Chương Sáu
Khi tôi về đến đầu ngõ, cả khu Mã Lạng bỗng tắt điện bất ngờ. Tôi nghe tiếng người nói ồn ào ở rạp Quốc Thanh. Hồi sáng, khi chạy xe ngang, tôi thấy rạp dựng bảng đoàn kịch Kim Cương trình diễn vở “Dưới Hai Màu Áo.”
Có lẽ khán giả đang bực mình vì vở diễn bị ngưng nên túa ra trong vòng cửa sắt hút thuốc, uống nước, tìm chút không khí. Tôi tắt máy xe, dắt bộ xuống con hẻm. Hai dãy nhà ngó mặt nhau trong đêm với những cánh cửa sổ như được mở đồng loạt kiến tôi có cảm tưởng là mình bị những cặp mắt vô hình dòm ngó, soi mói. Dựng xe ở hiên nhà, tôi ngạc nhiên thấy cửa không đóng. Phòng khách tối, nhưng bên trong, nơi được dùng làm phòng ăn và buồng ngủ, tôi thấy ánh sáng leo lét của một ngọn đèn dầu.
“Ảnh về đó kìa!” Tôi nghe tiếng Quỳnh nói. “Vô đây anh.”
“Chào chú mày!” Tôi nghe tiếng nói của một người đàn ông, giọng cứng và lạnh.
Tôi đến cửa hông, dừng lại.
“Chào ông.” Tôi trả lời, hơi bỡ ngỡ không hiểu người đó là ai.
“Anh Mười. Ðây là anh Thăng, chồng em.” Quỳnh giới thiệu tiếp, “Anh Mười Tân, bữa trước em có kể anh nghe rồi!”
“Thưa anh.” Tôi chào thêm lần nữa, bối rối.
“Ði đâu cả ngày bây giờ mới về, mậy?”
Bất ngờ, tôi nghe tiếng nói của Tuấn. Hắn ngồi trong ghế sát cửa sổ, mở ra sàn nước, nhưng vì ngọn đèn dầu không đủ ánh sáng, nên tôi không nhìn ra hắn.
“À, đi lăng quăng…” Tôi trả lời.
Ông Mười Tân vẫn ngồi yên, chỉ có đốm lửa đỏ trên đầu điếu thuốc sáng rực lên và dịu xuống từng lúc.
“Thời này không phải như hồi trước đâu, đừng có la cà theo bọn phản động, có ngày tù rục xương, chết không kịp ngáp!” Tuấn nói, vẫn cái giọng lên lớp.
Tôi đến chỗ Quỳnh nằm, bế con lên. Ðứa bé trở mình khóc. Cả thân thể nó nóng hâm hấp. Tôi ôm con vào lòng. Thuốc men hồi này khan hiếm. Hoặc giả nếu có thì đã quá hạn kỳ, hoặc tủ lạnh mất hơi vì thiếu điện nên không giữ được dược tính của thuốc.
“Tại sao xin nghỉ dạy?” Ông Mười Tân hỏi tôi một câu trống trơn.
Tôi ngồi xuống mép giường. Quỳnh đưa tay bế con. Tôi chưa biết trả lời sao cho ông Mười Tân rõ. Tôi biết người đang nói chuyện với tôi là một đảng viên Cộng sản, một cán bộ cao cấp của chế độ mới. Tôi cũng biết, theo như cách nói của Hiên, hiệu trưởng của nhà trường “cách mạng.” Mười Tân là “thủ trưởng của thủ trưởng” của y nữa kia. Có lẽ, Mười Tân đã được báo cáo về trường hợp xin nghỉ của tôi, theo một cách nào đó như kiểu tờ trình của Hiên gửi lên Sở Giáo Dục Thành Phố mà Sự đã cho tôi một bản sao. Tôi không nghĩ là ông ta đang nói như một người anh họ của người đàn bà đang sống với tôi. Ông Mười Tân đang nói như chính cái chế độ của ông nói:
“Thưa anh,…” tôi chậm lại, “Tôi thấy công việc dạy học không thích hợp với tôi.”
