Chương Mười Bảy
Ðến tối mịt tôi mới về tới nhà. Trong túi không còn một xu, tôi vừa đi vừa chạy. Bầu trời không một ánh sao. Con đường từ bến xe về nhà không xa, nhưng sao tôi đi hoài không đến. Tôi tưởng ở đầu hẻm anh Sáu vẫn còn ngồi với ngọn đèn leo lét trên lề chờ sửa xe đạp. Thằng út con của anh, bụng ỏng da chì đang chạy lòng vòng. Mấy chiếc xích lô đang đậu quanh trước rạp hát Quốc Thanh. Những hàng chè, cháo, thuốc lá lẻ… hiện lên dưới mấy ngọn đèn hột vịt hay những cọng nhang. Và bên trong phòng vé rạp hát ánh đèn điện sáng cho thấy tên vở diễn buổi tối.
Tôi tưởng… nhưng mà, không. Rạp Quốc Thanh đây rồi: Cửa sắt đóng im ỉm, tối om. Quán cà phê, sòng bi da… có chút ánh đèn nhưng không bóng người. Không một chiếc xích lô ghếch càng đợi khách. Anh Sáu bên trong khu nghĩa địa không ngồi ở đầu hẻm. Cả khu Mã Lạng cũng chìm trong bóng đêm.
Tôi thò tay vào bên trong cánh cửa sắt nhỏ, kéo chốt. Tôi bước lên thềm hành lang cao – chính tôi đã mua xi măng và gạch về xây nó cao lên để chận nước từ ống cống chảy vào nhà mùa mưa – tôi lắng tai nghe ngóng. Bên trong nhà không có ánh sáng. Tôi vặn nắm cửa. Cửa đã khóa chặt. Tôi gõ, lúc đầu nhỏ, về sau tôi đập thật mạnh. Nhưng vẫn không thấy động tịnh gì. Không, chắc chắn là Quỳnh không có nhà. Không một ai trong căn nhà tôi. Tôi mệt mỏi, hụt hơi. Tôi ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào cửa. Tôi nghe tiếng lách cách của những căn nhà bên cạnh. Bác Tốt phía trước. Nhà anh chị Bằng kế bên. Nhà ông bà Ngô, nằm chéo bên phải… Tôi nóng lòng muốn biết Quỳnh đi đâu. Nhưng tôi không vội. Có thể Quỳnh đi loanh quanh gần đây, chưa về kịp. Tôi ngước mắt nhìn lên bờ tường cao, nơi Quỳnh vẫn để những chậu hoa vui mắt. Buổi tối đứng bên cửa sổ nhìn trời, tôi vẫn thường được ngửi mùi hoa dạ lý thơm ngát. Nhưng bây giờ tôi có cảm tưởng những cây hoa đã chết khô trong chậu không người tưới.
Tôi cảm thấy lạnh. Tôi thèm được bước qua cánh cửa này. Tôi thấy chiếc giường kê sát cửa sổ ngó ra sân trước, mà sau đó khi Quỳnh về sống chung đã chuyển qua một bên nhường chỗ cho chiếc bàn ăn.
Tôi nhớ chiếc ghế sopha ở phòng khách bị rách lớp vải ở mặt sau, tủ sách đã dọn gần trống trơn một năm sau khi Saigon mất. Tôi thấy cái máng xối bằng thiếc bị bể nước trút ào ạt xuống mặt sàn gỗ căn gác sau, nơi chứa những thứ đồ vật không dùng đến… Không, chắc Quỳnh đi đâu đó, sắp về. Tôi phải kiên nhẫn chờ.
Tôi đã ngồi như vậy lâu đến chừng nào, tôi không nhớ. Tôi nghe tiếng muỗi kêu bên tai. Cái còn lại là sự lặng im. Cả một thành phố trên bốn triệu con người đột nhiên như bị cơn gió độc thổi qua làm câm họng. Tôi lại áp tai vào cánh cửa – cánh cửa tôi đã cho thay khi Quỳnh dọn về căn nhà này sống với tôi – nhưng tôi vẫn không nghe thấy gì. Không có chút sự sống ở bên trong. Vắng ngắt. Lạnh tanh.
