạc hậu…”
Tôi cúi xuống nhìn lại trang giáo án. Ðúng, tôi quên nói cái chính trong bài giảng là phải nhìn cho ra tính cách lạc hậu trong nhân vật lão Am.
“Phải. Cám ơn Nhị Hà.” Tôi liếc qua trang sách giáo khoa tiếp tục nói như đọc “Cái ưu điểm của Ðào Vũ là đưa ra được một nhân vật có nội tâm phong phú, có cá tính – tôi biết mình lặp lại điều đã nói – nhưng viết về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp mà lại chọn một trung nông sống bằng nghề thủ công làm nhân vật trung tâm thì không thuận lợi cho việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm…”
Cả lớp im lặng, lạnh lẽo. Mấy học sinh cũ lắc đầu. Các học sinh mới cũng không khá hơn. Nhị Hà cúi xuống cuốn tập đã xếp.
“Thưa thầy!”
Có tiếng nói từ cuối phòng. Người đưa tay lên, chỉ một ngón thôi, là Hiệp, bạn của Kiệt, một trong những học sinh giỏi của tôi.
“Em không hiểu gì hết! Ông nhà văn này viết những điều chẳng ăn nhập gì đến đời sống của chúng ta hết. Hợp tác hóa là gì? Tại sao lại phải vào hợp tác xã?”
“Em có ý kiến!” Nhị Hà lại giơ nguyên cả bàn tay lên. “Em không đồng ý với phát biểu của anh gì gì đó”, cô quay đầu lại nhìn về phía Hiệp. “Nhà văn Ðào Vũ viết những điều rất liên hệ đến nông thôn miền Bắc. Có thể nông thôn miền Nam chưa có cảnh này, nhưng nông thôn miền Bắc vào những năm sáu mươi nó là như thế.”
“Em xin có ý kiến.” Hiệp đưa tay lên.
Tôi đưa mắt ra dấu cho Hiệp cứ nói.
“Tôi muốn hỏi chị vậy chớ bây giờ ngoài Bắc vấn đề ấy ở nông thôn còn không?”
Nhị Hà không trả lời ngay. Một lúc, chị đưa cả bàn tay lên, nhìn tôi xin nói. Tôi gật đầu.
“Tôi nghĩ là vấn đề đó vẫn còn.”
Tôi nhìn đồng hồ. Còn mười phút nữa đến giờ đổi lớp. Tôi ra dấu cho cả lớp ghi chú những điều cần làm ở nhà cho kỳ tới. Tôi cố ý không giải quyết vấn đề. Tôi xếp mấy trang giáo án và cuốn sách giáo khoa lại, buồn bã ngó xuống lớp học. Tôi chờ tiếng chuông đổi lớp, nhưng thời gian hình như đã ngừng lại ngay khi tôi không còn chút chữ nghĩa nào trong đầu để nói thêm về bài học trên. Tôi lẩn thẩn tự hỏi không biết mình sẽ làm gì trong những ngày sắp tới, nhưng tôi biết chắc chắn công việc đứng trên bục gỗ này không còn thuộc về tôi nữa. Bao lâu tôi còn đứng ở chỗ này, tôi sẽ còn tiếp tục nói dối. Nói dối đã là điều đáng khinh, nếu tất cả những điều dối trá ấy lại được thốt ra trong sự thành thật của tôi thì sự khinh bỉ ấy không biết cách nào đo lường được. Tôi đi tới dãy bàn cuối phòng, ngồi xuống chỗ ghế trống của Kiệt.
Tôi hỏi Hiệp:
“Em có gặp Kiệt không?”
“Thưa thầy có!”
“Sao Kiệt không đi học?”
“Kiệt nói với em sẽ theo má về dưới quê.” Hiệp ngập ngừng tiếp. “Mà thầy có biết là cha của Kiệt đã tự tử không?”
“Có, có!” Tôi nói.
““Thầy thấy ba của Kiệt đúng hay sai?”
Tôi nhìn thẳng vào mắt Hiệp. Ba của Hiệp là sĩ quan Biệt Ðộng Quân, bạn của ông anh tôi. Thời đảo chính Ngô Ðình Diệm ông là một trong những sĩ quan có công lớn. Cũng như Kiệt, Hiệp là người ít nói và là học sinh xuất sắc.
“Theo em thì sao? Ba Kiệt chọn cái chết là đúng hay sai?” Tôi hỏi ngược.