“Không thích hợp tại sao trước đây chọn nó?” Mười Tân tiếp tục hỏi trống trơn, giọng nhẹ nhàng.
“Chắc mày dạy cái môn triết lý bá láp này cũng hơn mười năm rồi phải không?” Tuấn chen vào, giọng đắc thế. “Duy Tâm! Duy Tâm! Hỏng hết!”
“Em không hiểu sao anh Tuấn hồi này nói năng lung tung quá!” Quỳnh đứng dậy đặt con vào nôi, vừa buông màn vừa nói, “Ở đời ai chẳng chọn lựa, chọn sai thì đổi, có sao đâu!”
Mười Tân không nhìn tôi. Ông vừa liếc mắt về phía Quỳnh vừa châm một điếu thuốc. Có vẻ ông là người hút thuốc nhiều.
“Em có biết là cái thái độ xin nghỉ việc của thằng Thăng trong tình hình củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng là một thái độ mang ý nghĩa phản kháng chế độ này hay không?” Mười Tân nói giọng nhỏ nhẹ mềm mỏng hơn, mặc dù nội dung không phải là như thế. “Vả lại,” Mười Tân tiếp, “rồi tụi bây sẽ làm gì để sống trong những ngày sắp tới?”
“Em sẽ đi buôn bán như hồi má em còn sống!” Quỳnh trở lại giường, ngồi sát chỗ tôi.
“Hừ! Buôn bán! Chế độ này không có chỗ cho cái bọn con buôn cân thừa bán thiếu đâu. Bây giờ mà má còn sống, má cũng phải dẹp tiệm chứ đừng nói em!” Tuấn nói như một nhà cách mạng thứ thiệt.
“Chớ anh quên cái bọn con buôn cân thừa bán thiếu kia lâu nay nuôi anh ăn học nên người như thế này à? Chớ anh tưởng ba đang được tự do như anh với tôi, với anh Thăng à?” Quỳnh bất ngờ xẵng giọng.
“Quỳnh!” Tôi nắm tay vợ, chận không muốn cô nói nữa.
“Anh theo cách mạng hồi nào vậy?” Quỳnh tiếp tục nói, “bộ anh là con kỳ nhông sao đổi màu mau quá vậy?”
“Thôi em!” Tôi choàng tay qua vai Quỳnh.
“Thì anh cũng để em nói với ảnh một lần cho ảnh biết chớ!”
“Thôi em!” Tôi ôm chặt Quỳnh. Bàn tay tôi bóp bóp vai vợ. Tôi biết là mình không thể ngăn chặn được điều Quỳnh nói.
Khi mới quen Quỳnh, tôi không mấy rõ về gia đình cô. Tôi lấy Quỳnh chớ tôi đâu lấy gia đình của Quỳnh. Tôi chỉ biết Quỳnh có ông anh là Tuấn. Hắn là bạn học cũ của tôi. Khôn vặt. Láu cá. Ranh mãnh. Tuấn là đứa ưa gây mâu thuẫn giữa bạn bè, rồi làm ra vẻ người tốt đứng ra dàn xếp hòa giải đôi bên.
Tôi chưa bao giờ gặp ba Quỳnh, ngay cả khi chúng tôi đã chung sống với nhau. Tuy vậy, tôi biết rõ trong gia đình của Quỳnh, không một người nào muốn cô lấy tôi. Nhưng mọi người đều biết là không ai có thể ngăn cản được Quỳnh một khi cô đã quyết định, nên đành để mặc cô chọn con đường cô muốn đi. Chúng tôi sống với nhau, dọn vào ở chung với nhau, vì thấy không còn con đường nào khác.
