Chương Mười Lăm
Thật tình là tôi bị bất ngờ. Tôi đang nóng lòng chờ đợi Quỳnh và con. Tôi không hề nghĩ là sẽ có ngày gặp lại Mười Tân, nhất là ở đây trong hoàn cảnh này. Dù sao… sự thể đã như vầy. Tôi đi vòng ra trước mặt Mười Tân, kéo ghế ngồi xuống.
Những ngón tay của bàn tay trái Mười Tân vẫn gõ nhịp trên mặt bàn. Ðiếu thuốc vẫn còn trên môi. Tôi có cảm tưởng Mười Tân đang nhìn tôi cái nhìn xoi mói, muốn đọc những gì đang đi qua đầu óc tôi.
Tôi không biết cái thời gian im lặng nặng nề đó kéo dài trong bao lâu, nhưng rõ ràng Mười Tân là người mở lời trước.
“Tôi được người quen cho biết là cậu hiện đang ở đây. Từ một tuần trước kia. Nhưng bây giờ tiện dịp xuống dưới này làm việc với bí thư tỉnh ủy, nên tôi ghé thăm cậu.” Mười Tân bắt đầu nói sau khi nhấc điếu thuốc ra khỏi môi, dụi đốm lửa xuống cái gạt tàn, dí dí đến gãy cái điếu thuốc còn gần phân nữa.
Tôi vẫn im lặng. Tôi có cảm tưởng Mười Tân sẽ hỏi một câu gì đó. Tôi không chờ một câu nói vô thưởng vô phạt. Và tôi không phải chờ lâu.
“Có biết vượt biên là phản quốc không?”
Mười Tân hỏi cũng bất ngờ như sự xuất hiện vừa rồi của ông. Tôi không trả lời câu hỏi trống không của ông. Mười Tân lấy điếu thuốc bật diêm, châm lửa. tôi có cảm tưởng như ông đang dằn cơn tức để nói. Ðiếu thuốc chưa bập được hai hơi Mười Tân đã dập xuống gạt tàn. Những ngón tay lại gõ trên mặt bàn. Sau cùng ông đứng dậy, hai tay thọc trong túi quần, đi qua đi lại, rồi dừng hẳn trước mặt tôi, ông nói:
“Có biết loại người nào trong xã hội mới này bỏ nước ra đi không? Ðó là bọn ma cô đĩ điếm, bọn ăn không ngồi rồi, bọn sống bám trên mồ hôi lao động của người khác, bọn không có xương sống, không đầu óc, không biết suy nghĩ. Tại sao đi theo bọn đó? Tại sao?”
Tôi biết mình trước sau gì cũng sẽ nghe những lời nói đó, những câu hỏi loại đó. Bây giờ Mười Tân đã nói:
“Không phải đi học tập cải tạo như những tên có nợ máu với nhân dân sao không đội ơn lượng khoan hồng của chế độ mà còn giở trò vượt biên. Có biết hành động này không phải chỉ là hành động phản quốc mà thậm chí còn là hành động vô đạo đức nữa không?”
Mười Tân lại ngồi xuống ghế, rút thêm một điếu khác, mồi lửa, thở khói.
“Bỏ vợ bỏ con một mình lén lút ra đi, trốn chạy trách nhiệm với tổ quốc, trốn trách nhiệm với gia đình, phải đánh giá một con người vô trách nhiệm như thế ra sao?…”
Tôi vẫn ngồi im. Tôi cúi xuống nhìn hai bàn chân không giày dép của tôi. Tôi đan chéo hai bàn tay vào nhau. Tôi thấy những móng tay mình đã dài, cáu bẩn, đen đúa. Tôi nhìn chiếc áo mình đang mặc, nhiều chỗ đã ố vàng. Tôi thèm được uống một ngụm nước. Tôi muốn chui xuống cuống họng điều mà tôi đang ngậm đắng nuốt cay.