“Con ơi!” Tôi nghe tiếng kêu từ bên trong tôi. “Quỳnh ơi!”
Khi bước chân lên chiếc xe đò chật ních những người buôn gánh bán bưng Kiên Giang-Saigon, trí tưởng tượng đã vẽ cho tôi thấy cảnh Quỳnh đang cho con bú, đứa bé khóc nhoi lên vì đòi mẹ bế. Ðiện trong hẻm bị mất, nhưng trong phòng Quỳnh một ngọn đèn dầu lửa bóng bầu dục vẫn sáng lấp lánh ấm áp. Tôi sẽ gõ cửa rất nhẹ và khi Quỳnh biết chắc tôi đang đứng trước thềm, cô sẽ mở toang cánh cửa ra, ôm chầm lấy tôi. Và tôi sẽ lặng im đón nhận những chiếc hôn tới tấp của Quỳnh, nghe thấm ướt trên môi chất mặn của những giọt nước mắt vui mừng đoàn tụ.
Tôi sẽ ôm trong tay mình tấm thân thể nồng nàn của người đàn bà đã nuôi sống tôi, đã làm cho tôi tin tưởng rằng cả thế gian này sở dĩ tồn tại được là nhờ có cô, có khuôn mặt rực rỡ với đôi mắt màu mã não, cặp chân mày hơi xếch, nụ cười răng khểnh… Chính là người đàn bà này đã mang đến cho tôi niềm lạc quan tin đời và yêu người. Tôi tưởng tượng Quỳnh sẽ nói với tôi về những ngày sống trong lo âu vì chạy ngược chạy xuôi lo cho sự tự do của tôi. Tôi sẽ bế con tôi lên và đứa bé sẽ thôi khóc mỉm miệng cười. Quỳnh sẽ nấu nước nóng bắt tôi tắm, sẽ lau khô những giọt nước bám trên thân thể tôi, sẽ để sẵn trên giường bộ quần áo đã ủi thẳng nếp. Và chúng tôi sẽ nói với nhau bao nhiêu là chuyện. Tôi sẽ quên đi những điều thắc mắc tại sao Quỳnh không thăm nuôi tôi, tạo sao cô có thể ngờ nghệch đến độ không biết chồng mình sống chết ra sao, tại sao, tại sao và tại sao… Với tôi, ra khỏi nhà tù đã là một điều hạnh phúc, ôm Quỳnh trong tay còn hạnh phúc hơn.
Nhưng mà…, tôi bỗng nhớ tới Mười Tân. Phải rồi, tránh được Sáu Phận, rốt cuộc tôi cũng gặp Mười Tân, lại gặp những “ông cách mạng ba mươi Tháng Tư,” lại gặp những cái nón cối u ám, những đôi dép râu hãi hùng, những khuôn mặt lạnh tanh. Ði trong một nhà tù nhỏ hay bơi lội trong một nhà tù lớn, đằng nào tôi cũng là tù nhân của một chế độ mà tôi không chọn. Nhưng mà tôi là thứ người có bao giờ chọn lựa cái gì đâu. Có lần Mười Tân nói thứ người như tôi giống như bóng ma chập chờn trong một nghĩa trang những đêm tháng Bảy. Cái bóng ma ấy chẳng làm hại được ai, nhưng chắc chắn xã hội không cần. Ông ta nói đúng. Tôi nghĩ như vậy, nhưng ông nói có phần quá đáng. Tôi cũng thấy sự có mặt của ông khác tôi, nhưng là khác một cách tai hại. Dưới những quyết định của ông, bao nhiêu người đã chết. Cái lý tưởng mà ông theo đuổi, đã được xây trên bao nhiêu xương máu của người khác. Có bao giờ ông nghĩ lại để thấy rằng cuộc chiến đấu của ông thật sự mang lại cái gì sau khi đã chôn vùi những con người có lý tưởng khác ông… Trời ơi, tạo sao tôi phải nghĩ tới Mười Tân nhiều như vậy. Tôi giật mình thấy một cơn lạnh chạy dọc theo sống lưng tôi. Tôi nghẹn thở.