Hãng hàng không Trung Hoa CAL cho Quỳnh nghỉ có lương vì lúc đó chờ ngày sinh, không ngờ Tháng Tư đổ ập xuống, CAL cũng đóng cửa luôn và Quỳnh thất nghiệp. Nhưng làn sóng đỏ trước khi tràn ngập Saigon vào Tháng Tư, nó đã cuốn qua miền Trung từ Tháng Ba. Gia đình Quỳnh có một tiệm bán thuốc tây và trong cơn hỗn loạn, bọn hôi của đã dọn sạch thuốc men không còn để lại một thứ gì ngoài căn nhà trống. Ba Quỳnh sau đó bị bắt đi học tập cải tạo vì thuộc thành phần tư sản. Hơn nữa việc ông quen biết lớn trước Bảy Lăm cũng làm ông mang thêm cái tội giao du “toàn bọn đầu sỏ phản động.”
Mười Tân ngồi im lặng khá lâu, bập bập điếu thuốc trên môi. Tôi thấy ông hết nhìn Quỳnh lại nhìn Tuấn. Khi Quỳnh nói xong, mắt ông ngó xuống mặt bàn, những ngón tay ông gõ nhịp đều đặn trên thành gỗ. Tôi có dịp nhìn kỹ ông. Một mái tóc gần như đã bạc trắng. Một khuôn mặt nhô xương. Hai con mắt vẫn còn sáng. Một vết sẹo lớn trên trán kéo xuống tận mắt trái chẻ ngang đường chân mày.
“Về trường hợp của chú,” ông Mười Tân ngừng lại một lúc, “Anh muốn nói ba của mấy đứa, việc học tập cải tạo là rất cần thiết. Ðồng chí bí thư Tỉnh Ủy Phú Khánh là bạn của anh, nhưng anh không muốn can thiệp vụ này. Muốn làm việc lớn người ta phải biết đặt tình cảm cá nhân qua một bên. Vả lại đối với cách mạng chú còn nhiều lợn cợn cần phải làm cho sạch. Chánh sách nhà nước là luôn luôn khoan hồng đối với những ai biết nhận ra lẽ phải…” Tiếng nói ông Mười Tân dịu mà mạnh. Tôi thấy rõ mắt ông tiếp tục chiếu thẳng về phía Quỳnh.
“Vậy theo anh Mười thì điều anh Tuấn nói là đúng hay sao? Buôn bán là một tội lỗi à? Cả cái thế giới này đều là tội lỗi hết trơn hết trọi sao? Còn mấy người trong sạch sống với ai?” Quỳnh nói trong tiếng khóc. Tôi nghe tiếng cô gọi rất nhỏ. Ðầu Quỳnh tựa lên vai tôi.
“Tất nhiên buôn bán không phải là cái tội. Nhưng vấn đề là buôn bán như thế nào, buôn bán cái gì, ai buôn bán, buôn bán với ai, thì mới có thể nói là có tội hay không có tội. Dù sao tư sản đã là có tội. Nhưng thôi…” Ông Mười Tân ngập ngừng, “Chẳng lẽ anh phải nói là chính các em cũng nên đi học tập cho thông suốt đường lối chính sách của nhà nước.”
“Em đã vào sinh hoạt trong Hội Trí Thức Yêu Nước. Em tin là em hiểu rõ đường lối chính sách của đảng và nhà nước.” Tuấn nói chen vào giọng kể lể, “Còn mày, Thăng, tại sao tao không thấy mày xuống hội sinh hoạt với anh em?”
“Tôi à?” Tôi cố nhướng to mắt nhìn xem Tuấn nói với một vẻ mặt như thế nào, nhưng bóng tối đã cho hắn chiếc mặt nạ quá tốt. “Bộ anh nghĩ tôi xứng đáng là một người trí thức sao?”
“Ðây không phải là lúc để cãi nhau.” Ông Mười Tân ngừng gõ tay lên mặt bàn, lấy điếu thuốc ra khỏi môi.
