← Quay lại trang sách

Chương Hai Mươi

Quán cà phê là sân của một ngôi biệt thự nằm khuất sau một bờ tường cao trơ trụi. Những chiếc bàn thấp đặt dưới những tàn cây. Cà phê thơm lừng. Thứ thiệt. Bánh “ba tê sô” nóng. Chỗ ngồi mát mẻ. Ðủ mọi loại người đang trò chuyện bên ly nước đen sánh bốc khói. Một quán cà phê rất Saigon trong một Saigon đang bị chìm khuất, u ám. Nó có cái vẻ thanh bình của những năm tháng trước Bảy Lăm. Nhưng mọi người đều biết không phải thế. Chỉ cần đặt chân ra khỏi cái cổng rỉ sét kia, người ta sẽ gặp một thế giới khác, in tuồng như cái cổng là rặng núi Pyrénées mà một bên là sai lầm, còn bên kia là chân lý.

Vũ ngồi đối diện tôi. Hai cánh tay anh xếp lại. Một khuôn mặt vuông. Ðôi mắt tình cảm. Da mặt xanh. Cái cảm giác lần đầu khi gặp Vũ là tôi đang đối diện với một tâm hồn yếu ớt và lãng mạn. Nhưng dần dần được đọc những bài viết của anh, tiếp xúc với anh, tôi hiểu cái cảm tưởng đầu tiên ấy là sai.

Cái bề ngoài của một con người đôi khi chả vẽ lên được bản chất của con người đó chút nào cả. Vũ có một tâm hồn khỏe mạnh, những suy nghĩ sâu sắc và thâm thúy. Các sáng tác thơ, truyện, và nhất là kịch của anh, không những chỉ được bạn bè và người đọc, người xem ở “ngoài đó” ưa thích mà đối với dân Saigon, những người nhạy cảm cũng tìm thấy một tâm hồn đồng điệu. Bảy năm sau ngày Saigon mất tôi gặp Vũ ở một hàng sách chợ trời đường Ðặng Thị Nhu. Con đường ấy, hai đầu được chận lại bằng cái rào gỗ đóng tạm. Sách báo trước Bảy Lăm không những chỉ bày trên vỉa hè mà con tràn ra cả mặt đường. Hôm đó tôi ngồi núp sau hàng sách của Vĩnh, uống cà phê. Vĩnh trước làm ở đài phát thanh Saigon, phụ trách một chương trình ca nhạc. Anh bị tật ở chân nên không phải đi lính. Gia đình Vĩnh vượt biên hết, anh nhất định không đi. “Ðể coi thử thời thế nó ra sao.”

Hàng sách của Vĩnh có đủ loại Anh, Việt, Pháp, Tàu, sách, báo, tạp chí… từ những cuốn xưa cũ đến những cuốn mới nhất. Xưa như Nam Phong Tạp Chí, Tản Ðà Vận Văn, gần nhất như tạp chí Sáng Tạo, Hiện Ðại, Bách Khoa, Trình Bày, Văn… mới như các tờ Newsweek, Time, Paris Match, L’Express… có hàng tuần do những người dọn dẹp phi cơ trên Tân Sơn Nhất tuồn ra. Những tạp chí này chỉ cần cho người thuê trong vòng một tuần. Vĩnh đã lấy lại vốn.

Còn sách cũ khi gặp mối, do những người có giấy xuất cảnh đi ngoại quốc hoặc do những người chuẩn bị vượt biên, anh mua cả tủ sách gia đình của họ, giá rất rẻ. Và sau đó, Vĩnh giữ giá bán lời lên cả mấy chục lần. Vĩnh cũng mua sách “Lê nin toàn tập” xé ra lấy giấy bán kí lô, còn bìa đem bán cho các nhà đóng sách. Tôi quen Vĩnh qua Tâm Khô Khốc Thiền Sư. Tâm là khách hàng của Vĩnh, sau khi đã là bạn của Vĩnh. Một người đọc sách nhiều như Tâm dễ làm khách ngộp thở. Một lần vào chơi nhà bạn, tôi chỉ thấy sách và sách, báo và báo. Ở chỗ nào cũng có sách. Sau Bảy Lăm, khi chợ trời sách bắt đầu xuất hiện, trước tiên là sách Hà Nội loại hiếm, sau đó là sách Saigon, loại đã bị Sở Văn Hóa Thông Tin tịch thu vì gán cho cái nhãn hiệu phản động và đồi trụy. Tâm gặp Vĩnh, và anh trở thành người cung cấp hàng sách đầu tiên cho “ông chủ sạp” sách Vĩnh.