“Không đóng góp được gì tốt đẹp cho tổ quốc đã là một con người xấu, bỏ tổ quốc ra đi theo bọn phản động, còn làm cho mình trở nên tồi tệ…”
Tôi nhìn Mười Tân nói năng cử động như một người đang lên đồng.
“Tôi đã nói với Quỳnh, ngay sau ngày giải phóng là nó đã lấy một thằng đàn ông không ra gì. Một gia đình cách mạng xấu hổ khi để lọt một người như cậu bước vô.”
Tôi ngó lên trần nhà. Tôi nhìn quanh nhìn quất. tôi nhớ ra nơi chốn này tôi đã đến một lần. Cô học trò công an tên Nhị Hà ngồi ở chỗ mà Mười Tân vừa ngồi để lấy lời khai của tôi. Tôi không biết giờ này Quỳnh đang làm gì. Con tôi có khỏe mạnh không. Nếu có bị bệnh tật ốm đau làm sao có thuốc men mà chạy chữa, mặc dù gia đình của Quỳnh có cả một tiệm thuốc tây. Tôi nhớ có lần
Tâm-Khô-Khốc-Thiền-Sư nói về Mười Tân rằng đó là một con người có tài ăn nói, nhưng là người cực đoan chủ nghĩa về tất cả những gì mà ông theo đuổi một cách mù quáng. Những người trí thức bị chất mua túy của chủ nghĩa Mác-xít cuốn hút, những người chán ngấy cái xã hội Sài Gòn mà họ đã sống, những người trẻ tuổi bị bế tắc trước tương lai, những người sợ hãi trước chế độ mới… đều là những người hết lời ngợi ca Mười Tân. Những bài nói chuyện của ông lôi cuốn đám đông ấy trong một không khí sôi sục đến thần thánh, gần như sẵn sàng bùng nổ. Phải nói ông Mười Tân là một diễn giả tài giỏi và sức thuyết phục của ông trước một tình hình chính trị mới mẻ, trong một chế độ cai trị bằng bạo lực, thật là to lớn. Có lần tôi nghe được hay đọc được ở đâu đó rằng Mười Tân đã bỏ nhà ra đi làm cách mạng năm mới mười sáu tuổi. Năm mười tám tuổi, ông đã là chính ủy một đại đội đặc biệt. Mười Tân không phải chỉ là người can đảm, kiên cường, hoạt bát, lý luận giỏi, ông còn là một người chọn văn chương nghệ thuật như một vũ khí để minh họa cho con đường cách mạng của ông.
Cái tiểu sử của Mười Tân được thêu dệt bằng nhiều câu chuyện kể hơn là bằng chữ viết. Mười Tân trong thời kỳ cao điểm của cuộc chiến Việt Nam dám đứng khơi khơi giữa vùng phi cơ oanh tạc trong chiến khu mà không bị một mảnh đạn nào ghim tới, trong khi Trần Văn Trà chạy nhủi xuống địa đạo như con cút đất không dám ló mặt.
Mười Tân ra vô Saigon như cơm bữa mà tình báo của chính phủ từ thời ông Diệm đến ông Thiệu coi như bó tay. Người ta nói khi mà Nam Bộ hát bài “Mùa Thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến…” Mười Tân đã là một cán bộ cao cấp trong Xứ Ủy Nam Bộ. Mười Tân, hồi còn là học sinh đã chinh phục được một tướng cướp lừng danh tên Ba Công. Ba Công người cao lớn vạm vỡ, mặt đỏ như Quan Công. Ba Công lấy chữ Ba, vì như ông ta vẫn thường giải thích với đám thuộc hạ là “tao không muốn làm anh Hai thằng nào hết, nhưng thằng nào muốn làm anh Hai tao là không được.” Ba Công theo Việt Minh thời kỳ đầu, nhưng đám lâu la bộ hạ của Ba Công vẫn nằm nguyên trong đại đội của ông. Nhiều lần Việt Minh muốn phân tán cái đám đàn em của Ba Công ra mà không được. Ba Công là người trọng nghĩa khinh tài, đúng là loại người “giữa đàng thấy chuyện bất bình mà tha.”