“Anh nghĩ là Tuấn chưa biết gì về chính sách đảng và nhà nước ta đâu. Chính mấy ông chủ tịch và phó chủ tịch của hội cũng cần phải sinh hoạt nhiều mới nắm được đường lối chính sách của đảng ta. Nhưng thôi…,” đột nhiên ông Mười Tân đổi giọng, “Hôm nay anh đến đây cốt để thăm Quỳnh, để xem mấy đứa bây sinh sống ra sao. Anh mừng vì thấy Quỳnh không dính líu gì với chế độ ngụy, không phản động, không có nợ máu với nhân dân…”
Ngừng một đỗi lâu, Mười Tân tiếp, “nhưng trường hợp Thăng tôi muốn nói một điều…” ông đổi giọng, bất ngờ xưng là tôi, tôi nhận rõ điều đó, “đời sống của Thăng là không tốt. Tôi biết rõ tên Lý, cha vợ trước của Thăng là một tay tư sản mại bản có cỡ. Tôi cũng có trong tay báo cáo đầy đủ về những liên hệ gia đình tên Phan, một trong mấy tay phản động gộc của ngụy quyền. Tôi không nghi ngờ hành vi của Thăng. Một người như cậu Thăng đây không làm được cái tích sự gì ngoài cái thẩm mỹ học của cậu đâu…”
Tôi không hiểu ông Mười Tân ám chỉ điều gì khi nói đến chữ thẩm mỹ học, “Tuấn có nói với tôi về đám bạn bè văn nghệ của Thăng. Thật tình, tôi không hiểu tại sao Thăng đi dạy học mà chỉ chơi với đám văn nghệ là thế nào? Toàn một bọn phản động đồi trụy. Dù sao tôi muốn nói với Thăng một điều: xã hội mới này không dung nạp cách sống phóng đãng đó đâu. Cải tạo lại nếp sống cũ là điều rất tốt!” Ông Mười Tân bất ngờ đứng dậy ngay khi vừa dứt câu, “Có lẽ tôi phải đi. Tôi có một buổi nói chuyện ở Thành đoàn.”
Tuấn cũng đứng dậy đi theo ông Mười Tân. Tôi thấy Tuấn mặc sơ mi trắng bỏ ngoài quần, cái “mốt” khá thịnh hành sau ngày Ba Mươi Tháng Tư. Tôi nhắm mắt cũng biết thêm là Tuấn đi dép râu.
“Tao phải theo anh Mười.” Tuấn nói tự nhiên.
“Anh không cần nói tôi cũng biết mà!” Quỳnh mỉa mai. Cô đứng dậy kéo tay tôi, tiễn ông Mười Tân ra cửa.
Cả khu Mã Lạng vẫn còn chìm trong đêm Saigon thiếu điện.
Khi đặt chân xuống con hẻm, ông Mười Tân quay lại phía chúng tôi.
“Rất tiếc! Rất tiếc!”
Và ông quày quả bỏ đi. Tuất lọt tọt theo sau. Ngay lúc đó, tôi thấy có hai bóng đen ở cuối ngõ hẻm đi nhanh tới, một người lách ra trước ông Mười Tân, và một người đi sau lưng ông. Như một yếu nhân của một chế độ, Mười Tân được bảo vệ quá cẩn mật. Và bỗng nhiên chữ “rất tiếc!” của Mười Tân vọng lại làm tôi nổi da gà. Tôi mơ hồ hiểu những gì sẽ chờ đợi tôi.
“Thôi mình vào đi em!” Tôi ôm vai Quỳnh.