Bán hết sách, Tâm đâm ra thèm và nhớ sách. Ngày nào cũng một lần đi chợ trời sách ngắm nghía những cuốn sách của chính mình bán ra. Lật lại từng trang, sờ từng gáy sách. Cuốn nào Vĩnh bán được cũng làm Tâm đau xót. Có lúc Tâm đề nghị mua lại những cuốn mình đã bán. “Ðể làm chi? Mày bán rồi mà!” Vĩnh hỏi. “Chẳng để làm chi hết!” Có lần, tình cờ ra thăm Vĩnh, Tâm thấy một người khách đang săm soi cuốn L’Être et le Néant của Jean Paul Sartre, Tâm trả giá cao hơn người khách và lấy lại cuốn sách mà ngay trang đầu có chữ ký của anh kèm theo con số ghi rõ ngày tháng mua.

Từ chiếc ghế thấp sau sạp sách, vừa nhấp cà phê vừa nhìn những người qua lại mua bán sách, tôi chợt thấy một người đàn ông tròn và hơi thấp, mang dép da, mặc quần jean xanh, đang cúi xuống cuốn Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền. Một lúc sau anh ta cầm lên lật từng trang đọc rất nhanh.

“Tôi muốn mua cuốn này.” Người đàn ông nói, mặt hướng về phía tôi. Có lẽ anh ta nghĩ tôi là chủ sạp.

Tôi thấy một khuôn mặt vuông vức, cằm bạnh, nước da tái, hai con mắt buồn rầu, giọng nói rõ ràng không phải là dân Saigon.

“Vĩnh, có người mua sách!”

Tôi đặt ly cà phê xuống dưới đất. Vĩnh bước ra, liếc mắt nhìn tựa đề cuốn sách và chỉ thoáng liếc thấy mắt của người khách, Vĩnh nói một cái giá mà tôi vừa nghe đã đỏ lỗ tai. Chỉ mấy năm làm nghề bán sách chợ trời Vĩnh khám phá ra cái giá của cuốn sách tùy thuộc vào con mắt của người khách.

“Khi người ta kết cuốn sách rồi thì bất cứ giá nào họ cũng mua.” Ðó là bí quyết của Vĩnh.

Người khách nói:

“Ðắt qua! Tôi tưởng giá vừa phải thì tôi lấy quyển này!”

“Ông muốn bao nhiêu?” Vĩnh hỏi lại, rõ ràng là sẵn sàng hạ giá.

“Tôi chỉ còn có hai chục thôi.”

“Không được đâu ông. Giá chót là một trăm.” Vĩnh nói chắc như đinh đóng cột.

Người khách đặt cuốn sách trở lại chỗ cũ.

“Tiếc quá. Tôi không đủ tiền.” Anh ta vừa nói vừa bỏ đi.

“Thôi, để tôi bớt một tiếng chót. Tám chục.” Vĩnh lại ra giá.

Anh ta lắc đầu, khuôn mặt vuông tái lại, nụ cười buồn. Bỏ đi.

“Cám ơn. Ðể chừng nào mượn đủ tiền tôi sẽ quay lại.”

Hôm đó tôi có tiền, không nhiều, một số tiền tàm tạm nhờ bán bộ đồ vía sau cùng, kèm theo hai lố khăn mù soa Quỳnh đã mua tặng sinh nhật tôi năm Bảy Tư.

Tôi đứng dậy nói với Vĩnh:

“Ông để tôi mua cuốn đó.”