“Em không biết. Em muốn nghe thầy nói.”
“Tôi cũng không biết. Có nhiều điều mới xảy ra đây, tôi không biết gì hết.”
“Tại sao thầy không đi?” Ðột nhiên Hiệp hỏi tôi.
“Tại sao mình không đi?” Câu hỏi ấy đâu phải đặt ra cho một mình tôi. Câu hỏi ấy đặt ra cho hằng triệu con người… ở Sài Gòn và cả miền Nam. Những người của tháng Tư, Quỳnh chuẩn bị sinh con đầu lòng.
Một tuần lễ trước ngày Sài Gòn thất thủ, một người bạn ở tòa đại sứ Úc hứa cho hai vé và cho điểm hẹn. Tôi chở Quỳnh đến nơi đúng giờ, nhưng điểm hẹn không một bóng người. Quanh tôi người ta bắt đầu hôi của. Bàn ghế, rượu, xe, đàn dương cầm, gạo… ở mấy căn nhà bị kéo ra sân. Người ta ngang nhiên chở đồ đạc nhà người khác đi như một kiểu dọn nhà công khai. Quỳnh ôm bụng ngồi yên sau chiếc Lambretta. Ðôi mắt Quỳnh thất thần, sợ hãi. Suốt buổi chiều chờ đợi không thấy bóng dáng tăm hơi, tôi đành chở Quỳnh trở về. Người ta bảo xuống bến Bạch Ðằng. Tôi chở Quỳnh đi qua đường Tự Do. Cả dãy phố đóng cửa. Bến tàu đầy người chen chúc nhau. Quỳnh hỏi tôi có nhớ vụ di tản miền Trung không. “Chắc em chết. Chắc hai mẹ con em chết.” Tôi hiểu nỗi lo sợ của Quỳnh. Tôi buồn bã quay xe trở về. Quỳnh đóng cửa, mở cuốn album của tôi ra và xé đốt tất cả những ảnh tôi chụp hồi ở quân trường Quang Trung.
“Còn gia đình em? Ba má em có tính gì không?”
Tôi không muốn trả lời trực tiếp câu hỏi của Hiệp. Trước Ba Mươi Tháng Tư nhiều lần trong lúc giảng bài, tôi hay đưa ra thái độ vô chính trị của mình. Ðối với tôi chế độ nào mở được nhiều nhà trẻ, nhà thương, nhà trường, dẹp bỏ được nhà tù, nâng cao được mức sống văn hóa và vật chất người dân, chế độ ấy là tốt. Trong khi giảng bài, có lần tôi nhắc đến Niccolo Machiavelli qua cuốn Le Prince, Sứ Quân, và tôi nói tôi rất sợ thủ đoạn trong chính trị. Tôi đọc truyện Bác Sĩ Zhivago và tôi khó lòng chịu nổi nhân vật đối đầu, một Komarovski thủ đoạn và một Pacha Antopov khi đi theo cách mạng. Tôi ca ngợi Lara, người tình tuyệt vời của Zhivago. Khi vào quân trường Quang Trung, không có giờ nghỉ nào mà tôi không nghĩ ngợi đến Lara. Tôi cho rằng để bảo vệ một chế độ người ta phải dùng bạo lực và bạo lực không thể không đi kèm với nhà tù, chiến tranh và đổ máu. Nó có tính cách nhất thời và tiêu vong. Chỉ có tình yêu mới làm cho con người hạnh phúc và tồn tại. Người ta có thể sống mà không cần chiến tranh nhưng không ai có thể sống mà thiếu tình yêu được.
“Gia đình em đi hụt. Suốt ngày chờ trên sân thượng của một điểm hẹn nhưng không có chiếc máy bay trực thăng nào đáp xuống cả.”
“Nhà em bây giờ ra sao?”
“Ba em đã đi học tập cải tạo. Ổng có vẻ tin tưởng là sẽ được sớm trở về. Ổng tin chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc.”
“Còn em?”
“Em không rõ. Em không biết làm thế nào là đúng trong lúc này? Có lẽ…” Hiệp ngập ngừng. Nhưng có tiếng chuông đổi lớp bất ngờ reo lên đã chấm dứt câu nói của Hiệp. Tôi đứng dậy đặt nguyên bàn tay lên người học sinh. Tôi nghe câu hỏi của Hiệp dội lại lồng ngực tôi, reo lên như một hồi chuông.