“Quỳnh!” Tôi nghe tận trong tiềm thức tôi tiếng kêu thảng thốt của một người đàn ông tả tơi đang ngồi trước thềm nhà mình. Tôi muốn nằm xuống thềm xi măng lạnh lẽo và bụi bặm như một cọng rác. Tôi là một thứ rác rưới trong một xã hội bụi bặm. Tôi là một hạt bụi trong một xã hội rác rưới. Tôi rác rưới bụi bặm. Tôi bụi bặm rác rưới… Và tôi thấy mình ngã xuống, ngã xuống. Tôi mở mắt to ngó lên bầu trời cao, mỗi lúc một xa. Tôi quay mặt ngó cái đáy hun hút phía dưới mà mỗi lúc tôi mỗi lao nhanh xuống. Tôi gào to tên của Quỳnh. Tôi vùng vẫy la hét. Tôi thở hụt hơi. Tôi tìm cái gì để bám. Khuôn mặt Quỳnh hiện ra chỗ này, chỗ kia. Tôi chụp bắt, nhưng khuôn mặt ấy ẩn hiện như một bóng ma…
Tôi nghe một luồng hơi ấm chạy khắp thân thể tôi. Ánh sáng chui vào hai mí mắt tôi làm tôi phải mở ra. Tôi thấy những khuôn mặt quen thuộc chụm lại ngó xuống. Hai ông bà Ngô, bác Tốt, bác Kỳ, chị Bằng, anh Sáu sửa xe đạp…
“Tỉnh rồi! Tỉnh rồi! Xoa dầu thêm nữa đi!”
Tiếng những người nói xì xào.
“Cậu Thăng! Cậu Thăng!”
Tôi nhắm mắt lại, nghe tiếng người gọi tên tôi.
Tôi mở mắt ra. Những khuôn mặt mờ mịt như bị che phủ bởi một lớp sương mù. Tôi không thấy Quỳnh. Tôi cảm giác có một bàn tay đang đặt lên trán tôi. Tôi đổi thế nằm, kéo tấm chăn lên tận cằm. Tôi chỉ muốn được yên thân một mình. Tôi nghe tiếng ông bà Ngô thì thầm. Ánh sáng vụt tắt không còn chui vào hai mí mắt tôi. Tôi nghe tiếng chân bước ra ngoài, cánh cửa phòng khép lại.
Nhưng tôi không ngủ được. Tôi nhớ Quỳnh. Trời ơi, tôi nhớ Quỳnh biết là bao nhiêu.
Tôi muốn được ôm em, chằng phải để hỏi tại sao thế này tại sao thế kia, mà để được hỏi với em là em có làm sao không, em và con đã phải sống như thế nào trong những ngày không có tôi…
Nhưng mà kỳ quá, tại sao không ai buồn nói với tôi điều gì cả.
Tự nhiên tôi cảm thấy ngộp thở. Tôi kéo chăn xuống. Mắt tôi bắt đầu quen với bóng tối. Tôi thấy chỗ nằm tôi là chiếc giường nhỏ sát bên cửa sổ ngó sân nước. Chiếc bàn tròn loại mở ra xếp vào được đặt cạnh bếp, nơi tôi vẫn đến ăn cơm với ông bà Ngô thời gian Quỳnh đi thăm nuôi ông ngoại cháu. Chiếc tủ đựng quần áo kê sát vách làm bằng loại gỗ tạp. Cái bàn nhỏ có tấm kính bên trên để bình trà và mấy cái ly. Bộ xa lông bọc vải đã bị sờn, tủ kính để ly chén thủy tinh, bên trên thờ Phật Bà Quan Âm. Sân trước hẹp và thấp, cánh cửa sắt mới thay. Tôi nhắm mắt cũng có thể thấy rõ tất cả mọi vật trong nhà này như của nhà tôi. Bởi vì cả khu phố này được kiến trúc một kiểu như nhau, nhà nào y như nhà nấy. Cũng cái sân nhỏ vừa để đựng một chiếc xe Honda, vì tường, để vài chậu bông, bước vào là phòng khách, bên trong là phòng ngủ, sau cùng là sàn nước và nhà bếp. Hơn nữa dù có thuê hoặc sang, có xây thêm tường hay cất thêm căn gác gỗ phía sau để lấy chỗ ngủ thì cũng chỉ chừng đó không hơn không kém. Vả lại trong cả khu phố này chỉ có căn nhà ông bà Ngô là tôi tự tiện ra vào như nhà mình, còn các căn kia thì năm thì mười họa tôi mới bước vào, nói láp dáp vài câu xã giao là ra ngay.