Và thật nhanh, tôi chộp cuốn Bếp Lửa chạy theo người đàn ông.

“Sách đây ông! Người ta chịu bán giá hai chục rồi!”

Người đàn ông nhìn thẳng vào mặt tôi, thoáng một cái tôi có cảm tưởng như anh ta biết là tôi nói dối.

“Ðây, sách của ông đây!” Tôi dúi cuốn sách vào tay anh ta.

Ðúng như tôi nhận thấy cái thoáng mắt ấy, sau này Vũ nhắc lại chuyện cũ hỏi tôi, “Sao anh tặng sách cho tôi, khi mà mình chưa quen nhau?”

“Không biết. Lúc đó tôi nghĩ là tôi thích anh vì anh cũng thích cuốn sách mà tôi thích.”

Bẵng đi một thời gian khá lâu, tôi gặp lại người khách mua sách tại một quán cà phê với Tâm Khô Khốc Thiền Sư.

“Ðây là anh Vũ. Lâm Quốc Vũ. Nhà viết kịch. Và đây là Thăng, bạn tôi.”

Tôi bắt tay Vũ nhớ ra lần gặp gỡ ở sạp sách của Vĩnh. Vũ cũng vậy, anh nhìn ra tôi ngay.

“Quen nhau rồi à?” Tâm hơi ngạc nhiên.

“Không. Chỉ mới biết nhau thôi.” Vũ nói, “Nhưng cũng nhờ ông Thăng này mà tôi biết ông Tâm.”

“Tại sao?” Lần này tôi ngạc nhiên.

“Bởi vì, tôi đọc cuốn Bếp Lửa, in lần thứ hai có lời tựa của ông Tâm này. Nhờ đó mà tôi quen. Chẳng phải sao?”

“Trời ơi! Sao mà rắc rối!” Tôi đập tay lên trán.

Và như thế chúng tôi quen nhau.

Vũ nói: “Tôi sắp về Hà Nội. Người ta đang dựng một vở kịch mới của tôi. Tôi không biết vở này có được trình diễn không. Dù sao…”

Vũ không nói hết câu. Vở trước bị cấm sau khi diễn phúc khảo, chỉ vì Vũ đã để cho một nhân vật câu cá ở Hồ Tây khi bị công an bắt đã nói rằng: “Ông bắt được tôi chỉ vì tôi ngủ gục chứ nếu tôi tỉnh táo thì…”

Vũ không phải gốc người Hà Nội, nhưng cung cách của anh rất là Hà Nội xưa. Ðiềm đạm, từ tốn. Người ta nói quê anh ở Ðà Nẵng theo cha tập kết ra Hà Nội. Tại đây anh đi học rồi đi bộ đội. Ðào ngũ khi theo “quân giải phóng” đánh trận Hạ Lào. Trở lại Hà Nội, Vũ sống lêu bêu không “hộ khẩu.”

Người vợ trước của Vũ là một nữ diễn viên điện ảnh, sống ngay với một người khác khi anh vừa đi bộ đội.

Trong thời gian sống chui rúc, Vũ làm thơ viết văn. Sau khi tập thơ đầu tay ra đời, in chung với một người bạn khác, Vũ bắt đầu viết kịch. Trong tình hình sân khấu thiếu kịch bản, hai vở kịch của Vũ gửi đến tạp chí Sân Khấu trở thành bùa hộ mệnh của anh. Hội Nghệ Thuật Sân Khấu bắt được một tay có cỡ đi theo ngành này, nên đứng ra che chở anh, cho anh một chỗ ở tạm tại cơ quan tờ báo. Thế nhưng trong hai năm trời, Vũ sáng tác sáu vở, và gần như vở nào cũng có vấn đề đối với đảng và nhà nước.

“Hôm qua tôi vừa đi họp một hội nghị về sân khấu.” Vũ uống một hớp cà phê, “Người ta nói tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa văn nghệ, để phát triển tài năng. Tôi có nêu trường hợp mấy vở kịch của tôi bị kiểm duyệt quá kỹ, cắt xén nhiều đối thoại, thậm chí đổi cả tính cách nhân vật. Và tệ nhất là sau cùng còn cấm không cho trình diễn nữa.”