Lính vệ binh của Ba Công có lúc lên đến vài ba trăm. Ðến lúc đó thì Ba Công gặp được đại diện của Việt Minh Nguyễn Bình. Vệ binh Ba Công gia nhập Việt Minh làm đại đội trưởng trong một đại đội mà hầu hết lính của ông ta là những người đã từng “vào sanh ra tử” trong các trận cướp suốt một vùng Mỹ Tho-Chợ Gạo. Mười Tân, mười tám tuổi làm chính ủy trong đại đội do Ba Công làm đại đội trưởng, biến một tướng cướp thành một con người bình thường. Người ta nói Mười Tân là người tổng chỉ huy trong trận đánh Tết Mậu Thân sáu tám tại Saigon. Và trận đánh thất bại vì Mười Tân đặt nặng sức mạnh vào vai trò của trí thức sinh viên học sinh mà lại xem nhẹ vai trò của công nhân, nên thất bại là lẽ thường tình. Mười Tân bị hạ tầng công tác.
Cuộc đời “làm cách mạng” của Mười Tân không suôn sẻ, nhưng cái quan trọng là Mười Tân luôn luôn tự xem mình như là người cộng sản thứ thiệt. Sau bảy lăm, Mười Tân vẽ ra cho dân Saigon cái hình ảnh Vùng Kinh Tế Mới, vùng đất lưu đày của những người mà chế độ mới gọi cái tên chung là “Ngụy”, rằng đó là vùng đất lý tưởng, chỉ cần năm năm sau là nhà cửa vườn tược được điện khí hóa đến nơi đến chốn. Rồi con kinh đào nước trong xanh chảy qua. Ðêm trăng, bầu trời trong đầy sao. Mười Tân nói hay đến nỗi, trừ những người bị cưỡng bách đi vùng kinh tế mới thì chẳng nói làm gì, có người đang đủ điều kiện sống ở Saigon cũng bỏ ra đi. Năm năm đã qua. Cái cảnh con kinh xinh xinh, cánh đồng, vườn tược, tiếng hát, tiếng cười của trẻ thơ mà Mười Tân vẽ ra chỉ là những hình ảnh trên trang giấy.
Người đi kinh tế mới lũ lượt kéo nhau về Saigon, sống tạm bợ ở các vỉa hè, sống chui rúc trong những khu xóm tối tăm, ngay cả nghĩa địa cũng đầy những người sống. Mười Tân đề cao một thứ đạo đức mới của người cộng sản là “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.” Các bài viết nào của Mười Tân cũng nhắc đi nhắc lại câu thơ của Nguyễn Ðình Chiểu “chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”
Mười Tân gọi mấy thằng gian này là đám cán bộ bắt đầu tham nhũng hối lộ, muốn lấy cái công lao kháng chiến làm công hãn mã để ăn ngon mặc đẹp, ăn trên ngồi trước. Ðám này phải được trừng trị, dạy cho bài học làm người. Nhưng, thêm một lần nữa, Mười Tân bị hạ tầng công tác. Bộ Chính Trị trung ương đảng nói Mười Tân làm cách mạng bao nhiêu năm mà chưa thuộc bài học tư tưởng Mác xít Lê-nin-nít. Kẻ thù số một của cộng sản Việt Nam trong giai đoạn này là cái bọn ở Trung Nam Hải Bắc Kinh, còn kẻ thù cơ bản thì vẫn là “đế quốc Mỹ,” chớ còn “mấy cái thằng gian” kia dù sao cũng là đồng chí anh em, những người đã từng nằm gai nếm mật, những người đã từng “áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, miệng cùng cười buốt giá chân không giày…” Cây bút của Mười Tân đâm sai chỗ. Mười Tân chưa bao giờ được đưa vào chức ủy viên trung ương, chớ đừng nói chi được vào Bộ Chính Trị, trong khi những người được Mười Tân giới thiệu vào đảng, cất nhắc, bao che, lần lượt chiếm những chỗ mà bất cứ một đảng viên cộng sản nào cũng ao ước đạt tới.