Tôi thuộc lòng bề mặt của những căn nhà và cả những con người trong khu phố tôi. Ðối với những người cùng khổ sống chen chúc trên mồ mả ở bên trong hay những người chỉ kiếm đủ ăn đủ mặc bên ngoài như chúng tôi thật ra không cách biệt là bao nhiêu. Cái khoảng cách lớn nhất mà tôi đã gặp ít ra hai lần trong đời tôi là khi tôi bước chân vào gia đình ông Lý và khi tôi sống trong ngôi biệt thự ông Phan. Với con gái ông Lý tôi làm rể của một tay cự phú, tổng giám đốc ngân hàng, chủ tịch một công ty xuất nhập cảng, các loại máy móc kỹ nghệ, có cổ phần trong hãng hàng không Việt Nam v.v… Chính ông Lý là người đầu tiên gọi tôi là người đi trên mây. Chính ông Lý đã từng nói với tôi rằng ông không cần một thằng rể làm ra tiền – cái thứ giấy lộn ấy tao có thể đốt cháy cả cái xứ này mà trong kho cũng chưa cạn nữa – vả lại nếu chẳng may mà cậu có làm ra tiền thì lương tháng nhiều lắm cũng chỉ đủ trả một chầu rượu cho tao ở Caravelle là cùng.
Với cô Uyên, tôi bước vào thế giới quyền lực của ông Phan. Mỗi lời nói của ông có thể đưa một người từ cõi sống vào cõi chết hoặc ngược lại. Mội sự can thiệp của ông có thể làm cho tay nhà buôn kia lời thêm vài chục triệu như chơi, hay trái lại làm cho đương sự tán gia bại sản trong nháy mắt. Ðồng tiền trong tay ông Lý, quyền lực trong tay ông Phan, cả hai thứ đó đều đè lên đời sống của mọi người. Và hơn ai hết, ông Lý là người biết kết hợp cả hai trong tay khi ông gả đứa con gái út của ông cho con trai của một tay trung tướng cầm đầu cuộc chính biến. Chính tay này đã đóng chặn cánh cửa không cho ông Phan trở về nước sau chuyến công du. Những bữa ăn thịnh soạn – gần như ngày nào cũng tiệc tùng, xe hơi loại mới nhất, đắt tiền nhất, quần áo được đặt may ở tiệm sang nhất, nổi tiếng nhất. Những thứ vừa thấy xuất hiện ở Paris, Hồng Kông tuần trước, tuần sau nhà ông Lý đã có.
Ðời sống của gia đình ông Lý hoàn toàn khác hẳn đời sống của gia đình tôi. Nếu nói tấm mề đay có mặt trái thì gia đình tôi là mặt trái đó. Nó sần sùi, nháp xỉn, trong khi cái mặt phải màu mè đẹp đẽ. Lúc đầu tôi tắm trong sự giàu có của ông Lý, tôi tưởng mình là sự giàu có ấy. Về sau tôi khám phá ra mình đã vơ vào cái không phải của mình. Cái cuộc sống hào nhoáng sao mà hời hợt. Cả cái gia đình ông Lý đã bị mục rỗng tự bao giờ. Những đứa con trai cao bồi du đãng, những đứa con gái chỉ biết có tiền. Quả thật, những đồng lương hàng ngày tôi mang về cho con gái ông Lý không đủ cho ông đãi một chầu rượu ở tiệm Admiral đường Nguyễn Văn Thinh, chớ đừng nói chi đến Caravelle cho nó xa. Tôi từng nhiều lần nhìn thấy cái cảnh mọi người trong một nhà hàng Tây đứng dậy khi ông Lý bước vào. Tôi đã nhìn thấy cách ông chi tiền cho mấy anh nhà báo viết về kinh tế hoặc viết về ông.