“Như vậy theo anh có tự do trong nghệ thuật dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hay không?”

Vũ ngồi im không trả lời. Hai con mắt anh nhắm lại. Hai bàn tay mở ra. Anh ngó chăm vào những đường chỉ tay như săm soi tìm kiếm điều gì đó. Tôi đốt thuốc. Thuốc Vàm Cỏ khét nghẹt. Tôi nhớ hình như vang vọng đâu đây bài hát đang ăn khách Vàm Cỏ Ðông, Vàm Cỏ Tây:

Ở tận sông Hồng em có biết

Quê hương anh cũng có dòng sông.

Mẹ, quê hương ai mà chả có dòng sông.

Rồi tôi nhớ tới cái anh chàng bộ đội làm thơ mà tôi đã gặp trong một quán cà phê trước ngày tôi ngồi tù. Cũng Tây, cũng Ðông. Mà không phải Vàm Cỏ. Chỉ là Trường Sơn. Anh ta nói anh ta mê tiếng hát Khánh Ly. Khi mới đặt chân tới Sài Gòn, trong cái ngổn ngang của một thành phố bị chiếm đóng, trên vai vẫn còn mang ba lô anh ta đi hỏi thăm Khánh Ly và khi biết người nữ ca sĩ mà mình ưa thích đã bỏ đi, anh ta làm một bài thơ. Câu duy nhất mà tôi còn nhớ trong bài thơ đó là: Ðã khánh tận đâu mà em ly biệt. Anh ta đã kể lại như vậy và chỉ vài năm sau, anh thấy câu thơ của mình sai. Ðã khánh tận rồi nên em biệt ly…

Anh ta đọc cho tôi nghe hai câu thơ của anh đã làm anh khổ sở:

Khói bom lên trời thành một vòng đen

Trên mặt đất hiện bao nhiêu vòng trắng.

Cái thằng cha này coi bộ vậy mà hay. Mình đã lếch thếch kể từ khi cách mạng vô, nó là cách mạng thứ thiệt còn lếch thếch hơn mình.

“Này!” Vũ đập tay lên tay tôi, “Có lẽ tôi phải đi.” Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi tôi.

“Ngồi lại một tí nữa thôi. Tôi cũng sắp đi mà!”

“Còn anh, anh nghĩ sao?”

“Nghĩ cái gì?”

“Cái mà anh gọi là tự do…”

“Theo tôi,” tôi nhìn người khách-bạn nói, “chắc chắn là không có chuyện tự do dưới chế độ này. Tôi chỉ thấy bích chương tuyên truyền chứ không thấy họa phẩm. Chỉ có… những cuốn sách hô hào chống Mỹ-Ngụy chứ không thấy tác phẩm văn học…”

“Theo tôi,” Vũ nói, “cái chính không phải là điều anh vừa nói.” Có lẽ anh thấy không tiện trả lời tôi về cái vụ có hay không có văn chương. Rõ ràng là mắt anh không đồng ý cái suy nghĩ hàm hồ của tôi. Anh nói, “Ghê tởm là sự giả dối. Hôm trước ông tổng bí thư tuyên bố cởi trói văn nghệ sĩ, kêu gọi văn nghệ sĩ phải nói lên sự thật, dù là sự thật phũ phàng. Ông ta nói. Dù thế nào các đồng chí cũng không nên bẻ cong ngòi bút của mình. Ấy vậy mà hôm sau, vở kịch tôi bị cấm trình diễn. Lý do nêu ra hết sức đơn giản: chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình, phá hoại nhân phẩm.”

“Nhưng tôi thấy kịch anh vẫn có vở được trình diễn mà!”