Mười Tân có lần đến thăm nhà của Quỳnh. Ông cụ còn nằm trong trại cải tạo cộng sản. Ðứa em trai của Quỳnh, cựu học sinh Taberd Saigon bị ma túy hành. Mười Tân rút khẩu súng ngắn ra đặt trên bàn nói với giọng lạnh lùng: một là gởi thằng này vào trại phục hồi nhân phẩm, hai là tôi bắn nó ngay tại chỗ này.
Ðứa em trai của Quỳnh tên Dũng đi vào trại phục hồi nhân phẩm ba tháng sau trốn trại. Một tên công an khu vực bắt được Dũng khi cậu lần mò về nhà trong một đêm tìm thứ gì có thể bán được để mua thuốc. Dũng chống cự và bị tên công an đánh đập tàn nhẫn. Dũng chết ngay trong đêm đó. Mười Tân nói cái chết của Dũng là một điều hay. Xã hội này không có chỗ đứng cho loại người chẳng những vô tích sự mà còn ăn bám như Dũng.
Ðó là Mười Tân.
Mười Tân cứ tiếp tục nói. Hai con mắt ông nhấp nháy, thỉnh thoảng giật giật như bị kích thích. Những ngón tay gõ nhịp trên mặt bàn. Khói thuốc bốc lên tỏa ra căn phòng hỏi cung không ngừng khi ông nói. Tôi nhìn ông. Dần dần tôi thấy ông như một diễn viên kịch câm trên sâu khấu thành phố. Tôi nhớ Quỳnh. Tôi nhớ con tôi. Tôi nhớ Saigon. Chẳng lẽ Mười Tân biết tôi ở đây mà Quỳnh không biết? Chẳng lẽ Quỳnh đã quên tôi? Chẳng lẽ Quỳnh đang gặp chuyện không may? Chẳng lẽ…? Không. Tôi không được nghĩ ngợi như vậy. Tôi tin Quỳnh. Cái hình ảnh Quỳnh trong đêm sinh nhật của Uyên tại nhà ông Phan trước ngày Saigon thất thủ vẫn còn trong trí nhớ tôi. Làm sao tôi quên được cái đêm giới nghiêm sau cùng của thành phố, Quỳnh xé chiếc vé máy bay của hãng CAL và quyết định ở lại với tôi. Tôi yêu Quỳnh. Chính trị, chế độ là cái sẽ đi qua. Tình yêu là cái còn lại vĩnh viễn.
Mười Tân tin tưởng vào những điều ông ta làm, say mê những điều ông ta nghĩ. Có lẽ suốt đời Mười Tân không biết thế nào là tình yêu. Nhưng những gì mà ông ta làm và nghĩ tưởng chừng như là lớn lao, thật ra dưới mắt tôi cũng chỉ là con số lẻ của một bài toán.
Tôi đã có lần gặp chị Mười Tân. Ðó là một phụ nữ bình thường, ốm yếu, bệnh tật. Hơn thế nữa, chị là một phụ nữ lạnh lùng. Tôi không thấy chị cười bao giờ. Khuôn mặt chị giống như được đắp bằng sáp. Chị ít nói đến độ tôi có cảm tưởng sự băng giá ấy đã làm đông cứng trái tim chị.
Người ta nói tại hội nghị La Celle-Saint-Cloud ở Pháp, Nguyễn Thị Bình là cái bề mặt còn chính chị Mười Tân mới là người quyết định những phát biểu của Bình. Chính những ngày dự hội nghị ở Paris, chị Mười Tân đã có một hành động làm rúng động tới Praha về tận Hà Nội.