Tóc Quỳnh đã dài, khá dài. Tôi nghe mùi bồ kết tỏa ra từ mái tóc quen thuộc của người đàn bà đã chia sẻ cùng tôi da thịt. Hai tay Quỳnh vòng qua lưng tôi. Chúng tôi ôm lấy nhau quấn quít như ngày mới quen nhau. Tôi nghe tiếng âm nhạc bay trong gió. Có lẽ rạp Quốc Thanh đã có điện riêng và vở diễn lại tiếp tục. Chúng tôi hôn nhau dưới một bầu trời đêm của Saigon đổi đời. Nhìn sâu vào mắt Quỳnh tôi như thấy lại tất cả cái khu phố nghèo nàn này. Bên tay trái tôi, sâu trong hẻm Mã Lạng này, trước kia chui rúc một số con người nghèo khổ, lợp nhà trên những nấm mồ vô chủ, giờ đây những con người còn cùng cực hơn chen chúc nhau trong những căn nhà che bằng những tấm tôn lỗ chỗ những đầu đinh tựa lên những tấm ván ép nát, cất tạm bợ trên những mồ mả không người thừa nhận. Mấy đứa bé con anh chị Sáu sửa xe đạp đầu hẻm, bụng ỏng ở trần chạy dưới mưa, lội bì bõm trong nước đục bẩn thỉu, thứ nước vọt lên từ những ống cống thành phố.
Chị Tư bán xôi, trốn từ vùng kinh tế mới về, không “hộ khẩu,” sống bất hợp pháp trong một túp lều lưu động. Bảy Thẹo, du đãng chợ Cầu Muối, được thả ra sau ngày Saigon thất thủ, cũng đang chiếm một chỗ trong nghĩa địa của những người sống.
Ðầu hẻm là nhà một ông tên Tòng, sau Ba Mươi Tháng Tư, y sống bằng nghề bán tivi, radio, cát-sét đủ loại. Người ta nói trước Bảy Lăm, y tốt nghiệp đại học khoa học Sài Gòn nhưng sống bằng nghề thi tú tài mướn. Mặc dù chỉ nhận tiền khi nào đương sự có tên trên bảng những thí sinh trúng tuyển, y cũng có một đời sống khá giả. Bây giờ y sống bằng nghề bán chợ trời. Y quen lớn nhiều cán bộ, từ cấp phường đến cấp quận, cấp thành. Y chả có bà con nào làm cách mạng, nhưng y biết cách mua những người cán bộ nào y cần mua, tất nhiên là có giới hạn thôi. Y nói muốn mua cán bộ nào “tôi chỉ cần đến nhà gắn cho hắn một cái tivi hay một máy cát xét bốn loa là xong.” Tòng sống có phần thoải mái hơn xưa và hơn hẳn nhiều người.
Bên cạnh nhà tôi là gia đình chị Tuyết, giáo sư trường Trưng Vương. Anh Bằng chồng chị là giáo sư Ðại Học Khoa Học đi tu nghiệp bên Pháp trước 75 hiện đang làm giấy tờ bảo lãnh cho chị và hai cháu đoàn tụ, chéo nhà tôi là bác Kỳ, công chức Bưu Ðiện hồi hưu, bác Kỳ là người Hà Nội, vào Nam làm việc đâu từ những năm Bốn Lăm, gặp bác gái ở Mỹ Tho. Hai người có hai cậu con trai nói tiếng “Nam rặt,” không pha chút giọng Bắc nào.
Ngay đối diện nhà tôi là gia đình bác Tốt, nhân viên ngân hàng. Tên y như người. Bác Tốt không làm mích lòng bất cứ một ai trong cái xóm nhỏ bé này. Bên cạnh nhà bác Tốt là gia đình ông bà Ngô, chạy từ miền Trung vào. Cũng như bác Kỳ, ông bà Ngô có hai cậu con trai. Cả hai đều học trường Pháp. Ðó là những thanh niên có chí và thuần hậu như cha mẹ. Quỳnh và tôi yêu nhất ông bà Ngô. Chúng tôi thương yêu hai ông bà như cha mẹ. Chúng tôi coi hai cậu trai như hai đứa em ruột mình. Và chúng tôi được che chở đùm bọc như thể mình là những đứa con được nuông chiều, nhưng vì đã lớn, được dựng vợ gả chồng nên phải ra riêng.