“Ừ, thì cũng có vở được trình diễn chứ. Nhưng mà, anh không thấy sao, một tình trạng độc đoán về tư tưởng như vậy, văn học nghệ thuật chỉ có khô kiệt, chứ làm sao mà nảy nở được…” Trầm ngâm một lúc, Vũ tiếp:

“Ôi, chỉ cần một người suy nghĩ giùm cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi cái đầu khác, cũng đủ rồi!”

“Tôi muốn hỏi anh một câu…”

Vũ đặt ly cà phê xuống bàn, ngó vào mắt tôi, chờ đợi.

“Có bao giờ anh nghĩ tới chuyện vượt biên chưa?”

“Tôi có một số bạn quen đã vượt biên. Tôi không nghĩ đến chuyện đó. Tôi chọn ở lại đất nước này. Có người thân rủ tôi đi đường bộ qua cửa hữu nghị quan vào đất Trung Quốc. Tôi thấy mình không có lý gì để vượt biên. Còn anh thì sao?”

“Có phải anh muốn lên án những người vượt biên không?”

“Không. Hoàn toàn không! Tôi tin tưởng rằng những người bỏ nước ra đi đều có lý lẽ riêng của họ. Cũng như tôi, tôi tự hiểu tại sao tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện ra đi.”

“Tôi thì trái lại, tôi luôn luôn nghĩ đến chuyện phải ra đi. Vợ con tôi đã đi. Bạn bè tôi kẻ trong tù, kẻ đã chết, kẻ đã đi. Người ta không đi tìm một tình bạn khi đã quá cái tuổi bốn mươi.”

Vũ không tiếp lời tôi. Anh cúi xuống ly cà phê như đang soi tìm điều chi trong đáy cốc nước đen sánh.

“Cũng chẳng ai đi lính, học nghề, theo cách mạng… ở cái tuổi nhi bất hoặc này.”

Vũ ngước lên, hai con mắt buồn rầu của anh ngó chăm vào mắt tôi.

“Tôi vừa mới qua cái tuổi ba mươi. Tôi đoán chừng tôi thua anh đến dăm ba tuổi. Cũng như anh, tôi đã hai lần lập gia đình. Nhưng vào trong Nam này tôi mới biết tôi đang có trong tay quá nhiều cái đáng xem, đáng nghe, đáng nói và đáng viết. Nhưng xem vậy mà chả biết thế nào là đủ cho một người cầm bút.”

Tôi có kể cho Vũ nghe về tôi. Hai lần lập gia đình của đời tôi là hai lần thất bại. Người đàn bà đầu tiên đã đến với tôi bằng tình yêu và chia tay tôi trong thù hận. Những đứa con chung của chúng tôi trở thành cái thùng đựng những lời nguyền rủa của bà mẹ căm ghét người cha của chúng. Tôi không hiểu tại sao. Tôi tìm kiếm cho người đàn bà ấy lý do để căm thù tôi và tôi thấy có quá nhiều lý do để tôi khinh bỉ bà ta. Ðể tỏ ra mình cao thượng, tôi cố thấy mình có lỗi.

Người ta không thể buộc tội một người cha quá yêu con, người ta cũng không thể lên án một người đàn ông lúc nào cũng chăm sóc gia đình nhà cửa. Người ta càng không thể trách cứ một người chồng không hề biết ghen là gì. Tôi không nhìn ra rằng tôi có một tội rất lớn đó là sự không biết làm ra tiền trong một xã hội mà đồng tiền là thước đo của mọi giá trị. Mãi về sau này, khi tôi đã mất thêm người đàn bà thứ hai – cứ cho việc Quỳnh bỏ đi vượt biên như là một hình thức chạy trốn tôi – tôi còn nghiệm ra rằng thật ra tôi là một thứ người không biết yêu. Trong trái tim tôi, mọi thứ đều nhòa nhạt như thể tất cả đều chìm dưới một làn mưa. Cái nhìn của tôi bao giờ cũng phải lọc qua một tấm kính đục mờ.