Ông Lý mua được tất cả mọi thứ mà ông muốn, kể cả một “thằng chồng” cho con gái ông hay một “đứa con dâu” cho con trai ông. Sau cùng tôi khám phá ra mình chỉ là một món hàng, một đồ vật trang trí trong nhà ông như mọi thứ trang trí khác.
Còn ông Phan thì sao? Tôi không cách nào quên được bàn tay với những ngón mập ú rịn ướt mồ hôi khi lần đầu tôi bắt tay ông. Tuy vậy rõ ràng ông là người làm chính trị có một cuộc sống đạm bạc. Những bữa cơm gia đình với bà Phan và cô Uyên cho tôi thấy mình gần gũi hơn với nếp sống của ông bà. Tôi biết với quyền lực trong tay, ông bà Phan có thừa sức để sống cuộc sống kiểu ông Lý, nhưng ông bà đã không làm như thế. Nếu ông Lý không bao giờ đọc một cuốn sách – trừ việc đọc báo hằng ngày, mà cũng chỉ đọc những bài liên quan đến kinh tế tài chánh thôi – thì ông Phan là người đọc khá nhiều. Cái tiểu thư viện của ông không phải chỉ gồm có những cuốn chính trị và hồi ký của những nhân vật lịch sử. Tôi đã tìm thấy những tác phẩm văn học của nhiều thế kỷ được ông trân trọng sắp xếp theo thể loại của nó. Truyện của Jack London hay tiểu thuyết của Dostoievsky, Sử Ký của Tư Mã Thiên hay Ðông Châu Liệt Quốc qua bản dịch của Nguyễn Ðỗ Mục… Những cuốn sách ấy tôi đã thấy dấu vết của ông Phan… Nhưng… giữa hai ông, tuy có nhiều điểm dị biệt, tôi vẫn nhận ra một điều, một điều rất giống nhau khi phải trực tiếp tiếp xúc với hai con người ấy: sự soi mói của họ với người đối diện.
Chính cái quan niệm sống đầy mùi tiền bạc của ông Lý đã chuyển sang con gái ông – người đàn bà đã có với tôi những đứa con – chuyển sang một cách trung thực nhất khiến tôi bị ngộp thở phải trốn chạy. Và chính cái quan niệm quyền lực của ông Phan đã tiếp sức cho Uyên khiến cô say mê chế ngự và ra lệnh hơn là hiến dâng và phục vụ.
Chỉ có Quỳnh mới làm cho tôi tin được nơi con người sự chia sẻ và tận tụy. Quỳnh chọn tôi như chính tôi đã chọn Quỳnh.
Cô đơn thương độc mã đến với tôi. Trước mặt không có chi, sau lưng cũng chẳng có gì. Quỳnh tự lập.
Tôi không tiếp xúc với người cha của Quỳnh. Tôi không rõ ông là loại người nào, kiểu ông Lý hay kiểu ông Phan. Nhưng tôi luôn luôn nghĩ rằng kiểu nào thì kiểu, Quỳnh đã đứng vững trong cuộc sống của cô.
Quỳnh không phải là thứ cây mọn bám vào gốc sồi già. Quỳnh sống đời sống của mình. Và tôi hiểu tôi không thể nào sống nếu thiếu Quỳnh.
“Quỳnh!”
Bỗng nhiên tôi rùng mình sợ hãi. Tôi nhận ra tôi đang bị mất một cái gì, như cái bình dưỡng khí của người bệnh đã bị người ta rút ra, mang đi khỏi phòng hồi sinh. Những ngày trong tù tôi nhớ Quỳnh nhớ con nhưng tôi vẫn yên tâm nghĩ rằng Quỳnh vẫn còn đó, vẫn có mặt trong căn nhà ở Khu Mã Lạng nghèo nàn kia. Và tôi đã đón nhận mọi việc đến với tôi trong nhà tù như đón nhận một việc không thể không đến được. Quỳnh chẳng phải là nổi ám ảnh của tôi bởi vì tôi đinh ninh là mình đang có Quỳnh.