Trong một buổi tiếp tân của chính phủ Pháp khoản đãi các phái đoàn bốn bên, trong đó có các đại sứ và phu nhân của nhiều quốc gia tham dự. Bà đại sứ Ấn, mặc quốc phục để hở rốn – một chuyện bình thường – nhưng một tên đại sứ của Hà Nội từ Praha, Tiệp Khắc đến đã bất kể lịch sự tối thiểu cứ nhìn chằm chằm vào bụng người phụ nữ Ấn. Cái nhìn láo liên mất dạy của hắn không qua được mắt của chị Mười Tân. Trong bữa ăn sáng ngày hôm sau, giữa các thành viên trong phái đoàn, chị Mười Tân nhắc lại thái độ không đúng đắn của tên đại sứ. Hắn cho là chị đùa. Hắn vẫn cứ tiếp tục cười nói: “Ối, đàn bà có cái rún đẹp để cho đàn ông ngó. Mất mát hao mòn gì đâu mà phê bình!”
“Ðồng chí nói sao?” Chị Mười Tân hỏi lại.
“Thì tôi nói đàn bà có cái rún đẹp…”
Tên đại sứ chưa nói hết câu, chị Mười Tân bỏ dao nĩa xuống, xô ghế đứng dậy, chồm qua mặt bàn, tát một cái thẳng cánh vào mặt tên đại sứ.
Xong, chị cầm cái khăn ăn chùi tay ngồi xuống ăn tiếp bữa. Chuyện đó người ta đồn rùm lên. Tôi nghe anh Phú, một cán bộ tập kết, người bạn cũ của anh Thúc tôi, kể lại như vậy.
Chị Mười Tân có yêu Mười Tân không? Tôi không biết. Nhưng cái mà tôi thấy bên ngoài giữa hai người là sự lạnh lẽo, cô đơn không có gì gắn bó.
Trong ngôi nhà to lớn giữa Saigon, chị treo một chiếc võng, nằm đọc báo. Chiếc võng đu đưa, đu đưa. Thỉnh thoảng chị lấy chiếc kính ra khỏi mắt, đặt tờ báo đọc dở lên bụng, hai bàn tay xếp lại ngó lên trần nhà cao. Chị nghĩ gì? Khó có ai đọc được những suy nghĩ trong đầu chị, kể cả Mười Tân. Chị là người khôn khéo trong giao tế với Bắc Bộ Phủ. Tất cả những tay lãnh đạo Hà Nội đều ưu ái chị. Chính Mười Tân khi có những hành xử quá mức, vượt ngoài quyền hạn mà Hà Nội cho phép, đã được chị cứu gỡ. Mười Tân trong khu, chị Mười Tân ở nước ngoài. Hai người ở “hai đầu công tác.”
Một lần đi với Quỳnh tới thăm chị, tôi biết thêm chị là người ăn nói nhỏ nhẹ dịu dàng, nhưng xa cách.
Tôi có cảm tưởng chị không muốn gia đình chị liên hệ họ hàng gì đến gia đình Quỳnh. Chị đối xử đúng đắn, phải lẽ, nhưng không thân thiết. Một gia đình cách mạng, không thể dính dáng đến cái bọn tư sản – như gia đình Quỳnh – lại càng không thể liên hệ được với một gia đình có quá nhiều điều còn cần phải xét lại như gia đình tôi – quen ông Phan là một tội, chơi bời với đám văn nghệ sĩ tự do phóng túng là một tội, đứng bên lề một cuộc chiến mà không tham gia Mặt Trận là một tội, Cha đi lính Tây là một tội, anh vào lính Việt Nam Cộng Hòa… là vô số tội… Ðó là mẫu số chung duy nhất giữa ông Mười Tân và chị.
“Cậu có nghe tôi nói không?”
Tôi giật mình. Tôi đã để Mười Tân nói một mình quá lâu.
“Dạ… có!”
“Sao cậu không đi chơi với thằng Giang mà giao du chi với đám thằng Ðình, thằng Tâm?”
“Anh nói nhạc sĩ Nguyễn Giang phải không?”