Tôi không yêu nổi chính con người tôi, tôi còn có thể yêu nổi được ai. Và như vậy nếu không ai yêu tôi, không yêu nổi tôi, điều đó cũng chẳng có chi là lạ. Những biến cố chính trị và thời sự có tác động đến nếp sinh hoạt tôi, nhưng hình như vẫn không làm thay đổi con người tôi: Tôi dửng dưng với tôi.

Tôi nhàm chán tôi. Ngay cả trong tình bạn tôi cũng thiếu luôn cái nồng nhiệt và tận tụy. Tôi yêu một người bạn, không có nghĩa là tôi cứ phải gặp gỡ anh ta, cứ phải bênh vực những điều anh ta suy nghĩ, làm hay nói ra. Tôi yêu một người bạn có nghĩa là tôi giữ lòng quý trọng bạn, ngay cả trong khi tôi chống bạn. Tôi có đúng chăng, tôi không biết. Bạn bè tôi đã đi tản mạn. Người duy nhất tôi còn gặp là Tâm. Một người còm cõi, đen đúa. Hai con mắt sâu hoắm trên một khuôn mắt nhô xương. Một dáng tất bật. Một nụ cười rất buồn. Những ngón tay vàng khói thuốc…

Chính Vũ tìm đến Tâm và nói cho anh biết là Vũ thán phục bài viết của anh. Và Tâm cũng nhận ra rằng anh đang đối diện với một tài năng. Vũ kể người vợ trước của anh là một diễn viên điện ảnh. “Cô ta đẹp lồ lộ và yêu tinh lắm.” Họ có với nhau một đứa con trước ngày Vũ đi bộ đội. Khi được lệnh theo quân đi chiến dịch Hạ Lào, Vũ đào ngũ. “Không, người ta sinh ra không phải để chém giết nhau,” Vũ luôn luôn nghĩ như vậy.

Anh sống chui rúc từ nhà người bạn này đến nhà người quen khác. Những căn “hộ” vốn chật hẹp, không tới chín thước vuông mà chứa đến bốn năm con người, chỗ nằm cũng là phòng khách, là bàn viết, là bếp núc, là thứ gì cũng được. Sau cùng Vũ chui vào hội Nghệ thuật Sâu khấu. Anh viết một kịch bản. Tác phẩm như một tấm giấy tùy thân, như cái nón che đầu. Vũ tìm được một chỗ để thở là một góc trong căn phòng làm việc của hội để đêm đêm có chỗ trải chiếc chiếu, giăng cái màn.

Người đàn bà thứ hai Vũ yêu và rất yêu anh là một phụ nữ bình thường. Chị mồ côi từ lúc còn rất bé. Chị sống gian khổ và lập gia đình với một đảng viên cao cấp. Ðó là một người chồng giả dối. Y húc vào đời chị như một con heo húc mõm vào chậu cám. Y nói chuyện đạo lý trong khi y đi đến đâu để con rơi con rớt đến đấy. Y luôn mồm đăng đàn diễn thuyết nói về người phụ nữ đã được giải phóng, trong khi chính chị là nạn nhân của những hành vi thô bỉ của y. Y sống trong một căn nhà khá rộng so với nhiều cán bộ đảng viên ở Hà Nội. Y hưởng chế độ đặc biệt: mua bán ở những quầy hàng đặc biệt với hàng hóa thực phẩm có phẩm chất cao với giá rẻ. Và chị chỉ là con vật phục vụ cho hắn từ nhà bếp đến cái giường. Chị làm quen với Vũ khi lần đầu tiên xem kịch anh ở Hà Hát Lớn. Chị là một phụ nữ đặc biệt. Chị thắm thía những lời nói và suy nghĩ của nhân vật trong kịch của Vũ. Chị nói anh nghe những điều chị nghĩ về kịch của anh. Và họ yêu nhau. Người chồng đảng viên cao cấp của chị biết. Y đưa nội vụ ra “tổ chức.” Vũ bị công an “hỏi thăm.” Chị tiếp tục bị y hành hạ. Y nhốt chị trong nhà như người ta nhốt một con chó. Các vở kịch của Vũ bị soi mói từng dòng, từng chữ. Các nhân vật của Vũ bị giải thích là ám chỉ “các đồng chí lãnh đạo kính mến,” phỉ báng lãnh tụ, coi thường những thành quả to lớn của cách mạng, đi chệch hướng, tư tưởng lệch lạc, văn chương theo “chủ nghĩa hiện đại…”

Nhưng tình yêu họ mạnh hơn mọi sự áp chế. Hai người được bạn bè bao che, gỡ bỏ dần những sợi dây trói buộc họ về mặt chính trị. Họ sống với nhau như thể hai người trẻ tuổi lần đầu tiên gặp nhau và yêu nhau.