Tôi bị mất tự do, nhưng tôi không phải là người cô đơn. Những chấn song sắt kia, cái căn phòng giam hôi hám này, những bữa ăn nghèo nàn thiếu thốn trăm thứ… không đè ép nổi tôi. Những người bạn tù sống khốn khổ gấp trăm lần tôi, dạy tôi bài học kiên nhẫn. Và trái tim tôi luôn luôn ấm áp vì bạn tù và vì hình ảnh Quỳnh lúc nào cũng nồng nàn trong trí nhớ tôi.
Quỳnh không phải chỉ là cái phao của đời tôi. Quỳnh còn là cái mẫu ánh sáng duy nhất trong đêm tối của hồn phách tôi. Tôi ngã xuống đời Quỳnh. Cái lạnh lẽo của tôi tan trong khí hậu nhiệt đới của Quỳnh.
Chính là nhờ Quỳnh, tôi khám phá ra tôi, nhận ra sự yếu đuối và cả sức mạnh của mình… Nhưng mà bây giờ đây, nằm trong căn phòng của ông bà Ngô, tôi có cái cảm giác của một người bị té sông, tay chân quờ quạng, đập đạp lia lịa vào một thứ chất lỏng không có chi bám víu. Và nước cứ tha hồ chui vào mắt, vào mũi, vào miệng tôi, đẩy tôi xuống, xuống mãi. Tôi đã mất tấm ván, cái phao để bám lấy. Cũng không còn cái ánh sáng trong đêm để tôi trông theo mà sống, mà đi. Tôi run rẩy. Tôi lo sợ hãi hùng. Cái cảm giác lạnh lẽo chạy lan khắp cơ thể tôi, kéo tôi ra khỏi trạng thái mê man thần trí. Và tôi nghe tiếng tôi hét to. Tôi không rõ là mình la cái gì.
Cửa phòng mở. Ông bà Ngô chạy vào. Ánh sáng của ngọn đèn bỗng vụt chói mắt.
“Cậu Thăng! Cậu Thăng!”
Bà Ngô ngồi xuống mép giường nắm tay tôi.
Ông Ngô đứng ngay giữa cửa.
“Cậu làm sao vậy?”
“Thưa bác, không có gì!” Tôi để yên tay tôi trong tay bà Ngô.
“Cậu thấy trong người ra sao? Có đỡ không?”
“Thưa bác, tôi khỏe. Tôi muốn hỏi thăm bác, nhà tôi…”
“Cô Quỳnh, tôi biết. Mà cậu đã khỏe chưa?”
Bà Ngô đặt tay lên trán tôi.
Bàn tay bà ấm. Dưới gọng kính lão, đôi mắt bà hiền từ.
“Anh Tư, anh lấy dùm em lá thơ của cô Quỳnh.”
Bà nói với ông Ngô giọng ngọt ngào như hai người trẻ tuổi yêu nhau.
“Cô Quỳnh có để lại cho cậu một cái thơ, nói chừng nào cậu về đưa dùm. Cổ đưa nhưng mà cổ nói thêm
không chắc gì cậu trở lại đâu. Cổ nói cậu đã tới đảo gì gì ở Mã Lai rồi. Suốt mấy tuần nay, cổ ẵm con sang đây khóc lóc, nói với tôi là cậu tệ bạc quá, sao ra đi mà không nói với mẹ con cổ một lời…”
Những điều bà Ngô nói làm tôi sửng sốt. Tin đồn ở đâu mà kỳ quái. Nhị Hà, Sáu Phận, rồi Mười Tân… ai cũng hé cho tôi biết là đã gặp Quỳnh, đã cho cô biết rằng tôi đang ngồi tù. Ai cũng cho tôi cái cảm tưởng là tôi được Quỳnh đứng ra chạy chọt lo lắng. Vậy nghĩa là sao?
“Cô Quỳnh nói cậu đã bỏ hai mẹ con cổ. Ở tù Rạch Giá có một tuần là cậu được thả rồi, cậu ra bến xe tình cờ gặp một cô gì ở Sài Gòn xuống, hai người quen nhau từ hồi nào, bây giờ gặp nhau, cô ta rủ cậu, cho cậu một chỗ trên ghe, rồi đi luôn.”
“Trời ơi!”