“Chớ còn ai! Một tài năng âm nhạc như thế mà còn đứng về phía cách mạng, điều đó nghĩa là gì, cậu biết không? Cả cái Saigon này, cả cái miền Nam này, cả cái nước Việt Nam này, ai mà không biết Nguyễn Giang. Một tâm hồn lớn như thế đã thấy được đâu là con đường phải đi, đã biết chọn ánh sáng bỏ bóng tối. Còn cậu? Cậu là cái gì? Một thứ thầy giáo hạng bét. Dạy một môn học bá láp. Ðồ cái thứ triết lý duy tâm không tưởng. Cậu tưởng là ghê lắm phải không? Cái thứ triết lý trên trời trên mây đó chỉ để cho bọn ăn không ngồi rồi, bọn trà dư tửu hậu, bọn no cơm rửng mỡ, bọn làm đầy tớ phục vụ đế quốc tư bản đọc…”
Dụi điếu thuốc hút dở xuống cái gạt tàn. Mười Tân ngừng nói, rút một điếu khác châm lửa. Tôi thấy ông nhìn tôi cái nhìn dò xét.
“Cậu có biết cái câu ngưu tầm ngưu mã tầm mã không? Tại sao chưa lần nào gặp Nguyễn Giang mà tôi thấy có mặt cậu cả vậy? Trước giải phóng là bạn thân mà, đúng không?”
“Dạ… không.”
Tôi ngập ngừng. Thật ra tôi không biết có thể nói Nguyễn Giang là bạn thân hay bạn sơ. Anh ấy là một trong những nhạc sĩ mà tôi ưa thích nhất. Chúng tôi quen biết nhau khá lâu, nhưng đi lại với nhau không phải là nhiều. Tôi phục anh. Ngôn ngữ trong âm nhạc Nguyễn Giang gần gũi với chúng tôi, với cả một thế hệ chúng tôi. Cùng lứa tuổi, Giang lớn lên ở Huế, tôi sinh trưởng ở Nha Trang. Chúng tôi gặp nhau, quen nhau ở Saigon.
Âm nhạc của anh làm tôi nhức nhối. Nó luôn luôn làm tươi lại những bông hoa tình yêu đầu tiên của một đời người. Những ngày tháng yêu Quỳnh, tôi vẫn để băng nhạc anh tặng trên máy nghe ở đầu giường. Ngày Chủ Nhật buồn, nằm trên căn gác đìu hiu… Tôi đã là như vậy khi ly dị với “người đàn bà trong căn nhà có cây trứng cá,” sau đó đi thuê một căn gác nhỏ trong cư xá Ðô Thành. Những ngày Chủ Nhật buồn, đầy dẫy trong tôi thời gian đau đớn. Một buổi tối Quỳnh đến thăm tôi, cãi nhau về chuyện giữa tôi và Uyên, cô giận dữ bỏ về lúc nửa đêm, âm nhạc của Giang cũng đầy trong đầu tôi. Tôi lo sợ tình yêu ấy sẽ tan mất. Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng. Tôi rất yêu những ca khúc của Nguyễn Giang, nhưng có lẽ tôi chưa là bạn thân của anh. Và tôi nghĩ là anh cũng chẳng thân tôi. Có lẽ cái cơ hội để chúng tôi gần nhau khá hiếm hoi, nên sợi dây bạn bè không đủ siết chúng tôi lại gần nhau. Vả lại tôi chỉ là một thứ người vô danh trong xã hội đầy danh vọng kia, tôi có gì để đến với anh. Tôi chơi với Nguyễn Giang qua các bạn Ðình, Nhật, Phùng, Tâm của tôi. Chúng nó viết văn làm báo. Chính tác phẩm của đứa này kéo đứa kia đến gần với mình và ngược lại. Một lần, theo các bạn Nhật, Tâm, Phùng, Ðình đến dự buổi ra mắt sách của một nhà văn nữ, tôi gặp lại Nguyễn Giang. Ðó là thời gian cuộc chiến Việt Nam đang ở cao điểm, và hôm đó Nguyễn Giang đã hát một ca khúc làm tôi thật sự rung động.
“Ðại bác đêm đêm vọng về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.”