“Vả lại,” trầm ngâm một lúc lâu, Vũ tiếp, “cũng như anh, tôi không thể nào đi học một cái nghề vào cái tuổi đã không còn trẻ nữa. Ngay như ở đây, tại Sài Gòn này, mà tôi còn thấy mình sống còn khó huống gì là đến một nước Tây phương… Nhưng mà, anh Thăng này, tôi có điều muốn hỏi anh…”

Vũ ngập ngừng, lấy cái thìa ra khỏi ly cà phê, đặt xuống thành dĩa:

“Anh nghĩ gì về tôi khi anh rủ tôi vượt biên? Anh không sợ sao?”

“Anh có nghĩ rằng anh là người đáng cho tôi sợ vì anh có can đảm bán đứng một người bạn không?”

Vũ không trả lời tôi. Anh bưng ly cà phê lên chiêu một ngụm.

“Không khí ở đây êm đềm quá nhỉ?”

“Nhưng mà ở ngoài kia, anh có biết mỗi căn nhà của bốn triệu dân thành phố này đang có bao nhiêu là sóng gió. Cả cái miền Nam này biết bao nhiêu là tủi nhục xót xa, chia lìa và chết chóc.”

“Anh đừng quên cả miền Bắc từ năm Năm Mươi Tư mười mấy triệu con người cũng đã sống như thế. Sống như thế gần ba chục năm trời rồi. Và không biết còn đến bao giờ nữa…”

“Như vậy theo anh, chọn ở lại phải chăng là để chịu đựng một đời sống như trong một trại súc vật?”

“Tôi không nghĩ vậy. Chọn ở lại có nghĩa là tôi không muốn nhìn thấy cái đất nước này là một trại súc vật.”

“Liệu có ai làm nổi chuyện này không?”

“Liệu còn có con người nào chịu suy nghĩ và muốn làm điều đó không?”

Tôi nhìn Vũ. Ðôi mắt anh đỏ, hai con mắt lấp lánh màu xanh trong. Cái vẻ thư sinh của anh đã đánh lừa tôi. Vũ là một con người dũng cảm.

“Có lẽ tôi phải đi.” Tôi nói với Vũ, sau khi đặt tiền lên mặt bàn.

“Bao giờ anh lên đường?” Vũ nhìn thẳng vào mắt tôi, “Tôi hỏi câu này không tế nhị, nhưng tôi muốn từ giã anh… không biết lần sau tôi vào Sài Gòn tôi còn có dịp nào gặp lại anh nữa không?”

“Chưa. Tôi không đủ phương tiện để đi. Nhưng nếu gặp cơ hội, chắc tôi sẽ không chần chờ đâu.”

“Chúc anh Thăng may mắn.” Vũ đứng dậy bắt tay tôi.

“Còn anh, anh muốn tôi chúc điều gì?”

“Chúc cho tôi có thì giờ và không ngồi tù.”

“Xin chúc cho anh như vậy đi!”

Tôi đứng dậy, bắt tay Vũ.

“Anh có muốn tôi đưa anh về không?”

“Cám ơn, tôi có xe!”

Tôi nhìn theo Vũ đẩy xe ra cổng. Hai tay giữ ghi đông, chân trái đặt trên pê đan, anh nhấp nhấp lấy đà và vòng chân phải qua bánh sau. Vũ đạp xe về phía ngã tư Duy Tân.

Tôi không biết rằng đó là lần cuối cùng tôi gặp anh.