Tôi xoay người lại, bước xuống giường. Tôi thọc tay vào túi quần. Tôi đi qua đi lại. Tôi nhìn bà Ngô, rồi nhìn xuống bàn chân không giày dép của tôi. Tôi gãi tóc, gãi đầu. Tôi cắn ngón tay trỏ. Tôi đan hai bàn tay vào nhau. Tôi vòng tay trước ngực. Tôi nghe lạnh run, lạnh từ trong xương tủy lạnh ra.
“Trời ơi! Sao đến cớ sự này?”
“Mà bác Tư ơi, mẹ con nó đi đâu?”
“Cổ nói cổ cũng vượt biên, cổ đi tìm cậu, cổ hỏi cho ra lẽ, tại sao cậu đi mà không nói với mẹ con cổ một tiếng. Cổ nói cổ tin cậu, nhưn cổ không ngờ…”
“Mà hai mẹ con Quỳnh đi hồi nào Bác Tư?”
“Mới hồi sáng này chớ mấy! Ði ngõ Phan Thiết. Cổ đã đình lại ba lần rồi. Lần này cổ đi thiệt. Cổ nói chắc là cậu cũng đã đi thiệt rồi, nếu cậu chưa đi thì hoặc là cậu còn ở tù, hoặc là cậu phải về nhà. Mà tù thì nói không có tên cậu. Vậy chắc là cậu đã đi.”
“Bác Tư à, bác có thể nào cho tôi mượn đỡ ít tiền.”
“Chi vậy? Bộ tính đi Phan Thiết tìm mẹ con nó hả?”
“Dạ phải. Tôi muốn đi tìm mẹ con nó. Tôi lo quá!”
“Mỹ Trân!”
Ông Ngô gọi bà Tư.
“Cái thơ của cô Quỳnh em để đâu anh tìm không ra.”
“Ở dưới tượng Phật Bà chớ đâu. Mà thôi, anh để em lấy cho.”
Bà Ngô đứng dậy trở ra phòng khách.
Tôi phải làm sao bây giờ. Một đồng xu dính túi tôi cũng không có. Tôi cho tay vào hai túi quần trống rỗng. Tôi tìm túi áo. Tờ giấy mỏng dính xếp làm sáu. Tôi nhớ ra rồi. Mình còn có cái lệnh tạm tha. Tôi ngồi dậy, lấy tờ giấy ra, mở rộng, trải xuống mặt giường. Giấy tạm tha có ghi rõ ngày tháng, và nhà tù nào giam giữ tôi. Không biết bây giờ là mấy giờ.
Tôi chợt thấy hình như căn nhà ông bà Ngô trống vắng, tịch liêu. Tôi nhận ra hai em Ðạt và Vỹ không có ở nhà. Những gia đình ở Sài Gòn trong mấy năm nay “đầy vơi vơi đầy” là lẽ thường. Một buổi sáng tinh mơ dắt díu nhau đi. Một buổi tối chập choạng dắt nhau trở về. Ðôi khi gia đình chia làm hai. Chồng và con lớn đi trước, vợ và con nhỏ ở lại chờ chuyến sau. Chồng con chẳng may không đi trót bị giam, vợ ở nhà thăm nuôi, chạy chọt, lo cho chồng con ra. Rồi mót máy, vay mượn, giật gấu vá vai, lại làm một chuyến hải trình khác. Cái nhà tù nằm ở trước mặt, mặt biển, sóng gió, vực sâu nằm ở sân sau nhà tù. Ðến bến bờ tự do hay là chết, mọi người không nói ra lời đều thấy đó là châm ngôn của mình. Có lẽ Ðạt và Vỹ đã đi. Hay là hai em đã đi cùng với mẹ con Quỳnh?
“Thơ của cổ đây, cậu Thăng!”
Bà Ngô bước vào phòng đưa lá thơ còn trong phong bì cho tôi.
Ông Ngô đứng ở cửa:
“Cậu Thăng ăn chút gì nghen! Nhà tôi nấu cháo rồi!”
“Thưa Bác Tư!” Tôi ngập ngừng, “hai em đi chơi đâu mà giờ này chưa thấy về?”
“Hai đứa nó đi được rồi! Cả một tháng trời nay hai vợ chồng tôi ăn chay nằm đất cầu Trời khấn Phật…cháy ruột cháy gan, cậu Thăng ơi!”