Ðó là cái thế giới của Quỳnh từ khi cô về sống với tôi trong cái xóm nghèo nàn ổ chuột ngay giữa thành phố đầy những sự giàu có này. “Em thương cái xóm Mã Lạng này quá!” Nhiều lần Quỳnh nói với tôi khi chúng tôi dự tính dọn đi một nơi khác. Bởi vì mùa mưa Saigon luôn luôn là một cực hình của chúng tôi. Ðang nửa đêm mà Saigon giáng một trận mưa thật to điều đó có nghĩa là cả khu xóm chúng tôi sẽ phải đồng loạt thức dậy, mở toang cửa ra, bước xuống giường và tát nước. Hôm nào đi xi nê, quên bỏ giầy dép lên kệ, mà gặp trận mưa to, coi như bữa đó nhà cửa lềnh bềnh những đồ vật giữa một biển nước. Nhưng mà Quỳnh yêu cái xóm ấy. Tôi cũng vậy. Tôi yêu vô cùng cái khu phố nghèo khốn này. Căn phòng sang trọng trong nhà ông Phan làm sao bằng được căn nhà chung vách chung mái này khi chúng tôi có nhau.
Tôi ôm Quỳnh. Thân thể của một người đàn bà, sau khi sanh nở đứa con đầu lòng, tròn hẳn ra. Quỳnh rúc đầu và ngực tôi:
“Em lo cho anh quá!”
“Ðừng lo! Anh sẽ không làm sao đâu!”
“Em sợ những ngày sắp tới của anh!”
“Bao nhiêu bạn bè của anh, trừ một số đồng nghiệp, còn tất cả đều đã phải đi cải tạo hết. Anh được tự do không bị tù tội như thế này em còn lo sợ gì chớ.” Tôi an ủi Quỳnh.
“Em sợ, dù em không hiểu mình sợ cái gì. Em không biết chính trị, không ưa chính trị, nhưng em biết anh và em, chúng ta không thích hợp với đời sống này, với cái xã hội mới này.”
Quỳnh nhắc lại chuyện tối qua, khi cả xóm bị khích động bởi tiếng kêu la giữa khuya của căn nhà đâu lưng bên kia hẻm. Một phụ nữ và một thanh niên bị trói thúc ké dẫn về đồn công an. Cả hai không một mảnh vải che thân.
Người ta nói công an đã xông vào nhà bắt khi hai người này đang làm tình, vì họ không phải là vợ chồng. Chế độ mới nhân danh đạo đức, bài trừ tệ đoan xã hội, nhưng người ta nói chính tên công an áo vàng theo tán tỉnh người phụ nữ kia không được, nên quyết tâm theo dõi tìm cách trả thù người đàn bà này.
Quỳnh nhắc lại chuyện tuần trước khi tôi chở hai mẹ con đi bác sĩ bị một tên công an bắt ngừng xe lại trình giấy tờ chỉ vì tôi là người đeo kính. Trình giấy tờ xong vẫn bị “lên án” vì sao dám đeo kính trong khi nói chuyện với người nhà nước. Chờ cho hắn ngưng nạt nộ, Quỳnh hỏi tại sao xét giấy chúng tôi, tên công an trả lời giản dị: “Bởi vì anh chị có vẻ ngụy quá!”
“Ngụy quá!” Ðó là lý do đủ để chận xe một gia đình có con ốm phải chạy nhanh đến bệnh viện!
Tôi nghe hơi thở rất nhẹ của Quỳnh. Mùi bồ kết trên tóc Quỳnh tỏa ra thanh khiết. Tôi nhớ mẹ tôi. Mùi bồ kết thơm giản dị như cuộc sống của bà, cuộc sống của một phụ nữ ít học nhưng trong sạch như bầu trời không một gợn mây. Trong lúc này, lòng tôi cảm thấy cần bà biết là chừng nào. Tôi nhìn lên bầu trời đêm không một ánh sao. Ðêm Saigon im lặng đầy bóng tối. Tôi ước gì trời mưa một trận lớn thật lớn để được nghe tiếng gọi nhau của cả xóm ra tát nước.
Tôi không nhìn thấy chút ánh sáng nào trong cuộc sống của chúng tôi vào những ngày sắp tới.