Giọng anh khàn và đục, anh không phải là ca sĩ nhà nghề, nhưng tiếng hát của anh diễn tả ngôn ngữ âm nhạc của chính anh viết ra có một sức thuyết phục kỳ diệu. Nó khác với những lần nghe nữ ca sĩ Mai Khanh hát nhạc anh.
Tiếng ca ma túy của chị lôi cuốn người nghe theo một cách khác. Nhưng giờ đây, sau Tháng Tư Bảy Lăm, người nữ ca sĩ ấy đã ra đi. Ngày đầu tiên Saigon bị cưỡng chiếm tôi nghe tiếng hát Nối Vòng Tay Lớn của Nguyễn Giang trên đài phát thanh Saigon. Và mấy năm sau tôi nghe những ca khúc mới của anh. Em ra đi, nơi này vẫn thế. Có phải là một lời nhắn nhủ Mai Khanh rằng Saigon vẫn như xưa hay tâm hồn anh vẫn không có gì thay đổi, dù vật đã đổi, sao đã dời. Tôi không tin rằng nơi này vẫn thế. Tôi nhìn thấy mọi vật hoàn toàn đảo ngược. Tôi không phải là một người bị đe dọa mạng sống như các bạn tôi, tôi cũng không phải là những người có tài sản bỗng một sớm một chiều trắng tay, tiêu tan sự nghiệp, tôi cũng không phải là người mà hôm qua tràn ngập danh vọng nay bị đẩy xuống đáy thứ dân. Tôi chỉ là một tên dạy học quèn, sống ở một căn nhà quá nhỏ đâu mặt với những căn nhà cũng quá nhỏ khác trong một con hẻm ngập nước cống, rất gần với một nghĩa địa chen chúc những túp lều của đám người nghèo nhất của một thành phố có bốn triệu dân. Có lẽ những con người nghèo khổ cùng cực kia có quyền nói câu “Em ra đi nơi này vẫn thế” hơn là Giang, tôi nghĩ vậy.
“Sao Giang nói với tôi là cậu thân với Giang?”
“Dạ, mà phải!” Tôi ngập ngừng, “Nhưng lâu rồi không gặp.”
“Ngày nào Giang không có mặt ở Hội Văn Nghệ…” Mười Tân ngừng lại, bập một hơi thuốc, tiếp, “Vậy chớ những ngày trước khi vượt biên bị bắt làm gì, ở đâu?”
Mười Tân hỏi giọng gay gắt. Câu hỏi đó nghe quen, tôi trả lời không khó:
“Dạ, vẫn lái xe ủi đất ở công trường dưới Minh Hải.”
“Lái xe ủi đất? Cậu làm cái nghề này từ hồi nào vậy? Sao con Quỳnh nó không cho tôi biết?”
“Lâu rồi anh. Khi được giấy cho phép nghỉ dạy là chuyển ngành ngay.”
“Cậu có biết là tôi có đủ quyền hạn để cho cậu ngồi tù rục xương không?”
Tôi không trả lời.
Tôi biết điều đó.
Tôi thấy mình chưa đến nỗi rục xương lúc này, nhưng biết bao nhiêu người quanh tôi xương cốt đang bắt đầu mục rã. Người ta có cảm tưởng như cánh cửa nhà lao của chế độ mới chỉ rộng mở để đón người vào chứ không phải hé mở để cho người ra. Nhà giam của chế độ cộng sản là một nơi để người ta bỏ quên những sinh vật mà xã hội của những người tự xưng là “làm cách mạng” không muốn nhớ tới.
“Sáu Phận! Sáu Phận đâu!”
Sau cùng tôi nghe tiếng Mười Tân kêu lên hối hả.
“Thôi, tôi phải đi đây!”
Ông không chờ Sáu Phận đến. Ông bước ra cửa đúng lúc tôi nghe tiếng chân chạy ngược lại.
Mùi khói thuốc của Mười Tân khét nghẹt. Và tôi vẫn ngồi yên trên ghế.
Tôi không biết mình chờ đợi gì.