“Hai em đã đi hơn một tháng rồi?”
“Phải, hơn một tháng nay. Gia đình của một người cùng đi chuyến với hai em đã nhận thơ, mà sao hai đứa nó vẫn chưa biên cho tụi tui chữ nào!”
Bà Ngô nói giọng lo lắng như sắp khóc.
Tôi cầm lá thơ của Quỳnh. Nét chữ tròn trĩnh mềm mại quen thuộc. Những chữ T, L, a và g rất đặc biệt của Quỳnh không giống chữ của bất cứ người nào. Tôi không mở vội thư. Tôi nhắc lại câu hỏi với bà Ngô:
“Bác Tư à, có thể nào bác cho tôi mượn đỡ ít tiền?”
“Bộ cậu tính đi Phan Thiết thiệt hả?”
“Dạ!…”
“Mà sao không đọc thơ đi, coi cổ nói cái gì ở trỏng!”
“Dạ!…”
“Chìa khóa nhà cậu tôi còn giữ đây. Cổ dặn tôi chừng nào công an khu vực có hỏi cứ nói cổ ẵm con đi thăm cậu làm việc ở dưới Minh Hải. Ðừng cho chị tổ trưởng ở đầu hẻm biết. Chừng nào cổ đi trót lọt biên thơ về thì khai báo cũng không muộn…”
“Dạ!…”
Bà Ngô có vẻ bỡ ngỡ khi thấy tôi không nói gì hơn chữ “dạ!”, ngó tôi chăm chăm. Sau cùng bà đứng dậy đến bên tủ thuốc lấy chiếc chìa khóa to bản móc trên cây đinh gần đó.
“Cậu muốn về nhà thì về. Muốn đi đâu cũng được. Nhưng phải ăn một chút cháo cho ấm bụng.”
“Dạ! Chắc tôi xin phép bác Tư về bển…”
“Thì cũng phải bỏ chút gì trong bụng chớ!”
Bây giờ tôi mới nghe gan ruột cồn cào. Ðói thật. Bà Ngô đứng dậy đi xuống bếp. Ðúng vào lúc đó đèn trong nhà tắt phụt.
“Anh Tư ơi!”, bà Ngô kêu chồng, “In hình hôm qua nhà đèn cúp rồi mà phải không anh?”
“Phải. Nhưng bữa nay là thứ Ba mà! Ðâu, anh tìm giùm em cái hộp quẹt coi!”
“Có liền! Có liền! Mà em đừng đi, cứ đứng đó anh đem xuống cho. Có lẽ bữa nay nó cúp đột xuất.”
Tôi nghe tiếng bật diêm quẹt, tiếng dép khua lết trên sàn nhà. Thoáng qua cánh cửa phòng tôi đang ngồi một ánh lửa lập lòe chực tắt trên tay ông Ngô. Mà lửa tắt thật. Tôi nghe tiếng ông Ngô càu nhàu. Lại quẹt thêm một lần nữa. Rồi một lần nữa.
“Hộp quẹt hồi này nó làm bằng đất sét chắc. Mười cây xài không tới một cây, mà phải mua chợ đen nữa chớ!”
Ông Ngô càu nhàu.
“Anh đưa cái hộp quẹt cho em. Sao anh nóng quá vậy!”
Tôi cầm chặt lá thơ của Quỳnh trong tay. Tôi muốn đọc ngay, nhưng tôi chỉ muốn đọc khi quanh mình không có ai. Tôi nhét lá thơ dày cộm vào túi áo. Tôi bước theo ông Ngô xuống nhà bếp.
Tô cháo bà Ngô giúp tôi tỉnh táo hẳn.
Tôi nuốt vội nuốt vàng.
Bà Ngô kín đáo đặt trên bàn một bao thư khác. Bà nói:
“Nếu cậu cần đi Phan Thiết tìm cô Quỳnh thì phải đi chuyến xe sớm nhất. Sợ không kịp.”
Tôi quyết định trở về căn nhà của chúng tôi, đốt nến đọc lá thư của Quỳnh chờ sáng.
Tôi nhất định phải đi tìm mẹ con Quỳnh.